Cảm nhận bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương tuyển chọn 7 bài văn mẫu hay nhất kèm theo dàn ý tham khảo. Thông qua cảm nhận Tự tình 2 các bạn lớp 11 có thêm nhiều gợi ý học tập, trau dồi vốn văn chương của mình, hoàn thiện bài văn khi ôn tập, rèn luyện và làm các bài kiểm tra sắp tới đạt kết quả tốt.
Với 7 mẫu cảm nhận Tự tình 2 dưới đây các em sẽ biết cách làm văn thế nào cho mượt, hay có thể lấy thêm ý văn hay rồi từ đó diễn đạt lại theo lối hành văn của chính mình. Ngoài ra các bạn xem thêm phân tích Tự tình 2.
Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Dàn ý cảm nhận bài thơ Tự Tình 2
1. Mở bài
– Giới thiệu về bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương: “Bà chúa thơ Nôm” có chùm thơ “Tự tình” bao gồm ba bài, là tiếng nói của thân phận, là những khát khao, đau buồn của kiếp người. Trong đó, bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện rõ tâm trạng, thái độ của nữ sĩ: vừa buồn đau, vừa phẫn uất trước nghịch cảnh éo le cùng khát vọng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.
2. Thân bài
– Bốn câu thơ mở đầu bài thơ đã cho thấy hoàn cảnh và tâm trạng của nữ sĩ
- Hoàn cảnh:
- Thời gian nghệ thuật: đêm khuya.
- Tiếng trống canh giữa đêm khuya cho thấy cảm nhận về bước đi dồn dập của thời gian.
- Tâm trạng buồn tủi của nữ sĩ:
– Những từ ngữ giàu giá trị biểu cảm đã được sử dụng để thể hiện tâm trạng: “Trơ” được đặt đầu câu kết hợp với biện pháp đảo nhấn mạnh cảm giác tủi hổ, chai lì. Hai chữ “hồng nhan” lại đi với từ “cái” gợi lên ý thức về sự rẻ rúng, mỉa mai của thân phận.
“Vầng trăng bóng xế” (trăng sắp tàn) mà vẫn “khuyết chưa tròn” trở thành hình ảnh ẩn dụ, nhấn mạnh hai lần bi kịch của cuộc đời nữ sĩ: tuổi xuân trôi qua mà nhân duyên vẫn không trọn vẹn.
– Ý thức sâu sắc về bi kịch tình duyên, tác giả không chỉ cảm thấy bẽ bàng, tủi hổ mà còn phẫn uất
- Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những nét chấm phá về rêu và đá hiên ngang tồn tại đầy mạnh mẽ: : “xiên ngang mặt đất”, “đâm toạc chân mây”.
- Biện pháp đảo ngữ đưa những động từ mạnh lên đầu câu:
– Làm nổi bật sức sống mãnh liệt của cỏ cây.
– Ẩn dụ cho tâm trạng phẫn uất muốn vượt lên trên nghịch cảnh éo le của tác giả.
– Bài thơ kết thúc cũng bằng cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng chán chường, buồn tủi.
- “Ngán” mang sắc thái chỉ sự chán ngán, ngán ngẩm.
- Từ “xuân” được điệp lại hai lần mang những sắc thái ngữ nghĩa khác nhau: vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ tuổi xuân.
- Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng được sử dụng với hai sắc thái ý nghĩa khác nhau: từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ “lại” thứ hai có nghĩa là quay trở lại, gợi lên sự tuần hoàn, lặp lại.
3. Kết bài
Khái quát giá trị của bài thơ: Bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện một cách sâu sắc, mãnh liệt khát vọng sống, khát vọng tự do và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn một người phụ nữ vừa dịu dàng, đằm thắm vừa mạnh mẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua tài năng trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng của “Bà Chúa thơ Nôm”.
Dàn ý cảm nhận Tự Tình 2
1. Mở bài
“Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương thường có giọng thơ khinh bạc, mỉa mai. Bên cạnh giọng thơ khinh bạc ấy, ta lại bắt gặp một trong những bài thơ tả cảnh ngụ tình khác sâu sắc và ý tứ chân thành nhằm giãi bày tâm sự của mình. Bài thơ Tự tình II là một trường hợp như vậy!
2. Thân bài
a. Đêm khuya cô đơn
– Hai câu đề là cảnh đêm về khuya, tiếng trống canh từ xa văng vẳng và dồn dập đổ về. Trong thời điểm ấy, nhân vật trữ tình lại trơ trọi đáng thương và “cái hồng nhan” đã cụ thể hoá một cá thể đang cô đơn, thao thức và dằn vặt.
– Hồng nhan nhằm để nói “phái đẹp” nhưng lại được trước nó là trạng từ “trơ”, khiến cho câu thơ đậm đặc cái ý chán chường. Rồi lại “cái hồng nhan” thì quả là khinh bạc.
– Lấy “hồng nhan” mà đem đối với “nước non” thì quả thật là thách thức nhưng cũng thật sự là mỉa mai, chua chát. Phép tiểu đối thật đắt và thật táo bạo nhưng phù hợp với tâm trạng đang chán chường, trong hoàn cảnh đang cô đơn, trơ trọi. Nỗi cô đơn ngập đầy tâm hồn đến mức phải so sánh nó ngang bằng với các hình tượng của thiên nhiên tạo vật.
Hai câu thơ diễn tả tình cảnh cô đơn của người phụ nữ trong đêm khuya thanh vắng. Đó là nỗi dằn vặt và sắp bộc lộ, giãi bày một tâm sự.
b. Cảnh ngụ tình
– Đến hai câu thực ta nghe thoảng men rượu từ cơn say trước đó nhưng đã thoảng bay đi. Hương rượu chỉ sự thề hẹn (gương thề, chén thề) nhưng hương đã bay đi dù tình còn vương vấn. Cá thể đã tỉnh rượu nên càng nhận ra nỗi trống vắng, bạc bẽo của tình đời.
– Trăng gợi lên mối nhân duyên, nhưng trăng thì “khuyết chưa tròn”, ngụ ý tình duyên chưa trọn, không như mong ước, khi mà tuổi xanh đã lần lượt trôi đi.
– Hai câu luận là nỗi bực dọc, phản kháng, ấm ức duyên tình.
Hình ảnh hết đám rêu này đến đám rêu khác “xiên ngang mặt đất” như trêu ngươi nhà thơ. Rêu phong là bằng chứng về sự vô tình của thời gian, nó là hiện thân của sự tàn phá chứ không phải chở che cho tuổi đời. Thế rồi nhà thơ bực dọc vì tuổi xuân qua mau, đời người ngắn ngủi, nhỏ bé, nên:
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn
“Mấy hòn đá” không những đứng sừng sững ở chân mây mà còn “đâm toạc” thể hiện thái độ ngang ngạnh, phản kháng, ấm ức của nhà thơ về duyên tình lận đận…
c. Lời than thở
– Lời than thở cùng chính là chủ đề của bài thơ. Năm tháng cứ trôi qua, xuân đi rồi xuân lại mà duyên tình vần chưa được vuông tròn. Xuân thì đi rồi trở lại với thiên nhiên đất trời, nhưng lại vô tình, phũ phàng với con người.
– Kẻ chung tình không đến, người chung tình thì cứ chờ đợi mỏi mòn mà thời gian thì cứ trôi đi, tuổi xuân tàn phai. Mảnh tình quanh đi quẩn lại vẫn chỉ là “san sẻ tí con con”. Câu thơ cực tả tâm trạng chua chát, buồn tủi của chủ thê trữ tình.
3. Kết bài
– Có đa tình mới tiếc xuân, trách phận và mới có giọng tự tình. Giọng thơ đầy đù cả sắc thái tình cảm: tủi hổ, phiền muộn, bực dọc, phản kháng rồi kết bằng chua chát, chán chường vì tình duyên chưa trọn.
– Hồ Xuân Hương đã góp vào kho tàng thơ Nôm Việt Nam một tiếng thơ táo bạo mà chân thành, mới lạ mà vẫn gần gũi với thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công ngày ấy. Đó là một xã hội đã làm cho biết bao nhiêu thân phận “hồng nhan” bị lỡ làng và khổ đau.
Cảm nhận Tự tình 2 đạt điểm cao – Mẫu 1
Thơ là thư kí của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn thi sĩ. Nó phản ánh cuộc sống của con người, xã hội, để qua đó người nghệ sĩ bộc bạch nỗi lòng mình. Hay nói cách khác, mỗi bài thơ chính là tiếng hát của trái tim, được thể hiện như một hình thức nghệ thuật cao quý, tinh vi. Trong những nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Xuân Diệu… Hồ Xuân Hương nổi lên như một hiện tượng văn học độc đáo. Được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”, Xuân Hương đem “tiếng lòng” của mình và những người phụ nữ xã hội xưa vào thi ca. Bà có cuộc đời và tình duyên éo le, trắc trở nên đã mượn ngòi bút để cất lên tiếng nói thương cảm cho thân phận người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đã để lại cho văn học Việt Nam nhiều bài thơ giá trị như “Bánh trôi nước”, “mời trầu”… Tiêu biểu trong đó là “Tự tình II”. Bài thơ đã bộc lộ tâm trạng vừa buồn tủi vừa phẫn uất trước duyên phận éo le và khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn nhà thơ.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mối tình san sẻ tí con con.”
“Tự tình II” Nằm trong chùm thơ Tự tình gồm 3 bài. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, nhưng cái đặc sắc ở đây là tác giả không viết bằng chữ Hán mà là chữ Nôm. Bà đã “Việt hóa” thể thơ của người Hoa để bộc lộ suy nghĩ người Việt, tâm hồn người Việt. Đúng như giáo sư Lê Trí Viễn từng nói: “Dưới ngòi bút của Hồ Xuân Hương, Đường luật mất hẳn cốt cách quý tộc mà ngoan ngoãn cung hiên vần điệu cần xứng của mình cho và sử dụng theo ý muốn”. Nhan đề “Tự tình” của bài thơ là tự bộc lộ, giãi bày tâm trạng, tình cảm của mình, hay nói cách khác, đây chính là sự hé mở nỗi lòng khó nói của tác giả.
Hai câu đề đã mở ra thời gian và không gian nghệ thuật rất đặc biệt:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Đêm đã về khuya, là khi tác giả đang thao thức trong nỗi cô đơn, đợi chờ. Tính từ “văng vẳng” đã được nữ sĩ sử dụng rất tự nhiên, tinh tế, khiến ta cùng lúc nhận ra không gian vừa mênh mông vừa vắng lặng lúc nửa đêm. Ở đây, Xuân Hương đã khéo léo sử dụng bút pháp nghệ thuật quen thuộc của thi pháp cổ điển là lấy động tả tĩnh. “Trống canh dồn”, tiếng trống canh thôi thúc, gấp gáp, liên hồi thể hiện bước đi dồn dập của thời gian. Tiếng trống của tâm trạng – tâm trạng rối bời vì thời gian trôi qua nhanh có nghĩa là tuổi xuân của nhà thơ cũng qua mau. Cách cảm nhận bước đi của thời gian qua tiếng trống điểm canh là cách cảm nhận rất đỗi Á Đông. Đó là thời gian tâm lí thấm đậm chất trữ tình. Đêm khuya là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, đó lại cũng là lúc lòng người sâu lắng nhất, là lúc con người đối diện với chính bản thân mình. Mở đầu bài thơ, ta đã cảm nhận được cái buồn man mác len lỏi trong từng câu chữ được gợi ra từ sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tiếng trống văng vẳng không quá gần mà lại nghe thấy cái nhịp “dồn” vội vàng , gấp gáp… Bởi, đó là tiếng trống gợi sự bước đi của thời gian, gợi sự tàn phá và nó được nghe bằng tâm trạng của người phụ nữ mang tâm thức cô đơn, ám ảnh trước thời gian. Không gian và thời gian đã được mở ra như thế, rất tài tình và tinh tế. Nhà thơ đã cảm nhận sự bẽ bàng của duyên phận qua câu thơ “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu gây ấn tượng mạnh mẽ. “Trơ” là tủi hổ, là bẽ bàng. Thêm vào đó là hai từ “hồng nhan” là để chỉ sắc đẹp của người con gái, mà lại đi với từ “cái” thì thật rẻ rúng, mỉa mai. Cái hồng nhan “trơ” ra với nước non, với không gian, thời gian. Câu thơ đã gợi lên sự hồng nhan bạc phận. Vì vậy, nỗi xót xa càng thấm thía, đau xót. Nhịp điệu 1/3/3 cũng là để nhấn mạnh sự bẽ bàng. Trong văn cảnh này, chữ “trơ” không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng mà còn là thách thức. “Từ “trơ” kết hợp với nước non thể hiện sự bền gan, thanh đố. Như vậy ở đây ra thấy được bên cạnh nỗi đau Xuân Hương là bản lĩnh Xuân Hương.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Ở hai câu đề, nữ thi sĩ đã tái hiện cho chúng ta thấy một không gian vắng lặng lúc đêm khuya. Trong thời khắc ấy, khi chủ thể trữ tình vẫn còn thao thức chưa ngủ ắt hẳn có điều gì trăn trở. Như thách thức số phận, nhà thơ mượn rượu để quên đi nỗi sầu. Cụm từ “say lại tỉnh” như là một vòng luẩn quẩn lặp đi lặp lại, tình duyên như trở thành trò đùa, càng say lại càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận. Mong muốn chút niềm an ủi từ thiên nhiên, cảnh vật, tác giả dùng câu thơ tả cảnh ngụ tình. Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa ánh trăng và con người. Cảnh tình của Xuân Hương được thể hiện qua hình ảnh thơ chứa đựng sự éo le: Trăng sắp tàn mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân đã trôi qua mà tình duyên còn chưa trọn vẹn. Hương rượu để lại vị đắng chát, hương tình thoảng qua để chỉ còn “phận hẩm duyên ôi”. Sự đối lập giữa “say”-“tỉnh”, “khuyết”-“tròn” đã gợi lên cho người đọc cảm giác chông chênh, không xác định được ranh giới giữa không và có, say và tỉnh. Cặp từ trái nghĩa đã giúp ta nhận ra được điều đó giữa hi vọng mong manh về hạnh phúc và hiện thực phũ phàng.
Từ hình ảnh “vầng trăng” nhà thơ bắt đầu chuyển sang mượn thiên nhiên để miêu tả tâm trạng:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”
Hai câu thơ tả cảnh được cảm nhận qua tâm trạng cũng như mang theo nỗi niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật bé nhỏ như đám rêu kia cũng không chịu mềm yếu, khuất phục mà phải xiên ngang mặt đất trỗi dậy mạnh mẽ. Đá đã rắn chắc lại phải cứng cáp hơn để “đâm toạc chân mày”. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của cỏ cây, cũng như sự phẫn uất trong tâm trạng. Không chỉ vậy những động từ mạnh “xiên, đâm” cũng được kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo thể hiện sự bướng bỉnh, ngang trái. Điều đó đã thể hiện một phong cách Xuân Hương, không chỉ phẫn uất mà còn phản kháng, không khuất phục trước số phận đau khổ, muốn vươn lên bằng chính sức sống mãnh liệt của mình. Với tài năng sử dụng từ ngữ, hình ảnh mạnh mẽ, táo bạo, lấy cảnh ngụ tình, hai câu thơ đã gợi lên cảnh vật sinh động, đầy sức sống. Đó cũng chính là tâm hồn đầy sức sống, cõi lòng nhiều khao khát của Xuân Hương.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mối tình san sẻ tí con con.”
Đến hai câu kết, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch hết nỗi cay đắng của đời người. “Ngán” là ngán ngẩm với nỗi đời éo le, với vòng xoáy của số phận. Từ “xuân” nay mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân qua đi rồi lại trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn cây cỏ, hoa lá. Nhưng, với con người thì tuổi xuân qua là không bao giờ quay trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng mang hai ý nghĩa khác nhau. Từ “lại” thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ “lại” thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. “Mảnh tình” đã bé lại phải “san sẻ” thành ra ít ỏi, chỉ còn “tí con con” nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ kết thúc trong nỗi xót xa, mỉa mai đến tội nghiệp của “cái hồng nhan” trong xã hội phong kiến xưa. Câu thơ là nỗi lòng của người phụ nữ vừa đau buồn vừa thách thức duyên phận, gắng gượng nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Vì vậy, ý nghĩa nhân văn của bài thơ càng sâu sắc, thấm thía hơn.
Trái tim Xuân Hương đã thức giấc để đập nhịp cùng những tâm hồn của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đối với văn học là quá khứ, nhưng bài học và những cảm xúc mà bà mang lại cho thế hệ ngày nay vẫn tồn tại, hiện hữu. Đó là bài học về sự vượt qua khó khăn, chiến thắng đau khổ. Cuộc đời nữ sĩ Xuân Hương đã hai lần chồng và đều thất bại, nhưng trong tim bà vẫn giữ nguyên nhịp đập hy vọng về hạnh phúc và tình yêu.
Tự tình II là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự bày tỏ nỗi lòng của người phụ nữ lận đận tình duyên nhưng luôn khao khát có được một tình yêu trọn vẹn, xứng đáng với tấm chân tình của mình. Đặc sắc trong bút pháp của nữ sĩ cho thấy tài năng thi ca của tâm hồn, với việc sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, thủ pháp tả cảnh ngụ tình, dùng động từ mạnh kết hợp với đảo ngữ và các từ láy càng làng cho bài thơ trở nên sâu sắc, thấm đẫm cái ý cái tình của người phụ nữ.
Những hình ảnh giản dị với tâm trạng uất ức, xót xa cho số phận hẩm hiu và cũng là bi kịch, khát vọng hạnh phúc của Xuân Hương nói riêng hay chính người phụ nữ phong kiến nói chung. Bài thơ đã truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc: Dù sống trong hoàn cảnh cay nghiệt nhưng con người vẫn cố gắng vươn lên, thay đổi số phận, mong muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tự tình II mà Hồ Xuân Hương để lại sẽ vẫn có giá trị đến muôn đời. Quả thật, Xuân Hương rất xứng đáng với danh xưng “Bà chúa thơ Nôm” khi đã để lại cho đời những áng văn bất hủ.
Cảm nhận Tự tình 2 – Mẫu 2
Có những tác phẩm luôn được gắn liền với tên tuổi của người làm ra nó, chẳng hạn như nhắc đến Nguyễn Khuyến người ta nhớ ngay đến chìm thơ thu nổi tiếng của ông, nhắc đến Nguyễn Du người ta không thể nào không nói đến Truyện Kiều. Và Hồ Xuân Hương cũng thế, nhắc đến nữ thi sĩ này người ta nhớ nhất là chùm thơ Tự tình. Đặc biệt trong đó có bài thơ Tự tình II được nhiều người yêu mến và thích đọc nó. Phải chăng do nó nói lên chính tấm lòng của người phụ nữ kia nên được sự ưu ái của bạn đọc như thế ?
Bài thơ Tự tình II được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, viết theo ngôn ngữ môn thuần việt chính vì thế cấu trúc bài thơ cũng được chia thành bốn phần đề, thực, luận, kết. Mỗi phần gồm hai câu nói lên những tâm tư tình cảm của nhà thơ hay cũng chính là sự đồng cảm với số phận người phụ nữ bấy giờ. Trong xã hội trọng nam khinh nữ ấy đã có lần Xuân Hương mạnh bạo nói lên câu: “Không chồng có chửa mới ngoan – Có chồng mà chửa thế gian có đầy”. Câu nói ấy không phải lăng loàn mà nó thể hiện sự bênh vực của Xuân Hương với những phụ nữ bị cưỡng hiếp nhục nhã khi bị người ta chê cười chửa hoang. Vì thế bài thơ Tự tình này cũng như đang nói lên tâm trạng của người phụ nữ thời xưa.
Hai câu thơ đầu mở ra một không gian của đêm buông tĩnh mịch, và trước cái đêm tĩnh lặng ấy cái tình của người phụ nữ mới bắt đầu chiếm lấy không gian ấy để mà thổn thức một mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Thời gian đêm khuya thường là lúc mọi cảnh vật chìm vào bóng tối và giấc ngủ thì người phụ nữ kia lại không thể ngủ được. Và chính không gian ấy đã góp phần làm cho tâm trạng tình cảm của người phụ nữ được bộc lộ ra rõ nét hơn. Hai chữ “văng vẳng” thể hiện tiếng động nơi xa xa vọng lại, đó là tiếng trống cầm canh, tiếng trống ấy không làm cho không gian nơi đây thêm phần huyên náo mà nó càng nhấn mạnh sự tịch mịch của đêm tối mà thôi. Tiếng trống cầm canh thúc giục buổi sáng mai thức dậy còn người phụ nữ của chúng ta thì vẫn còn chưa ngủ được. Có lẽ nàng thao thức với những tâm tư chất chứa trong lòng mà không thể nói với ai, chỉ là những đêm khuya nàng nhớ lại chúng nên không thể nào nhắm mắt nổi. Động từ “trơ” thật hay khi nói lên trạng thái của hồng nhan kia. Biện pháp tu từ đảo trật tự cú pháp trong câu như nhấn mạnh trạng thái ấy. Trơ có nghĩa là trơ trẽn hay trơ lì, dù hiểu thế nào đi nữa thì đó cũng là trạng thái cô đơn của nhà thơ khi đêm đến. Hồng nhan trơ mình với nước non, người phụ nữ lẻ loi cô đơn khi chịu cảnh làm vợ lẽ. Chẳng thế mà Xuân Hương từng có câu thơ về phận làm lẽ:
“Chém cha cái cảnh lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.”
Sang hai câu thực, nhà thơ tiếp tục thể hiện những suy tư chồng chất của mình. Làm sao có ai hiểu được tâm trạng ấy. Liệu rằng chúng ta có thể thấy được một cảnh tươi đẹp hơn nhưng than ôi không hề có, lại những câu thơ buồn được cất lên:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Trong sự cô đơn chua cay nghiệt ngã của thân phận làm vợ lẽ nhà thơ đã tìm đến rượu. Người ta tìm đến rượu khi vui để chúc tụng để cho hơi men làm cho nó thêm phần vui vẻ hơn, đương nhiên khi buồn người ta cũng tìm đến rượu để giải sầu. Từ xưa đến nay vẫn thế, Hồ Xuân Hương cũng vậy, bà quyết định tìm đến rượu để giải sầu. Thế nhưng chính hơi men nồng ấm ấy lại không thể làm nguôi đi sự cô đơn, buồn bã của nhà thơ. Càng uống lại càng tỉnh, say nhưng rồi lại tỉnh, như vậy nỗi lòng, nỗi sầu đau của nhà thơ lớn đến mức rượu kia cũng không thể có tác dụng cho bà quên đi. Hình ảnh vầng trăng tượng trưng cho nhan sắc của người thiếu nữ ấy, đó là một vẻ đẹp lung linh huyền ảo, đằm thắm mà dịu dàng. Thế nhưng vầng trăng kia lại xế bóng khuyết chưa tròn phải chăng đó là sự tương đồng với nhan sắc của nhà thơ. Xuân Hương nghĩ nhan sắc mình ngày càng một tàn đi giống như vầng trăng kia cũng xế bóng thế mà chưa tìm được một tình yêu đôi lứa thật sự. Buồn lại càng thêm buồn.
Tiếp đến hai câu luận, nhà thơ thể hiện nỗi đau của phái đẹp trong xã hội phong kiến mục nát lúc bấy giờ:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Nghệ thuật đảo trật tự cú pháp một lần nữa lại được nhà thơ sử dụng một cách triệt để và hiệu quả. Nào là “xiên ngang” rồi lại “đâm toạc” đó là những động từ mạnh mẽ thể hiện sức sống của những cây rêu, hòn đá kia. Đó là khả năng sinh tồn của những sinh vật nhỏ bé, dường như trong không gian u mịch và thời gian đêm khuya ấy nhà thơ đang ngắm nghía phát hiện những sự vật hiện tượng trong bóng đêm đó. Tuy nhiên chẳng có lẽ nhà thơ chỉ ngắm nhìn nó thôi sao, tác giả còn gửi thân phận của mình vào từng cảnh vật. Đám rêu kia hay chính là thân liễu đào tơ yếu ớt của phái nữ, hòn đá kia như thể hiện sự nhỏ bé của người phụ nữ trong xã hội lạc hậu lỗi thời. Những động từ mạnh kia giống như sự phá phách của Xuân Hương nó mãnh liệt như khát vọng đi tìm hạnh phúc vậy.
Hai câu thơ cuối bài nhà thơ nêu lên quy luật của tự nhiên vĩnh hằng cái vô hạn đối lập cái hữu hạn trong chính thiên nhiên và con người:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Nếu Xuân Diệu có câu thơ “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn – Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” thì Xuân Hương cũng có hai câu thơ trên nói về sự việc này, quy luật này. Động từ ngán thể hiện sự buồn bã chán nản của Hồ Xuân Hương khi mỗi mùa xuân trôi đi mang theo tuổi tác và vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhà thơ Xuân Diệu thật đúng khi viết:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian”
Tuổi trẻ tuổi thanh xuân là vô cùng hiếm hoi và quý giá vì thế cho nên Xuân Diệu, Xuân Hương hay chính chúng ta đều giữ gìn nó muốn nó mãi mãi tồn tại với mình. Thế nhưng quy luật tự nhiên không thể như thế được, ở đây Xuân Hương cũng vậy, tuổi trẻ của bà chưa tìm được một tình yêu đôi lứa hạnh phúc vậy mà thời gian thì cứ trôi nhanh mang theo những nhan sắc vẻ đẹp của mình. Xuân này qua đi xuân khác lại đến mỗi một mùa xuân qua đi rồi lại một mùa xuân khác quay lại nó cứ tuần hoàn chảy trôi như thế mặc cho những dự định của con người còn dang dở chưa hoàn thành, mặc cho tuổi trẻ kia không thắm lại thêm lần nữa. Nhà thơ đã khéo sổ cái vô hạn với cái hữu hạn là như vậy. Mùa xuân cứ trôi còn người phụ nữ kia ngày càng thêm già mặc cho nàng chưa tìm được bến bờ hạnh phúc. Thời gian có đợi chờ ai bao giờ và Hồ Xuân Hương của chúng ta vẫn ngậm ngùi san sẻ một mối tình. Theo quy luật thông thường tình yêu là của hai người nhưng trong xã hội cũ những mảnh tình ấy được san sẻ thành nhiều mảnh, đó là những mảnh ghép tình mà khiến cho người phụ nữ buồn bã. Mảnh tình vốn con con mà lại phải san sẻ cho người khác qua đó ta thấy được xã hội cũ đã chà đạp lên hạnh phúc và tinh thần người phụ nữ như thế nào, trai thì năm thê bảy thiếp con gái thì chỉ vẻn vẹn chung thủy một người chồng.
Như vậy qua đây ta thấy yêu mến Hồ Xuân Hương cũng như quý trọng những người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ phải chịu đựng những niềm đau nỗi buồn của cảnh lấy chồng chung, bị hắt hủi một mình trong đêm dài quạnh quẽ. Qua đó nhà thơ cũng nói về chính bản thân mình, có thể thấy bà đã góp một phần nói lên tiếng nói chua chát đau khổ của người phụ nữ trong xã hội xưa và chính vì thế Xuân Hương là cái tên mà mọi người vô cùng yêu mến vì những vần thơ hay bênh vực người phụ nữ. Xuân Hương đại diện cho tất cả những người phụ nữ thời trung đại nói lên những điều thầm kín trong lòng mình. Phải chăng đã góp phần làm nên tên tuổi của bà trong nền văn học trung đại Việt Nam? Xuân Hương là cái tên người ta nhớ đến nhiều nhất khi nhắc đến những thi sĩ nữ của văn học trung đại.
Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 – Mẫu 3
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương được biết đến là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ với tiếng nói cảm thương, tiếng nói khẳng định, tiếng nói tự ý thức về bản thân đầy bản lĩnh. “Bà chúa thơ Nôm” có chùm thơ “Tự tình” bao gồm ba bài, là tiếng nói của thân phận, là những khát khao, đau buồn của kiếp người. Trong đó, bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện rõ tâm trạng, thái độ của nữ sĩ: vừa buồn đau, vừa phẫn uất trước nghịch cảnh éo le cùng khát vọng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.
Bốn câu thơ mở đầu bài thơ đã cho thấy hoàn cảnh và tâm trạng của nữ sĩ:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Câu thơ gợi nên sự vắng lặng, tĩnh mịch của đêm khuya trong âm điệu buồn thương. Tiếng trống canh giữa đêm khuya cho thấy cảm nhận về bước đi dồn dập của thời gian. Trong thời gian và không gian đó, tác giả cay đắng nhận ra sự bẽ bàng của thân phận, được thể hiện qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ tinh tế, độc đáo. Những từ ngữ giàu giá trị biểu cảm đã được sử dụng để thể hiện tâm trạng: “Trơ” được đặt đầu câu kết hợp với biện pháp đảo nhấn mạnh cảm giác tủi hổ, chai lì. Hai chữ “hồng nhan” lại đi với từ “cái” đặc trưng cho phong cách nghệ thuật vừa trữu tình vừa trào phúng của tác giả, gợi lên ý thức về sự rẻ rúng, mỉa mai của thân phận. Bi kịch về tâm trạng càng được xoáy sâu thêm. Câu thơ: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” vừa miêu tả ngoại cảnh vừa diễn tả tâm cảnh, thể hiện sự thống nhất giữa thiên nhiên và con người. “Vầng trăng bóng xế” (trăng sắp tàn) mà vẫn “khuyết chưa tròn” trở thành hình ảnh ẩn dụ, nhấn mạnh hai lần bi kịch của cuộc đời nữ sĩ: tuổi xuân trôi qua mà nhân duyên vẫn không trọn vẹn, thậm chí chỉ là sự dang dở.
Ý thức sâu sắc về bi kịch tình duyên, tác giả không chỉ cảm thấy bẽ bàng, tủi hổ mà còn phẫn uất:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những nét chấm phá về rêu và đá. “Rêu” và “đá” là những sinh vật vô tri vô giác, bé nhỏ nhưng vẫn không chịu khuất phục mà vẫn hiên ngang tồn tại một cách mạnh mẽ: “xiên ngang mặt đất”, “đâm toạc chân mây”. Biện pháp đảo ngữ đưa những động từ mạnh lên đầu câu đã làm nổi bật sức sống mãnh liệt của cỏ cây, cũng chính là ẩn dụ cho tâm trạng phẫn uất muốn vượt lên trên nghịch cảnh éo le của tác giả. Nữ sĩ tuy nhận ra sự ngang trái, éo le của phận mình nhưng không hề cam chịu mà luôn muốn vùng vẫy, vượt lên trên hoàn cảnh bằng những hành động phản kháng.
Bài thơ mở đầu bằng cảm thức về thời gian: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”, và kết thúc cũng bằng cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng chán chường, buồn tủi:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Hai câu thơ tiếp tục thể hiện tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ của tác giả. “Ngán” mang sắc thái chỉ sự chán ngán, ngán ngẩm. Từ “xuân” được điệp lại hai lần mang những sắc thái ngữ nghĩa khác nhau: vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ tuổi xuân. Mùa xuân của đất trời luôn lặp đi lặp lại theo quy luật tuần hoàn: xuân, hạ, thu, đông nhưng với con người thì tuổi xuân chỉ đến một lần duy nhất, và không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng được sử dụng với hai sắc thái ý nghĩa khác nhau: từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ “lại” thứ hai có nghĩa là quay trở lại, gợi lên sự tuần hoàn, lặp lại. Tất cả đã làm nổi bật ý thức sâu sắc về bi kịch của bản thân và nỗi chán chường khi phải sống trong cuộc sống eo le, ngang trái.
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tăng tiến ở câu thơ “Mảnh tình- san sẻ- tí- con con” nhấn mạnh bi kịch tình duyên éo le của nhân vật trữ tình. Mảnh tình vốn nhỏ bé lại còn không trọn vẹn, thậm chí là phải “san sẻ”. Câu thơ đã gợi lên hoàn cảnh đầy ngang trái của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa khi phải sống trong cảnh chung chồng, và mang thân đi làm lẽ.
Bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện một cách sâu sắc, mãnh liệt khát vọng sống, khát vọng tự do và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn một người phụ nữ vừa dịu dàng, đằm thắm vừa mạnh mẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua tài năng trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng của “Bà Chúa thơ Nôm”.
Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 – Mẫu 4
Hồ Xuân Hương là nhà thơ nổi tiếng, với rất nhiều những tác phẩm hay, và một trong những tác phẩm thể hiện được sâu sắc nhất hình tượng cũng như số phận của người phụ nữ Việt Nam thời xưa đó là bài Tự Tình.
Bài thơ Tự Tình được tác giả sáng tác ra để nói về tâm hồn, cũng như tình cảm của những người phụ nữ xưa, họ phải chịu rất nhiều những đau thương, khổ cực, cuộc đời của họ phải chịu rất nhiều những đắng cay, tủi hổ, không biết tâm sự cùng với ai, chỉ một mình lấp bóng trong đêm khuya, với bao nhiêu cảm xúc, tâm trạng của những người phụ nữ trước cuộc đời, với bao nhiêu cảm xúc đó, Hồ Xuân Hương đã sáng tác lên những vần thơ hay, nói lên số phận cũng như tiếng lòng của những người phụ nữ xưa:
Canh khuya văng vẳng trống canh đồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.
Cảnh khuya là lúc trơ vơ, cô đơn, và con người thường sống đúng với cảm xúc của mình nhất, đây là lúc bao nhiêu nỗi lòng thương được bộc lộ cũng như diễn tả ra một cách sâu sắc cũng như sinh động nhất, tình cảm đó thể hiện trước hết ở tâm hồn trong sáng, cô đơn trước khung cảnh rộng lớn. Bài thơ với bao nhiêu cảm xúc của tác giả, với vần thơ chứa đựng biết bao nhiêu nỗi cô đơn thầm kín, đang dần vây quanh với thân phận nhỏ bé của những người phụ nữ, một mình phải đối diện với biết bao nhiêu nỗi đau, nỗi cô đơn.
Có lẽ tình cảm của tác giả dành cho bài thơ này đó là sự đồng cảm sâu sắc, nỗi lòng của tác giả cũng đang nói hộ cho chính mình, số phận của người phụ nữ xưa, những người phải chịu nhiều cực khổ, không được hưởng cuộc sống hạnh phúc như những người khác. Hồng nhan bạc mệnh, đây có lẽ là đề tài mà nhiều nhà văn lựa chọn để diễn tả trong tác phẩm của mình, nỗi lòng của những người phụ nữ xưa đã được đi sâu vào nền văn học, với biết bao nhiêu nỗi lòng của sự cô đơn, nỗi cô đơn đó, đang vây kín lấy tâm hồn, cũng như thể xác của họ.
Cảnh khuya người thiếu phụ một mình trơ trọi với núi non, không biết làm bạn với ai, chỉ biết một mình trơ trụi với bóng hồng nhan, đối diện với khung cảnh của núi non hùng vĩ, cảnh vật đó đã đang tác động sâu sắc đến cảm cảm xúc của người đọc, tác giả, không chỉ thể hiện nỗi lòng của chính mình, mà qua đó còn nói về số phận của những người phụ nữ xưa nói riêng, nhưng tình cảm đó đều được đi sâu vào thơ văn.
Đúng là nhà văn là những người chiến sĩ của mọi thời đại, chính vì thế, bao nhiêu tình cảm chân thành, da diết, đều được họ thể hiện sâu sắc qua biết bao nhiêu cung bậc, cũng như cảm xúc của người đọc, thấm sâu trong chính tác phẩm của mình. Tình cảm đó đã đi sâu và mang đậm biết bao nhiêu giá trị của những người phụ nữ xưa, chỉ biết mượn rượu để quên sầu, nhưng khi tỉnh lại họ chợt nhận ra tất cả vẫn đang ám ảnh lấy tâm hồn của họ:
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Tất cả nỗi buồn đó đều được thể hiện rất chi tiết và cụ thể trong tác phẩm, có thể thấy, nỗi lòng của những người phụ nữ đó là rất lớn, đêm khuya trợ trọi với biết bao nhiêu nỗi cô đơn, sự gian nan và biết bao nhiêu nỗi lòng dành cho người mình yêu, nhưng khổ nỗi mảnh tình san sẻ cũng không có ai để thấu.
Nhưng không hẳn vì thế mà họ quên đi chính mình, họ vẫn thể hiện sức sống tiềm tàng qua sức mạnh cũng như tình yêu thương của mình, họ vượt qua mọi khó khăn, vượt qua những cái khắc nghiệt của cuộc sống, xuyên ngang mặt đất, ở đây có thể hiểu rằng, họ đã trải qua bao nhiêu rào cản của xã hội phong kiến để có được hạnh phúc cho chính mình, không sợ những rào cản đó làm cản trở đi tình yêu cũng như xúc cảm trong chính bản thân họ.
Rêu từng đám ở đây nói về sự chắc chắn, kết nối, rêu không phải là thứ gì đó dễ đi, nó bám lâu đời, và cũng biểu hiện để nói về tình cảm của những người phụ nữ cũng phải chờ mong, đợi chờ và rồi, từng đám rêu đó đã chứng minh thấy tình cảm của họ đã hóa lên thành những đám rêu, bám từ ngày này qua ngày khác, không khó tháo ra.
Bao vất vả, cũng vượt qua, đâm toạc chân mây, rêu vẫn cứ mọc, vượt qua bao nhiêu nỗi cô đơn, tình cảm đó vẫn muốn san sẻ đi chút ít, sâu sắc và chân thành. Sự chờ đợi đó cứ lặp đi lặp lại, cứ chảy trôi hết ngày này qua ngày khác, xuân đi xuân lại lại”, ở đây cũng diễn tả sự quay trở lại của quỹ đạo thời gian, tất cả vượt qua rất nhiều những gian nan và vẫn muốn thể hiện tình cảm của chính mình.
Bài thơ đã thể hiện được sâu sắc nỗi lòng của những người phụ nữ xưa, họ phải sống một cuộc sống cô đơn, vất vả, một mình trơ trụi trước khung cảnh rộng lớn của thiên nhiên, nhưng lòng người thì thật nhỏ hẹp.
Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 – Mẫu 5
Xã hội phong kiến xưa luôn tôn thờ chế độ “Trọng nam, khinh nữ” khiến cho cuộc đời và số phận của những người phụ nữ vô cùng bấp bênh, đau khổ. Họ không có quyền lựa chọn hạnh phúc cho bản thân, luôn phải sống dưới cái bóng quá lớn của khuôn khổ “Tam tòng, tứ đức”. Tuy nhiên, trước số phận nghiệt ngã ấy, có những người chọn cách im lặng, cam chịu, nhưng cũng có những người dám đứng lên để đấu tranh cho khát khao hạnh phúc của bản thân. Hồ Xuân Hương là một người như vậy. Bà là một trong số rất ít nhưng nhà văn nữ ở thời đại này nhưng ở Hồ Xuân Hương lại nổi bật một cá tính riêng không trộn lẫn. Là một “nhà văn phụ nữ viết về phụ nữ”, Hồ Xuân Hương đã dám cất lên tiếng nói để bộc lộ tâm sự, suy tư thầm kín. Có lẽ cũng bởi cuộc đời long đong lận đận của mình mà các sáng tác của Hồ Xuân Hương chủ yếu nói về người phụ nữ, nhất là những người mang thân phận làm lẽ. Bài thơ “Tự tình II” như nói lên tất cả
Không chỉ sáng tác thơ chữ Hán, mà các sáng tác thơ Nôm của bà cũng vô cùng phong phú. Chính vì vậy, “ông hoàng thơ tình Xuân Diệu” đã ưu ái gọi bà là “bà chúa thơ Nôm”. Bài thơ “Tự tình II” nằm trong chùm ba bài “ Tự tình”, thể hiện rõ tài năng cũng như phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương. Đó là sự hòa quyện giữa một chất thơ trữ tình cùng sự táo bạo, dí dỏm. Bài thơ “Tự tình II” chan chứa nỗi đau thầm kín, bộc lộ cảnh ngộ, thân phận và nhân cách, bản lĩnh của Hồ Xuân Hương.
Tâm trạng của Hồ Xuân Hương bắt đầu trong một không gian vô cùng đặc biệt:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”.
“Đêm khuya” là khoảng thời gian mà vạn vật đã chìm vào giấc ngủ. Đó cũng là khoảng thời gian con người gạt bỏ hết những trăn trở, âu lo để trở về với hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Nhưng với những người phụ nữ cô đơn, thì “đêm khuya” chính là lúc con người ta chất chứa nhiều tâm sự, là khoảng thời gian tâm tư sâu lắng nhất, thấm thía nhất nỗi bất hạnh, cô đơn đến tột cùng. Hồ Xuân Hương cũng vậy, khi màn đêm bao trùm lấy cảnh vật, cũng là lúc bản thân phải tự đối diện với lòng mình. Trong cái không gian tĩnh mịch ấy, bỗng “văng vẳng” tiếng “trống canh”. “Trống canh” là báo hiệu của thời gian, nay kết hợp với từ láy tượng thanh “văng vẳng” khiến âm thanh như từ xa vọng về, đầy ma mị, rối bời. Từ “dồn” như muốn nói lên sự dồn đuổi của thời gian lên cảnh vật, như thúc giục mọi người. Tuy nhiên, cấu trúc đảo ngữ đã khẳng định đây không chỉ là sự dồn đuổi của thời gian lên cảnh vật mà còn là sự dồn đuổi của tuổi trẻ giữa cái vòng tuần hoàn ngày-đêm của tạo hóa. Nếu như thời gian của cuộc đời là vô thủy, vô chung thì thời gian của đời người là hữu hạn. Giữa không gian yên ắng ấy là hình ảnh người phụ nữ lọt thỏm giữa bốn bề vắng lặng:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”.
“Trơ” có nghĩa là trơ trọi, được đặt ở đầu câu gây ấn tượng mạnh. Người phụ nữ trơ trọi giữa không gian lạnh lẽo, yên ắng. Từ “trơ” cũng có nghĩa là tủi hổ, bẽ bàng trước số phận lẻ loi, tình duyên không trọn. Từ xưa đến nay, người ta dùng từ “hồng nhan” để chỉ người con gái đẹp với hàm ý nâng niu, trân trọng. Nhưng Xuân Hương lại nói “cái hồng nhan” thì nghe thật rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” “trơ” với nước non không chỉ là dầu dãi mà còn là cay đắng, gợi nên sự bạc phận, xót xa. Tuy nhiên, “cái hồng nhan” khi đặt trong thế đối sánh với “nước non” như một thoáng kiên cường, mạnh mẽ, như một sự thách thức, kiêu hãnh của một tâm hồn đầy cá tính. Biện pháp đảo ngữ cho thấy bên cạnh nỗi đau Xuân Hương còn là một bản lĩnh Xuân Hương.
Sau những giây phút cô đơn, lạc lõng là những bế tắc, tuyệt vọng:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Trong sự cô đơn, người phụ nữ ấy tìm đến rượu để quên đi nỗi đau nhưng càng uống thì lại càng như nuốt tủi, nuốt hận vào lòng. Cụm từ “say lại tỉnh” như vẽ ra một cái vòng luẩn quẩn, bế tắc, không có lối thoát. Bà tìm đến vầng trăng-người bạn tri kỉ muôn đời của những tâm hồn cô đơn với khao khát trăng sẽ chia sẻ nỗi niềm cô đơn, buồn tủi ấy. Nhưng vầng trăng cũng “khuyết chưa tròn”. Bằng việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, nhà thơ đã tạo nên sự đồng điệu giữa ngoại cảnh và tâm cảnh. Vầng trăng đã ở phía bên kia bầu trời mà vẫn khuyết cũng như tuổi xuân của con người đã trôi qua mà tình duyên chưa trọn vẹn. Tất cả những cố gắng thoát ra khỏi nỗi đau đều không thành, cuối cùng lại càng bế tắc khôn nguôi.
Sự bế tắc ấy đã khiến nhân vật trữ tình trào dâng nỗi niềm phẫn uất. sự phẫn uất ấy cuộn chảy mạnh mẽ, thấm cả vào cảnh vật:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.
“Rêu”, “đá” là những sự vật nhỏ bé, vô tri, không được coi trọng. Nữ sĩ sử dụng hình ảnh của những sự vật bé nhỏ, hèn mọn, kết hợp với các động từ mạnh “xiên’, “đâm” để nói lên sức mạnh phản kháng trào dâng. Biện pháp liệt kê một lần nữa xuất hiện như muốn khẳng định thêm nỗi lòng phẫn uất của nhà thơ. “Rêu xiên ngang mặt đất”, “đá đâm toạc chân mây” như vách đất mà hờn, vạch trời mà oán. Ẩn sau những hình ảnh bình dị, giản đơn ấy, có lẽ chúng ta lại thấy bóng dáng của những người phụ nữ. Xã hội phong kiến quá bất công, khiến những người phụ nữ bé nhỏ phải oằn mình lên để chống đỡ. Qua cách miêu tả đầy tinh tế, cảnh vật hình như đang cựa quậy, căng đầy sức sống ngay cả trong bế tắc. Biện pháp tả cảnh ngụ tình đã thể hiện rõ bản lĩnh, cá tính và khát vọng mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương. Đó là khát khao hạnh phúc, khát khao được yêu thương trọn vẹn.
Hồ Xuân Hương có thể nói là một người phụ nữ cá tính, mạnh mẽ. Trước những sóng gió cuộc đời, bà vẫn luôn tự tin, kiêu hãnh. Tuy nhiên, dù tự tin, kiêu hãnh là thế, nhưng cuối cùng, bà vẫn không thể vượt qua thân phận mình trong vòng vây của xã hội phong kiến. Sau tất cả sự cô đơn, tuyệt vọng, phẫn uất, đọng lại là tâm trạng ngán ngẩm, chán chường:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Từ “xuân” trong thơ Hồ Xuân Hương thật đa nghĩa. “Xuân” là mùa xuân của đất trời, là mùa của vạn vật sinh sôi, đâm chồi nảy lộc. Nhưng “xuân” cũng là tuổi xuân của con người. Mùa xuân qua đi rồi mùa xuân lại đi tới, tạo hóa vẫn tuần hoàn với muôn ngàn hoa lá, cỏ cây. Chỉ có tuổi xuân của đời người qua đi mà vĩnh viễn biến mất. Xuân đi rồi xuân lại, hai từ “lại” xếp cạnh nhau nhưng mang hai ý nghĩa. Từ “lại” thứ nhất có nghĩa là thêm một lần nữa, còn từ “lại” tiếp theo mang ý nghĩa là sự tuần hoàn, quay trở lại. Thời gian của cuộc đời cứ thế vô tình trôi qua, cứ mỗi mùa xuân trở lại là ngày xanh của tuổi trẻ lại lần lượt ra đi. Tuổi trẻ thì cứ lặng lẽ kết thúc, trong khi tình duyên vẫn mãi chẳng vẹn đầy:
“Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Nhịp thơ 2/2/1/2 và nghệ thuật giảm dần làm cho nghịch cảnh trở nên éo le. Mọi người thường hay nói “mối tình”, “cuộc tình”, chưa “mảnh tình” thì nghe thật mâu thuẫn. Cụm từ “mảnh tình” khiến người đọc liên tưởng đến điều gì đó nhỏ nhoi, ít ỏi. Đau đớn hơn, “mảnh tình” đã bé, đã ít lại còn phải đem ra san sẻ, cuối cùng chỉ còn lại “tí con con” xót xa, tội nghiệp. Lời thơ quả thực cất lên từ sâu thẳm trong trái tim người đàn bà lẽ mọn với nước mắt đắng cay và tận cùng đau khổ.
“Tự tình II” thể hiện đặc sắc tài năng nghệ thuật của Hồ Xuân Hương. Tâm trạng nhân vật được khắc họa thành công qua việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật, ngôn từ tinh tế nhưng vẫn rất tự nhiên. Bài thơ là những lời bộc bạch vừa buồn tủi, vừa thách thức duyên phận, gắng gượng vươn lên những vẫn rơi vào bi kịch. Thế nhưng đó không chỉ là nỗi đau của riêng bà. Xuân Hương ôm trong mình nỗi đau của cả một thời đại. Nhà thơ cất lên tiếng nói nhân văn cho số phận, khát khao của những người phụ nữ trong xã hội xưa khi mà với họ, hạnh phúc là một chiếc chăn quá hẹp Qua đó, thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Có thể nói, đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương. Đó là sự thống nhất giữa một trái tim yếu mềm, đa cảm, nhiều yêu thương và một bộ óc mẫn tiệp, thông tuệ. Trong dòng chảy của văn học trung đại Việt Nam, ta thấy Xuân Hương nổi bật lên giữa tất cả các khuôn mẫu thông thường. Dù chỉ là một người phụ nữ nhỏ bé nhưng dám cất lên tiếng nói đòi quyền hạnh phúc, dám nói lên khát khao được yêu thương.
Qua bài thơ “Tự tình II”, ta thấy được tài năng cũng như trái tim nhân hậu của Xuân Hương. Dù cho có đau khổ, bế tắc thì vẫn luôn kiên cường, mạnh mẽ. Hình ảnh của Xuân Hương như một tấm gương sáng ngời về một người phụ nữ mạnh mẽ, thông minh, tài năng, nhân hậu mà những người phụ nữ ở thời đại trước hay thời đại ngày nay đều nên học tập. Không chỉ “ Tự tình II” mà tất cả những sáng tác của bà đều sẽ mãi in dấu trong lòng người đọc qua nhiều thế hệ. Bởi ở bà, ta thấy được một con người mang đầy tinh thần nhân đạo, là một Xuân Hương “kỳ nữ, kì tài”.
Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 – Mẫu 6
Hồ Xuân Hương ghi dấu tên mình trong lịch sử văn học như một nữ sĩ tài ba của dân tộc. Bà đi nhiều nơi, kết giao với nhiều nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Du. Xinh đẹp, giỏi giang, tuy nhiên, bà lại không được may mắn trong tình yêu khi tình duyên éo le, ngang trái. Thơ của Hồ Xuân Hương đậm chất dân gian, vừa trào phúng và trữ tình. Các tác phẩm của bà thường cất lên tiếng nói cảm thương cho thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời khẳng định vẻ đẹp và khát vọng sống của họ. Bài thơ “Tự tình 2” năm trong chùm bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương. “Tự tình” nghĩa là kể nỗi lòng, một đề tài thường thấy trong thơ xưa.
Mở đầu bài thơ, tác giả gợi ra một khoảng thời gian, không gian nghệ thuật, làm nền để thể hiện nỗi cô đơn, trơ trọi trong đêm hiu quanh:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Đêm khuya vắng lặng, hiu quanh. Đây là khoảng thời gian tâm trạng, là thời khắc con người đối diện với chính mình, trằn trọc thao thức, để cho những nỗi niềm xâm chiếm. Ta bắt gặp lại hình ảnh người chinh phụ mòn mỏi, vò võ trong đêm khuya thanh vắng, một mình chống chọi lại nỗi cô đơn:
“Gà eo óc gáy sương năm sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”
Thời gian điểm nhịp bằng tiếng trống canh. “Văng vẳng” diễn tả âm thanh từ xa vọng lại, mơ hồ, khó nắm bắt. Bằng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, màn đêm dường như lại càng rộng lớn hơn, có thể nuốt chửng con người. Đó là tiếng trống, mà cũng có thể là tiếng lòng, là âm thanh của ngoại cảnh, cũng là âm thanh của tâm hồn. Từ “dồn” diễn tả tiếng trống như thúc giục, dồn nén, có phần bế tắc. Qua tiếng trống, ta cảm thấy thời gian trôi đi càng lúc càng gấp gáp, riết róng như thúc giục. Đó cũng là sự gọi thức, giục giã của hạnh phúc, của tuổi xuân đã qua không bao giờ quay trở lại, không có cách gì níu giữ. Câu thơ tiếp theo, ta đã thấy có sự xuất hiện của con người. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự cô độc của chủ thể trữ tình. “Trơ” là tủi hổ, bẽ bàng. “Trơ” cũng có thể hiểu là trơ trọi, cô độc. Chỉ một từ thôi mà gợi lên bao cảm xúc cay đắng, ê chề, tủi hổ, bẽ bàng. “Trơ” còn là trơ gan, trơ lì như một sự thách thức: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. “Cái hồng nhan” được tác giả sử dụng mang hàm ý mỉa mai. “Hồng nhan” chỉ vẻ đẹp của người con gái trẻ trung đang thời xuân sắc, đi với từ “cái” càng trở nên trơ trọi, đáng thương. Trong thơ Hồ Xuân Hương, thân phận người phụ nữ thường được đặt trong mối quan hệ với non nước, non sông, vũ trụ và cuộc đời. Giữa cái rộng của không gian, dài của thời gian, người phụ nữ nhỏ bé, đáng thương hiện lên trong nỗi cô đơn, hiu quạnh, bấp bênh giữa cuộc đời, trơ trọi giữa vũ trụ. Đồng thời, sự đối sánh giữa con người và vũ trụ cũng thể hiện cá tính mạnh mẽ, kiên quyết của Hồ Xuân Hương, là sự thức tỉnh của cái tôi cá nhân tràn trề sức sống và khát vọng yêu thương.
Hai câu thực là nỗi niềm day dứt, xót xa cho tình duyên không trọn vẹn:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
“Chén rượu”, “vầng trăng” ở đây không còn là người bạn tri âm, tri kỉ nữa mà chỉ gợi nỗi niềm xót xa, hiu quạnh. Say- tỉnh là hai trạng thái hoàn toàn đối ngược nhau. Nhân vật trữ tình tìm quên trong hơi men, nhưng càng uống lại càng cô đơn, trống vắng. Từ lại diễn tả một sự lặp đi lặp lại triền miên đến nhàm chán. Vầng trăng là biểu tượng cho tình yêu đôi lứa, cho số phận con người. Vậy mà, tình duyên ấy, số phận ấy đã đến buổi xế bóng nhưng vẫn chưa toàn vẹn. Ba bi kịch đã được hội tụ đủ trong hai câu thực: tuổi xuân qua đi không bao giờ trở lại, tình yêu không người tri âm, tri kỉ, hạnh phúc dở dang, bẽ bàng.
Nếu như hai câu thực mang giọng có phần chua xót thì đến hai câu luận là sự phản kháng, nổi loạn của một sức sống mạnh mẽ, bền bỉ:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
“Xiên”, “đâm” là những động từ mạnh kết hợp với các từ “ngang”, “toạc” đã thể hiện sự dâng trào lên đến đỉnh điểm, vượt qua mọi giới hạn. Rêu và đá đều là những sự vật nhỏ bé, đối nghịch với mặt đất bao la rộng lớn, với chân mây mênh mông vời vợi. Những hình ảnh ấy tuy nhỏ nhoi nhưng có sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, bền bỉ, không chịu khuất phục, xâm chiếm những chiều kích không gian rộng lớn. Hai câu thơ cũng chính là ý thức phản kháng mãnh liệt, thể hiện cá tính mạnh mẽ, ngang tàng của nữ sĩ. Đó là sự trỗi dậy của cái tôi đòi quyền sống, quyền tự do, đồng thời là ý chí phản kháng chống lại những giáo điều, luật lệ hà khắc, cổ hủ của xã hội phong kiến, những bất công trong xã hội để có một cuộc sống hạnh phúc chính đáng.
Kết thúc bài thơ là nỗi ngậm ngùi cho bi kịch tình duyên, số phận:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Xuân có thể là mùa xuân của thiên nhiên, của đất trời, tuần hoàn bất diệt. Xuân cũng có thể là tuổi xuân của con người, mong manh và ngắn ngủi, nhỏ bé trước thời gian vô thủy vô chung của vũ trụ. “Xuân đi xuân lại lại” như cái vòng luẩn quẩn, sự trở lại của mùa xuân cũng là sự ra đi của tuổi xuân. “Mảnh tình” vốn đã ít ỏi, nhỏ bé nay lại được “san sẻ” lại càng ít ỏi, mong manh hơn nữa. Nghệ thuật tăng tiến nhấn mạnh sự nhỏ bé dần, chỉ sự ít ỏi, sẻ chia hạnh phúc trong cuộc đời Hồ Xuân Hương làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. Đó là tâm trạng của phận làm lẽ, cũng là nỗi lòng chung của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Cảm nhận bài Tự tình 2 – Mẫu 7
Xã hội phong kiến với những định kiến hà khắc và lạc hậu về chế độ “Trọng nam khinh nữ” đã đẩy nhiều số phận hồng nhan vào con đường lận đận, khổ đau. Người phụ nữ trong xã hội ấy dù đẹp đẽ đến đâu cũng chẳng thể tự mình lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình, mà chỉ có thể lẳng lặng sống dưới cái bóng u ám của khuôn khổ “Tam tòng, tứ đức” mà xã hội áp đặt. Trong cuộc đời u uất được định kiến an bài đó, có người chọn cách im lặng, cam chịu mà sống, nhưng cũng không thiếu những người dám đứng lên đấu tranh vì hạnh phúc của chính mình.
Trong đó, “nhà văn viết về phụ nữ” Hồ Xuân Hương là một trong số ít những người không chịu khuất phục trước sự nghiệt ngã đó. Bà nổi bật với cá tính riêng, bà dám bộc bạch cả những suy nghĩ, tâm sự mà không người phụ nữ nào dám lên tiếng, bà khác biệt khi luôn khát khao hạnh phúc dẫu cho số phận làm lẽ đày đọa bà. Và “Tự tình 2” phải chăng chính là tiếng lòng mà bà luôn ấp ủ để rồi gửi vào những vần thơ Nôm tinh tế.
Tự Tình 2 là một tác phẩm nằm trong chùm ba bài Tự Tình. Đây là một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của bà khi tài năng cùng phong cách sáng tác riêng biệt được thể hiện một cách sâu sắc trong đó. Bài thơ là sự hòa quyện của chất thơ trữ tình với suy nghĩ táo bạo mà cũng không kém phần dí dỏm. Có thể nói, Tự Tình 2 chính là tiếng lòng bộc lộ nỗi đau thầm kín, là tiếng than oán cảnh ngộ trớ trêu và là nhân cách, bản lĩnh của Hồ Xuân Hương.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”
Dòng thơ đầu tiên như vang mãi trong tâm trí người đọc. Vào “đêm khuya” – cái khoảng thời gian mà bóng tối đã bao trùm vạn vật, dường như có một tâm hồn chẳng thể nào chợp mắt. Đáng ra đêm khuya phải là lúc người ta gạt bỏ đi mọi âu lo, trăn trở để an nhiên trong hạnh phúc mà chìm sâu vào giấc ngủ, thì đây lại là lúc những con người lòng đầy tâm sự thấm thía nỗi cô đơn, bất hạnh đến tột cùng. Hồ Xuân Hương trong cảnh màn đêm hiu hắt ấy, cũng là lúc bà tự đối diện với lòng mình.
Cái không gian tĩnh mịch bỗng “văng vẳng” tiếng “trống canh”. Qua việc sử dụng từ một cách tinh tế, tiếng “trống canh” – báo hiệu của thời gian – dường như xa xăm, ma mị hẳn khi kết hợp cùng từ láy tượng thanh “văng vẳng”. Càng “đắt” hơn nữa là từ “dồn” như diễn tả trọn sự dồn dập của thời gian, lại là sự dồn dập của tuổi xuân xanh giữa vòng tuần hoàn bất diệt. Giữa khoảng không gian yên ắng ấy, người phụ nữ mang tâm trạng u ám dường như chạm đáy của sự cô đơn khi lọt thỏm giữa bốn bề vắng lặng:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Từ “trơ” với ý nghĩa là trơ trọi được tác giả đặt đầu câu dường như tạo một ấn tượng mạnh mẽ cho độc giả. Người phụ nữ lúc bấy giờ như trơ trọi giữa khoảng không gian vắng lặng, yên ắng và lạnh lẽo. Từ “trơ” cũng có thể được hiểu là sự tủi hổ, bẽ bàng trước số phận đau thương, trước tình cảnh lẻ loi của tình duyên không trọn. Từ xưa đến nay, “hồng nhan” là từ được người ta dùng để ca ngợi và bày tỏ sự nâng niu, trân quý đối với người con gái đẹp. Ấy thế mà, Hồ Xuân Hương lại nói “cái hồng nhan” như một sự coi khinh, rẻ rúng đầy mỉa mai. “Cái hồng nhan” ấy “trơ” giữa nước non thì còn gì cay đắng, bạc bẽo bằng?
Tuy nhiên, “cái hồng nhan” ấy được đặt giữa “nước non” như một sự so sánh đã thể hiện một thoáng kiên cường, mạnh mẽ. Đó phải chăng là một sự thách thức, kiêu hãnh của một tâm hồn với cá tính mạnh mẽ? Đồng thời, biện pháp đảo ngữ đã đặt nỗi đau Hồ Xuân Hương bên cạnh bản lĩnh Hồ Xuân Hương. Đó là một lời khẳng định ý chí, bản lĩnh của người phụ nữ dù đau thương vẫn không chịu khuất phục.
Sau phút cô đơn, người phụ nữ ấy như chìm sâu vào những bế tắc, tuyệt vọng:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Chìm trong màn đêm tĩnh mịch, người phụ nữ ấy cô độc ấy đã tìm đến rượu để có thể quên đi nỗi đau dù chỉ trong thoáng chốc. Ấy vậy mà, càng uống thì lại càng nuốt tủi hờn vào trong. Cụm từ “say lại tỉnh” như một vòng luẩn quẩn chẳng có lối thoát. Rượu chẳng thể giúp khuây khỏa cõi lòng, bà lại tìm đến vầng trăng – người bạn tri kỷ của vạn tâm hồn cô đơn với nguyện ước được cùng chia sẻ nỗi niềm lòng mình.
Mà nào hay, vầng trăng ấy lại “khuyết chưa tròn”? Với việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, nhà thơ đã tạo nên một sự đồng điệu rất đẹp nhưng cũng rất buồn giữa ngoại cảnh và tâm cảnh. Vầng trăng kia dù ở tít trên cao nhưng cũng khuyết như chính cái tuổi xuân dù đã trôi qua mà tình duyên vẫn chẳng thể trọn vẹn. Sau tất cả sự cố gắng để thoát khỏi nỗi đau nhưng đều không thành, sự bế tắc lại càng bao trọn tâm hồn con người.
Sự bế tắc đạt đến một ngưỡng khiến cho nhân vật trữ tình như muốn trào dâng nỗi niềm phẫn uất. Sự phẫn uất ấy được thể hiện một cách mạnh mẽ, thấm cả vào cảnh qua hai câu thơ:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.
Những vật bé nhỏ, vô tri, hèn mọn như “rêu”, “đá” được nữ sỉ sử dụng kết hợp cùng động từ mạnh “xiên”, “đâm” đã thể hiện một sức mạnh phản kháng mạnh mẽ. Biện pháp liệt kê như muốn khẳng định sự phẫn uất đang chiếm lấy tâm hồn nhà thơ. Rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây như vạch đất mà hờn, vạch trời để oán than. Những hình ảnh nhỏ bé ấy như thấp thoáng bóng dáng người phụ nữ trong xã hội xưa.
Xã hội phong kiến đầy rẫy định kiến bất công đã ép người phụ nữ bé nhỏ – những người đáng ra nên được che chở, yêu thương – buộc phải gồng mình lên để chống đỡ. Cảnh vật qua cách miêu tả rất độc đáo như đang cựa mình một cách căng tràn sức sống dẫu cho đang trong cảnh bế tắc. Từ đó, một Hồ Xuân Hương bản lĩnh, cá tính và mang khát vọng sống mạnh mẽ đã được bộc lộ một cách rõ ràng hơn. Bà khát khao được hạnh phúc, được yêu thương trọn vẹn, đủ đầy.
Trước mọi sóng gió, nghịch cảnh của cuộc đời, Hồ Xuân Hương với cá tính mạnh mẽ vẫn luôn tự tin, kiêu hãnh đối đầu. Nhưng một người kiêu hãnh, tự tin đến mấy thì cũng không thể chối bỏ một sự thật rằng mình chỉ là một người con gái nhỏ bé, và dù cố gắng bao nhiêu thì cũng chẳng thể vượt qua thân phận trong vòng vây khắc nghiệt của xã hội phong kiến. Tất cả sự cô đơn, phẫn uất ấy sau những giây phút dằn xé, đấu tranh mãnh liệt lại bị thực tại chối bỏ, và trả lại tâm trạng chán chường, ngán ngẩm cho người con gái đáng thương:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Từ “xuân” được tác giả sử dụng với nhiều dụng ý. Nó có thể là mùa xuân của đất trời, mùa xuân của vạn vật, là mùa của sự sinh sôi, đâm chồi nảy lộc. Nhưng nó cũng có thể được hiểu mà tuổi xuân của cuộc đời mỗi con người. Mùa xuân của đất trời qua đi rồi sẽ lại đến với sự tuần hoàn bất diệt của thời gian, nó đem lại sức sống cho muôn ngàn hoa lá. Chỉ có mùa xuân của đời người là chẳng thể vãn hồi, một khi đã qua đi sẽ biến mất vĩnh viễn.
Xuân đi rồi xuân lại với sự sắp xếp hai từ “lại” bên cạnh nhau đã mang đến hai cách hiểu khác nhau. Từ “lại” đầu tiên là chỉ sự lặp lại, từ “lại” thứ hai lại mang ý nghĩa của sự tuần hoàn, sự quay trở lại. Mùa xuân của cuộc đời có thế trôi qua, cứ thêm một lần mùa xuân đến thì ngày xanh của tuổi trẻ cũng dần ra đi. Tuổi trẻ lặng lẽ lướt qua, nhưng tình duyên vẫn chẳng thể vẹn đầy, tâm hồn vẫn chẳng thôi mong đợi trong bế tắc.
“Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Câu thơ cuối sử dụng nhịp thơ 2/2/1/2 cùng với nghệ thuật giảm dần đã bộc lộ rõ sự éo le của nghịch cảnh. “Mảnh tình” đã chẳng trọn vẹn rồi lại còn phải đem “san sẻ”, cuối cùng chỉ còn lại cho mình “tí con con”. Còn gì xót xa, đáng thương hơn điều này. Nhưng đáng buồn là đây lại là một tình cảnh thường thấy trong xã hội phong kiến bởi chế độ “trọng nam khinh nữ”, “tam thê tứ thiếp” đã đẩy người phụ nữ vào cảnh chung chồng, phải chia sẻ tình yêu trong khi vốn dĩ mình chẳng có bao nhiêu. Lời thơ chính là tiếng lòng cất lên từ sâu thẳm trái tim của một người vợ lẽ hèn mọn với nước mắt cay đắng của tận cùng nỗi đau.
Tự Tình 2 không chỉ đặc sắc về nội dung, mà nó còn là một minh chứng cho tài năng nghệ thuật của Hồ Xuân Hương. Qua lời thơ sâu lắng, tinh tế, tác giả đã khắc họa thành công tâm trạng nhân vật qua việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật cùng ngôn từ rất “đắt” lại không kém phần tự nhiên.
Có thể nói, Tự Tình 2 là lời bộc bạch vừa đớn đau, tủi hờn lại vừa có phần thách thức duyên phận, gắng gượng vươn lên dù nghịch cảnh chà đạp, nhưng lại chẳng thể thoát khỏi bi kịch. Đó không chỉ là nỗi đau của riêng Hồ Xuân Hương, mà là nỗi đau của cả thời đại. Nhà thơ qua đó đã cất lên tiếng nói nhân văn cho khát khao hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội xưa. Dù hạnh phúc là một khái niệm xa vời, là một chiếc chăn chật hẹp chẳng thể giữ cho riêng mình, nhưng việc mưu cầu hạnh phúc vẫn luôn tiếp diễn.
Cảm nhận của em về bài thơ tự tình 2
Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 – Hồ Xuân Hương
Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 – Cảm nhận của ảnh chị về tâm sự của Hồ Xuân Hương qua bài thơ Tự tình 2 hay nêu cảm nhận của em về bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương đều là những dạng đề bài thường gặp sau khi học tác phẩm Tự tình của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương trong chương trình Ngữ văn lớp 11. Sau đây là tổng hợp mẫu dàn ý cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 kèm theo các bài văn mẫu cảm nhận Tự tình 2 hay và chi tiết sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các em học sinh khi làm bài.
Với đề bài Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 – Hồ Xuân Hương bao gồm dàn ý cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 và những bài văn hay cảm nhận về bài thơ Tự tình, hy vọng sẽ là tài liệu học tập bổ ích cho các bạn học sinh.
1. Dàn ý cảm nhận Tự tình 2
1. Mở bài
– Giới thiệu về bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương: “Bà chúa thơ Nôm” có chùm thơ “Tự tình” bao gồm ba bài, là tiếng nói của thân phận, là những khát khao, đau buồn của kiếp người. Trong đó, bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện rõ tâm trạng, thái độ của nữ sĩ: vừa buồn đau, vừa phẫn uất trước nghịch cảnh éo le cùng khát vọng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.
2. Thân bài
– Bốn câu thơ mở đầu bài thơ đã cho thấy hoàn cảnh và tâm trạng của nữ sĩ
+ Hoàn cảnh:
Thời gian nghệ thuật: đêm khuya.
Tiếng trống canh giữa đêm khuya cho thấy cảm nhận về bước đi dồn dập của thời gian.
+ Tâm trạng buồn tủi của nữ sĩ:
Những từ ngữ giàu giá trị biểu cảm đã được sử dụng để thể hiện tâm trạng: “Trơ” được đặt đầu câu kết hợp với biện pháp đảo nhấn mạnh cảm giác tủi hổ, chai lì. Hai chữ “hồng nhan” lại đi với từ “cái” gợi lên ý thức về sự rẻ rúng, mỉa mai của thân phận.
“Vầng trăng bóng xế” (trăng sắp tàn) mà vẫn “khuyết chưa tròn” trở thành hình ảnh ẩn dụ, nhấn mạnh hai lần bi kịch của cuộc đời nữ sĩ: tuổi xuân trôi qua mà nhân duyên vẫn không trọn vẹn.
– Ý thức sâu sắc về bi kịch tình duyên, tác giả không chỉ cảm thấy bẽ bàng, tủi hổ mà còn phẫn uất
+ Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những nét chấm phá về rêu và đá hiên ngang tồn tại đầy mạnh mẽ: : “xiên ngang mặt đất”, “đâm toạc chân mây”.
+ Biện pháp đảo ngữ đưa những động từ mạnh lên đầu câu:
Làm nổi bật sức sống mãnh liệt của cỏ cây.
Ẩn dụ cho tâm trạng phẫn uất muốn vượt lên trên nghịch cảnh éo le của tác giả.
– Bài thơ kết thúc cũng bằng cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng chán chường, buồn tủi.
+ “Ngán” mang sắc thái chỉ sự chán ngán, ngán ngẩm.
+ Từ “xuân” được điệp lại hai lần mang những sắc thái ngữ nghĩa khác nhau: vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ tuổi xuân.
+ Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng được sử dụng với hai sắc thái ý nghĩa khác nhau: từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ “lại” thứ hai có nghĩa là quay trở lại, gợi lên sự tuần hoàn, lặp lại.
3. Kết bài
Khái quát giá trị của bài thơ: Bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện một cách sâu sắc, mãnh liệt khát vọng sống, khát vọng tự do và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn một người phụ nữa vừa dịu dàng, đằm thắm vừa mạnh mẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua tài năng trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng của “Bà Chúa thơ Nôm”.
2. Cảm nhận bài thơ Tự tình 2 ngắn nhất
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Đối với người Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ một nhà thơ nào. Bà là “Chúa thơ Nôm” là con của Hồ Phi Diễn (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và một người thiếp quê ở Hải Dương”. Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, “là nhà thơ độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc”.
“Tự tình” là bài thơ thể hiện nỗi buồn và tâm sự của nhà thơ về số phận lẻ loi của mình và niềm khát khao được hạnh phúc, được quân tử yêu thương.
Mở đầu bài thơ là không khí đêm khuya thanh vắng:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Không gian được mở ra giữa đêm khuya, thao thức, nghe tiếng trống dồn dập sang canh. Không gian cô quạnh, không có bóng người, gợi cho người ta cảm thấy ớn lạnh. Nhà thơ nhận thấy sự cô đơn đang bủa vây lấy con người mình, thấy mình cô độc giữa cuộc đời, cảm giác mình nhỏ bé đến lạ giữa đêm tối lại càng gợi sự cô quạnh và trống vắng, không tìm thấy ánh sáng. Nghe những câu thơ mà thấm thía, tội cho một người phụ nữ lẻ bóng mong được tình yêu đích thực.
Tâm trạng bi đát, mượn rượu giải sầu:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Nhà thơ nói lên tâm trạng và nỗi lòng của mình. Rất buồn, ngồi uống uống chén rượu để quên đi hiện tại, để quên đi sự cô đơn bủa vây nhưng càng uống càng tỉnh, tỉnh lại càng buồn hơn. Mượn rượu giải sầu, ai ngờ càng sầu hơn, lại càng gò bó mình hơn trong không gian cô quạnh. Nhìn trăng thấy trăng đã xế bóng mà lại chưa tròn. Vầng trăng như là thân phận của nhà thơ, “Khuyết chưa tròn”: Chưa tuyệt vọng vẫn còn ấp ủ niềm hi vọng. Không biết đến khi nào vầng trăng ấy mới tròn và nhà thơ mới được cảm nhận hạnh phúc của bản thân.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Nhà thơ không say, nhìn cảnh vật ở những nơi khác nhau, mở rộng tầm nhìn: những đám rêu trên mặt đất, mấy hòn đá phía chân trời. Những hình ảnh rất là ước lệ. Nhìn từ gần sát mình đến xa tít tắp tận chân trời. “Rêu” là loài mỏng manh nhỏ bé, nhưng lại có sức sống vô cùng mạnh mẽ, dù ở điều kiện nào nó vẫn phát triển rất là tốt. Cái nhìn khoẻ khoắn, có một sự phản kháng, sự vươn lên để khẳng định chỗ đứng của mình.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.”
Từ thiên nhiên xung quanh, nhìn lại bản thân mình, cảm thấy ngán nỗi, buồn cho mình, nghịch lí. Nhà thơ cảm thấy ngán ngẩm cho những quy luật của tạo hóa, xuân đi qua, rồi xuân lại đến. Thời gian cứ trôi qua xuân đi xuân lại lại, một sự tuần hoàn liên tục nghe mà ngán ngẩm cho duyên phận của mình. Tuổi xuân trôi qua mà lại không có tình duyên trọn vẹn. Mảnh tình của mình qua bao ngày ngóng đợi, thì lại phải san sẻ, không được trọn vẹn. Một nỗi buồn chán và thất vọng lại bao phủ. Ý cũng muốn nói đến những người thê thiếp đâu được hưởng niềm hạnh phúc mong ước, mà phải san sẻ cho bao nhiêu người. Thê thiếp thì đâu có tiếng nói, đâu có quyền sắp đặt mọi chuyện.
Đây là một bài thơ vô cùng hay và ý nghĩa. Một bài thơ chứa đựng nỗi buồn và niềm khát khao chân thành. Trong nền thơ trung đại, lần đầu tiên mới có một người phụ nữ dám nói lên điều ấy.
3. Cảm nhận bài thơ Tự tình 2 – mẫu 1
Ni-cu-lin, một người Nga, nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, đã phát hiện nền văn học dân gian Việt Nam thời trung cổ không được thừa nhận vào lĩnh vực thơ ca cao cấp”.
Thực ra, lịch sử văn học trung đại Việt Nam vẫn có quy luật này: hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết tồn tại và phát triển song song trong suốt trường kì lịch sử vẫn luôn luôn có tác động qua lại. Khi những tinh hoa của hai bộ phận này kết tụ lại ở những cá tính sáng tạo nào đó, trong những điều kiện lịch sử nhất định, thì đất nước lại được thấy sự xuất hiện của những thiên tài văn học với những áng thơ văn bất hủ. Ấy là những trường hợp Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,…
Tuy nhiên, ở Hồ Xuân Hương, quy luật này vẫn có một khía cạnh đặc biệt khác thường. Đây là trường hợp tư tưởng dân gian lấn át hẳn tư tưởng chính thống mà các tác giả Nho học, dù là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du cũng không hoàn toàn dứt bỏ được. Một tinh thần nổi loạn quyết liệt muốn san bằng mọi đẳng cấp trong xã hội, một khát vọng được sống, được hưởng hạnh phúc đúng với nghĩa thiết thực nhất, người nhất, trần tục nhất, chống lại mọi ràng buộc của lễ giáo phong kiến và tất cả những gì trái với tự nhiên – một thứ tư tưởng đặc biệt đề cao người phụ nữ là hạng người bị khinh rẻ nhất trong xã hội phong kiến – và lấy quy luật Tạo hoá làm chuẩn, đề cao sự sống tự nhiên như trời đất giao hoà, âm dương giao phối. Một thứ tư tưởng đi thẳng từ tục lệ thờ cúng sinh thực khí, từ những lễ hội nam nữ giao phối tượng trưng còn tồn tại mãi sau này ở nhiều làng xã Việt Nam, từ những bức tranh Đông Hồ như Hứng dừa, Đánh ghen hay những bức khắc gỗ Các cô gái tắm ao vẫn còn đó ở đình Thổ Tang, Vĩnh Phúc, từ những truyện tiếu lâm, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn hay những câu ca dao hết sức táo tợn:
– Không chồng mà chửa mới ngoan,
Có chồng mà chửa thế gian đã nhiều.
– Có chồng càng dễ chơi ngang,
Đẻ ra con thiếp còn chàng con ai.
– Lẳng lơ cũng chẳng có mòn,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ.
Tư tưởng ấy đem đến cho Hồ Xuân Hương một nhãn quan riêng về thế giới: nhìn đâu cũng thấy Tạo hoá sinh sôi, âm dương giao phối, một thế giới trẻ trung, sống động, tốt tươi phồn thực, phơi phới xuân tình, đầy tràn sắc dục,…
Một tư tưởng như thế tấn công mạnh mẽ và chiếm lĩnh được nội dung chủ đạo của văn chương bác học, chỉ có thể xuất hiện ở thời đại mà chế độ phong kiến khủng hoảng sâu sắc, thời đại quật khởi của nhân dân. Ấy là thời đại từ Nam chí Bắc, nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tiếp dẫn tới đỉnh cao là phong trào Tây Sơn lật đổ vua Lê, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, dẹp tan chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rước thẳng lên ngôi vua một anh hùng nông dân. Ông “vua áo vải” này với khí thế của quần chúng như triều dâng thác đổ, đã chớp nhoáng tiêu diệt quân Xiêm phía Nam và đánh tan hàng vạn quân Thanh phía Bắc.
Phải coi thơ Xuân Hương như tiếng dội trực tiếp của khí thế ấy mới hiểu được tinh thần táo tợn rất bình dân ở người đàn bà trí thức này. Tất nhiên Hồ Xuân Hương không phải là một hiên tượng đơn độc mà nằm trong cả một trào lưu văn học đầy tinh thần nhân văn chủ nghĩa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Nhưng phải nói ở nhà thơ này, sự “xâm lăng” của tinh thần dân gian vào văn học viết vẫn mãnh liệt hơn cả. Nếu ta nhớ rằng, đến mãi đầu thế kỉ XX, những nhà nho cấp tiến như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng vẫn còn coi Truyện Kiều là dâm thư, cô Kiều là con đĩ, thì có thể mường tượng được, vào thế kỉ XVIII, dư luận của giới nho sĩ đã phản ứng dữ dội như thế nào trước những vần thơ đi trước thời đại của Hồ Xuân Hương.
Nhưng khát vọng giải phóng nhân dân, giải phóng người phụ nữ của Xuân Hương làm sao có thể thực hiện được trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Đến ngay như Vương triều Tây Sơn cuối cùng cũng rơi vào khủng hoảng để cho Nguyễn Ánh trở lại khôi phục được nền chuyên chế nặng nề. Cho nên khuôn khổ của chế độ phong kiến trở nên quá chật hẹp đối với sức sống và tư tưởng ngang tàng của Xuân Hương; nhưng ngược lại, dù chống phá mạnh mẽ, sôi sục thế nào, Xuân Hương cuối cùng cũng không thoát ra khỏi được khuôn phép của chế độ ấy. Có thể nói, Xuân Hương là nỗi bức bối, là sự ấm ách của lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, muốn tìm một lối thoát mà chưa tìm được. Tấn bi kịch lịch sử này ngẫu nhiên lại gặp gỡ tấn bi kịch cá nhân của người đàn bà họ Hồ, một kì nữ tài ba với sự thức tính mạnh mẽ về ý thức cá nhân, về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của người phụ nữ, vậy mà cuộc đời lại phải chịu nhiều bất hạnh: một lần làm lẽ, hai lần goá chồng!
Cái bức bối, cái ấm ách vừa có tính cá nhân vừa có tính lịch sử đó đã tạo nên một nội dung riêng và một chất giọng riêng của thơ Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương sáng tác một loạt ba bài Tự tình (Kể nỗi lòng), người ta đánh số I, II, III.
Căn cứ vào ý thơ, giọng thơ, giới nghiên cứu đồ rằng, ba bài Tự tình đều làm khi nhà thơ tuổi đời đã xế và, vì thế đã từng phải nếm vị chua chát, nỗi chán chường của phận lẽ mọn và cảnh goá bụa. Nghĩ lại những ngày qua, người thiếu phụ – thi sĩ “Giật mình mình lại thương mình xót xa”. Nhưng khác với Thuý Kiều, cái tôi Xuân Hương, dù bế tắc vẫn không hoàn toàn khuất phục, dù bất lực vẫn không chịu buông xuôi.
Bài thứ nhất (Tự tình I) lấy cảm hứng vào lúc đã có tiếng gà báo sáng (“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom”) ; bài thứ hai (Tự tình II) lấy cảm hứng vào lúc đêm đã về khuya (“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”). Đó là thời khắc của hạnh phúc lứa đôi, của sum họp vợ chồng, vì thế cũng là thời khắc người vợ lẽ hay người goá phụ cảm nhận được đầy đủ nhất, sâu sắc nhất, thấm thìa nhất, cảnh cô đơn, nỗi bất hạnh của thân phận mình:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Đêm đã khuya mà nhà thơ vẫn tính thức – vì không ngủ được hay không muốn ngủ? – ngồi lắng nghe tiếng trống cầm canh nơi một đồn ải nào vẳng lại, nhắc nhớ một cách quái ác thời gian dường như cứ dồn đuổi nhau trôi đi, trôi đi một cách uổng phí và vô nghĩa lí trên thân phận trớ trêu của người đàn bà vẫn khao khát hạnh phúc mà phải chịu cảnh chăn đơn, gối chiếc,…
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chữ nghĩa của Xuân Hương bao giờ cũng trần trụi đến tàn nhẫn như thế.
Khi nhà thơ dùng đến hai chữ “hồng nhan” thì có nghĩa là ở người thiếu phụ, xuân sắc vẫn còn, xuân tình chưa cạn, vậy mà cứ phải “trơ” ra đó, không kẻ đoái hoài. Có người hiểu chữ “trơ” theo nghĩa trơ lì, không còn cảm giác: “Đau thương, ê chề ngấm sâu dần, sâu dần vào xương cốt, biến con người thành vật vô tri”. Đây là cách hiểu chữ trơ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. Tôi cho rằng, hiểu thơ như thế là trái ngược vói tư tưởng tác giá trong Tự tình (bài II) này. Người đàn bà này, dúng là đã nếm trải nhiều bất hạnh, nhưng tâm hồn vẫn luôn luôn cháy bỏng, luôn luôn sôi sục, một tâm trạng bồn chồn không yên, thể hiện ở hai câu thực:
Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,
Vầng trâng bóng xế khuyết chưa tròn.
Uống rượu để quên đời, nhưng không quên được: “say lại tỉnh”, khao khát sự thoả mãn mà ngó ra ngoài trời, chỉ thấy đêm tàn trăng khuyết.
Nhưng đây mới thực là tính cách và ngôn ngữ Xuân Hương:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Thế giới hình tượng của thơ Xuân Hương bao giờ cũng hoạt động mạnh mẽ và huyên náo như thế. Đó là không gian, thời gian trần tục, trần thế nên luôn luôn vận động, sôi sục, đối lập với không khí tĩnh lặng, phi thời gian của cổ thi (“Mõ thảm không khua mà cũng cốc – Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”; “Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc – Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo”; “Gió giật sườn non khua lắc cắc – Sóng dồn mặt nước vỗ long bong”,… Ngay cả màu sắc trong thơ Xuân Hương nhiều khi cũng như muốn gào lên, muốn hét lên: “Cửa son đỏ loét tùm hum nóc – Hòn đá xanh rì lún phún rêu”; “Một trái trăng thu chín mõm mòm – Nẩy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom”,…).
Tuy nhiên, âm thanh hay màu sắc, dù sao tự nó cũng phát ra tiếng động hoặc hiện thành xanh, vàng, trắng, đỏ,… Nhà thơ chỉ cần phóng đại thật to, tô cho thật đậm để trở thành âm thanh, màu sắc độc đáo của Xuân Hương. Nhưng dưới ngòi bút của nữ sĩ họ Hồ, ngay cả những vật hoàn toàn tĩnh lại, hoàn toàn bất động cũng đột nhiên trở thành những sinh vật biết cựa quậy, biết vùng vẫy, biết phá phách: “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám – Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”. Thủ pháp đảo ngữ được sử dụng ở đây càng nhấn mạnh tính hoạt động mạnh mẽ, dữ dội của thế giới nghệ thuật Hồ Xuân Hương.
Vậy là cái tôi đầy sức sống mà bị dồn nén của Xuân Hương từ những câu đề, qua hai câu thực, đến những câu luận, cứ nổi lên dần: lúc đầu là nỗi chán chường, ngán ngẩm “Trơ cái hồng nhan với nước non”, tiếp đó là tâm trạng bực dọc, bồn chồn, muốn say mà không say được, trong khi đêm thì tàn mà trăng vẫn khuyết: “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh – Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Cuối cùng là nỗi bức bối, niềm phẫn uất muốn vùng lên phá phách. Khát vọng sống của con người này, yêu cầu thực hiện triệt để tính cách, cá tính của người đàn bà đặc biệt này, chẳng những chế độ phong kiến không dung nổi, mà đến trời đất cũng trở nên chật hẹp.
Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Hương thường đặt nhân vật của mình đối diện với thiên nhiên rộng lớn, kề vai với vũ trụ mênh mông (“Thân em vừa trắng lại vừa tròn – Bảy nổi ba chìm với nước non”; “Gan nghĩa giãi ra cùng nhật nguyệt – Khối tình cọ mãi với non sông”; “Văng vẳng bên tai tiếng khóc chồng – Nín đi kẻo thẹn với non sông”; “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn – Trơ cái hồng nhan với nước non”,… Ấy là một con người có kích cỡ đặc biệt, không phải chỉ của bản thân mình hay của một gia đình, một làng, một xã, mà còn là của nhân dân, của đất nước, của Tạo hoá, của vũ trụ. Có nghĩ như vậy, ta mới hiểu được vì sao Xuân Hương có thể tự đặt mình từ thế đứng rất cao với thái độ và giọng điệu hết sức kẻ cả khi đối thoại với đời, dù đó là những bậc hiền nhân quân tử, là Thái thú Sầm Nghi Đống, là những đấng anh hùng (“Mát mặt anh hùng khi tắt gió”) thậm chí là vua, là chúa (“Chúa dấu, vua yêu một cái này” – Vịnh cái quạt).
Nhưng Xuân Hương, dù tư tưởng có thể đi trước thời đại, nhưng trong đời thực vẫn không thể vượt khỏi thân phận của mình. Vì thế, những hành vi phá phách, nổi loạn dù táo tợn thế nào cũng chỉ là những vùng vẫy trong giới hạn của ngôn từ mà thôi. Nhà thơ đành chấp nhận số phận của mình bằng một tiếng thở dài ngao ngán:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mánh tình san sẻ tí con con!
Nhưng Xuân Hương đích thực là nhà thơ của mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu của sự sống tươi ròng, của tinh thần lạc quan, yêu đời. Đó cũng chính là chất dân gian đậm đặc của hồn thơ này. Đọc thơ Xuân Hương, thấy có đủ cả buồn khổ, đắng cay, chán chường, căm uất, đủ cả oán thù, phẫn nộ, thậm chí muốn tung hết tất cả, phá phách tất cả…, nhưng không bao giờ mất hết niềm tin ở cuộc đời, ở sự sống. Điều ấy có thể cảm nhận rất rõ ở thế giới nghệ thuật hết sức sống động của nữ sĩ, một thế giới không bao giờ hoàn toàn vắng lặng: nếu không có tiếng chuông chùa văng vẳng, tiếng mõ, tiếng trống cầm canh thì cũng có tiếng “gà gáy trên bom”, tiếng “sóng dồn mặt nước”, tiếng “gió giật sườn non”, hay “cành thông gió thốc”,… Và nếu lắng nghe còn thấy “Rúc rích thây cha con chuột nhắt – Vo ve mặc mẹ cái ong bầu”,… Một thế giới hình tượng sống động, luôn cựa quậy, luôn hoạt động: “Cỏ gà lún phún leo quanh mép – Cá giếc le te lách giữa dòng” ; “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám – Đâm toạc chân mây đá qiấy hòn” ; “Gan nghĩa giãi ra cùng nhật nguyệt – Khối tình cọ mãi với non sông”,… Một thế giới đầy màu sắc trẻ trung, hồng hào, tươi tốt, chan chứa xuân sắc, xuân tình,… Tất cả đều được phát hiện và đánh giá theo một quan điểm mĩ học độc đáo của Xuân Hương: lấy vẻ đẹp thanh tân, khoẻ khoắn, phồn thực, tự nhiên của cơ thể người đàn bà giữa tuổi xuân làm chuẩn. Trong thế giới nghệ thuật ấy, tiếng khóc không hẳn là lời tuyệt vọng và cái chết không hề muốn ngăn đường sự sống cKhóc ông phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc,…).
Đúng là Tự tình (bài II) đã kết thúc bằng một lời chua chát: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con”. Nhưng như thế là tuổi xuân chưa hết, tình xuân vẫn đầy.
Xưa thường có câu: “Chữ rằng, xuân bất tái lai”. Nhưng Xuân Hương lại nói “xuân đi xuân lại lại”, có nghĩa là người đàn bà vẫn còn có cái để chờ đợi, để ước ao, tuy rằng hạnh phúc mong đợi ấy chưa bao giờ được hưởng trọn vẹn: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Có một vấn đề rất nên đặt ra đối với thơ Hồ Xuân Hương nói chung: Vì sao tư tưởng dân gian gần như thuần chủng, nguyên chất ở Xuân Hương lại không được diễn đạt bằng các thể thơ dân gian như lục bát, song thất lục bát mà lại tự ép mình vào khuôn khổ thơ Đường, một thể thơ bác học ngoại nhập, luật lệ rất nghiêm minh? Lại một nét oái oăm, độc đáo của thơ Xuân Hương chăng? Nhưng ngẫm ra, thấy sự chọn lựa của nữ sĩ rất có lí, có thể nói là rất tự nhiên nữa.
Song thất lục bát là thể ngâm, hợp với lời trữ tình than thở. Lục bát thì mạnh về khả năng tự sự và thiên về diễn tả tình cảm thiết tha. Nhưng thơ Xuân Hương không chỉ có tình cảm mà còn có trí tuệ, có tư tưởng, đồng thời có nhu cầu tạo tính đa nghĩa trên mỗi dòng thơ, từ mỗi hình ảnh, mỗi ngôn từ: nghĩa hiển ngôn, nghĩa hàm ẩn, nghĩa trần trụi, nghĩa ỡm ờ, nghĩa từ vựng, nghĩa xã hội – tâm lí, nghĩa thanh, nghĩa tục, v.v.
Muốn đạt được những yêu cầu ấy, Xuân Hương rất cần đến khả năng của thất ngôn bát cú, của cấu trúc chặt chẽ, của luật đối ngẫu và của tính hàm súc với khả năng dồn nén nhiều nghĩa và tạo ý ngoài lời (ý tại ngôn ngoại).
Nhưng Xuân Hương, một mặt khai thác khả năng của thơ Đường, mặt khác lại cố tình xoá sạch, khước từ điển tích, điển cố, lối diễn đạt ước lệ cách điệu hoá, sự sử dụng màu sắc tao nhã, trừu tượng, thay vào đấy là sự khai thác triệt để những ngôn từ thuần Việt và các thú pháp nghệ thuật dân gian, đặc biệt là nghệ thuật trào phúng, hổn nhiên và táo tợn của ca dao, dân ca, của truyện tiếu lâm, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn,… Và trên cái văn bản Việt hoá và dân gian hoá đó, bao giờ cũng hằn lên cái dấu triện “Xuân Hương hoá” đầy cá tính độc đáo và mãnh liệt của “thiên tài kì nữ” họ Hồ.
4. Cảm nhận bài thơ Tự tình 2 – mẫu 2
Xã hội phong kiến xưa luôn tôn thờ chế độ “Trọng nam, khinh nữ” khiến cho cuộc đời và số phận của những người phụ nữ vô cùng bấp bênh, đau khổ. Họ không có quyền lựa chọn hạnh phúc cho bản thân, luôn phải sống dưới cái bóng quá lớn của khuôn khổ “Tam tòng, tứ đức”. Tuy nhiên, trước số phận nghiệt ngã ấy, có những người chọn cách im lặng, cam chịu, nhưng cũng có những người dám đứng lên để đấu tranh cho khát khao hạnh phúc của bản thân. Hồ Xuân Hương là một người như vậy. Bà là một trong số rất ít nhưng nhà văn nữ ở thời đại này nhưng ở Hồ Xuân Hương lại nổi bật một cá tính riêng không trộn lẫn. Là một “nhà văn phụ nữ viết về phụ nữ”, Hồ Xuân Hương đã dám cất lên tiếng nói để bộc lộ tâm sự, suy tư thầm kín. Có lẽ cũng bởi cuộc đời long đong lận đận của mình mà các sáng tác của Hồ Xuân Hương chủ yếu nói về người phụ nữ, nhất là những người mang thân phận làm lẽ. Bài thơ “Tự tình II” như nói lên tất cả
Không chỉ sáng tác thơ chữ Hán, mà các sáng tác thơ Nôm của bà cũng vô cùng phong phú. Chính vì vậy, “ông hoàng thơ tình Xuân Diệu” đã ưu ái gọi bà là “bà chúa thơ Nôm”. Bài thơ “Tự tình II” nằm trong chum ba bài “ Tự tình”, thể hiện rõ tài năng cũng như phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương. Đó là sự hòa quyện giữa một chất thơ trữ tình cùng sự táo bạo, dí dỏm. Bài thơ “Tự tình II” chan chứa nỗi đau thầm kín, bộc lộ cảnh ngộ, thân phận và nhân cách, bản lĩnh của Hồ Xuân Hương.
Tâm trạng của Hồ Xuân Hương bắt đầu trong một không gian vô cùng đặc biệt:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”.
“Đêm khuya” là khoảng thời gian mà vạn vật đã chìm vào giấc ngủ. Đó cũng là khoảng thời gian con người gạt bỏ hết những trăn trở, âu lo để trở về với hạnh púc gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Nhưng với những người phụ nữ cô đơn, thì “đêm khuya” chính là lúc con người ta chất chứa nhiều tâm sự, là khoảng thời gian tâm tư sâu lắng nhất, thấm thía nhất nỗi bất hạnh, cô đơn đến tột cùng. Hồ Xuân Hương cũng vậy, khi màn đêm bao trùm lấy cảnh vật, cũng là lúc bản thân phải tự đối diện với lòng mình. Trong cái không gian tĩnh mịch ấy, bỗng “văng vẳng” tiếng “trống canh”. “Trống canh” là báo hiệu của thời gian, nay kết hợp với từ láy tượng thanh “văng vẳng” khiến âm thanh như từ xa vọng về, đầy ma mị, rối bời. Từ “dồn” như muốn nói lên sự dồn đuổi của thời gian lên cảnh vật, như thúc giục mọi người. Tuy nhiên, cấu trúc đảo ngữ đã khẳng định đây không chỉ là sự dồn đuổi của thời gian lên cảnh vật mà còn là sự dồn đuổi của tuổi trẻ giữa cái vòng tuần hoàn ngày-đêm của tạo hóa. Nếu như thời gian của cuộc đời là vô thủy, vô trung thì thời gian của đời người là hữu hạn. Giữa không gian yên ắng ấy là hình ảnh người phụ nữ lọt thỏm giữa bốn bề vắng lặng:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”.
“Trơ” có nghĩa là trơ trọi, được đặt ở đầu câu gây ấn tượng mạnh. Người phụ nữ trơ trọi giữa không gian lạnh lẽo, yên ắng. Từ “trơ” cũng có nghĩa là tủi hổ, bẽ bàng trước số phận lẻ loi, tình duyên không trọn. Từ xưa đến nay, người ta dùng từ “hồng nhan” để chỉ người con gái đẹp với hàm ý nâng niu, trân trọng. Nhưng Xuân Hương lại nói “cái hồng nhan” thì nghe thật rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” “trơ” với nước non không chỉ là dầu dãi mà còn là cay đắng, gợi nên sự bạc phận, xót xa. Tuy nhiên, “cái hồng nhan” khi đặt trong thế đối sánh với “nước non” như một thoáng kiên cường, mạnh mẽ, như một sự thách thức, kiêu hãnh của một tâm hồn đầy cá tính. Biện pháp đảo ngữ cho thấy bên cạnh nỗi đau Xuân Hương còn là một bản lĩnh Xuân Hương.
Sau những giây phút cô đơn, lạc lõng là những bế tắc, tuyệt vọng:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Trong sự cô đơn, người phụ nữ ấy tìm đến rượu để quên đi nỗi đau nhưng càng uống thì lại càng như nuốt tủi, nuốt hận vào lòng. Cụm từ “say lại tỉnh” như vẽ ra một cái vòng luẩn quẩn, bế tắc, không có lối thoát. Bà tìm đến vầng trăng-người bạn tri kỉ muôn đời của những tâm hồn cô đơn với khao khát trăng sẽ chia sẻ nỗi niềm cô đơn, buồn tủi ấy. Nhưng vầng trăng cũng “khuyết chưa tròn”. Bằng việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, nhà thơ đã tạo nên sự đồng điệu giữa ngoại cảnh và tâm cảnh. Vầng trăng đã ở phía bên kia bầu trời mà vẫn khuyết cũng như tuổi xuân của con người đã trôi qua mà tình duyên chưa trọn vẹn. Tất cả những cố gắng thoát ra khỏi nỗi đau đều không thành, cuối cùng lại càng bế tắc khôn nguôi.
Sự bế tắc ấy đã khiến nhân vật trữ tình trào dâng nỗi niềm phẫn uất. sự phẫn uất ấy cuộn chảy mạnh mẽ, thấm cả vào cảnh vật:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.
“Rêu”, “đá” là những sự vật nhỏ bé, vô tri, không được coi trọng. Nữ sĩ sử dụng hình ảnh của những sự vật bé nhỏ, hèn mọn, kết hợp với các động từ mạnh “xiên’, “đâm” để nói lên sức mạnh phản kháng trào dâng. Biện pháp liệt kê một lần nữa xuất hiện như muốn khẳng định thêm nỗi lòng phẫn uất của nhà thơ. “Rêu xiên ngang mặt đất”, “đá đâm toạc chân mây” như vách đất mà hờn, vạch trời mà oán. Ẩn sau những hình ảnh bình dị, giản đơn ấy, có lẽ chúng ta lại thấy bóng dáng của những người phụ nữ. Xã hội phong kiến quá bất công, khiến những người phụ nữ bé nhỏ phải oằn mình lên để chống đỡ. Qua cách miêu tả đầy tinh tế, cảnh vật hình như đang cựa quậy, căng đầy sức sống ngay cả trong bế tắc. Biện pháp tả cảnh ngụ tình đã thể hiện rõ bản lĩnh, cá tính và khát vọng mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương. Đó là khát khao hạnh phúc, khát khao được yêu thương trọn vẹn.
Hồ Xuân Hương có thể nói là một người phụ nữ cá tính, mạnh mẽ. Trước những sóng gió cuộc đời, bà vẫn luôn tự tin, kiêu hãnh. Tuy nhiên, dù tự tin, kiêu hãnh là thế, những cuối cùng, bà vẫn không thể vượt qua thân phận mình trong vòng vây của xã hội phong kiến. Sau tất cả sự cô đơn, tuyệt vọng, phẫn uất, đọng lại là tâm trạng ngán ngẩm, chán chường:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Từ “xuân” trong thơ Hồ Xuân Hương thật đa nghĩa. “Xuân” là mùa xuân của đất trời, là mùa của vạn vật sinh sôi, đâm chồi nảy lộc. Nhưng “xuân” cũng là tuổi xuân của con người. Mùa xuân qua đi rồi mùa xuân lại đi tới, tạo hóa vẫn tuần hoàn với muôn ngàn hoa lá, cỏ cây. Chỉ có tuổi xuân của đời người qua đi mà vĩnh viễn biến mất. Xuân đi rồi xuân lại, hai từ “lại” xếp cạnh nhau những mang hai ý nghĩa. Từ “lại” thứ nhất có nghĩa là thêm một lần nữa, còn từ “lại” tiếp theo mang ý nghĩa là sự tuần hoàn, quay trở lại. Thời gian của cuộc đời cứ thế vô tình trôi qua, cứ mỗi mùa xuân trở lại là ngày xanh của tuổi trẻ lại lần lượt ra đi. Tổi trẻ thì cứ lặng lẽ kết thúc, trong khi tình duyên vẫn mãi chẳng vẹn đầy:
“Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Nhịp thơ 2/2/1/2 và nghệ thuật giảm dần làm cho nghịch cảnh trở nên éo le. Mọi người thường hay nói “mối tình”, “cuộc tình”, chứ “mảnh tình” thì nghe thật mâu thuẫn. Cụm từ “mảnh tình” khiến người đọc liên tưởng đến điều gì đó nhỏ nhoi, ít ỏi. Đau đớn hơn, “mảnh tình” đã bé, đã ít lại còn phải đem ra san sẻ, cuối cùng chỉ còn lại “tí con con” xót xa, tội nghiệp. Lời thơ quả thực cất lên từ sâu thẳm trong trái tim người đàn bà lẽ mọn với nước mắt đắng cay và tận cùng đau khổ.
“Tự tình II” thể hiện đặc sắc tài năng nghệ thuật của Hồ Xuân Hương. Tâm trạng nhân vật được khắc họa thành công qua việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật, ngôn từ tinh tế nhưng vẫn rất tự nhiên. Bài thơ là những lời bộc bạch vừa buồn tủi, vừa thách thức duyên phận, gắng gượng vươn lên những vẫn rơi vào bi kịch. Thế nhưng đó không chỉ là nỗi đau của riêng bà. Xuân Hương ôm trong mình nỗi đau của cả một thời đại. Nhà thơ cất lên tiếng nói nhân văn cho số phận, khát khao của những người phụ nữ trong xã hội xưa khi mà với họ, hạnh phúc là một chiếc chăn qua hẹp Qua đó, thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Có thể nói, đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương. Đó là sự thống nhất giữa một trái tim yếu mềm, đa cảm, nhiều yêu thương và một bộ óc mẫn tiệt, thông tuệ. Trong dòng chảy của văn học trung đại Việt Nam, ta thấy Xuân Hương nổi bật lên giữa tất cả các khuôn mẫu thông thường. Dù chỉ là một người phụ nữ nhỏ bé nhưng dám cất lên tiếng nói đòi quyền hạnh phúc, dám nói lên khát khao được yêu thương.
Qua bài thơ “Tự tình II”, ta thấy được tài năng cũng như trái tim nhân hậu của Xuân Hương. Dù cho có đau khổ, bế tắc thì vẫn luôn kiên cường, mạnh mẽ. Hình ảnh của Xuân Hương như một tấm gương sáng ngời về một người phụ nữ mạnh mẽ, thông minh, tài năng, nhân hậu mà những người phụ nữ ở thời đại trước hay thời đại ngày nay đều nên học tập. Không chỉ “ Tự tình II” mà tất cả những sáng tác của bà đều sẽ mãi in dấu trong lòng người đọc qua nhiều thế hệ. Bởi ở bà, ta thấy được một con người mang đầy tinh thần nhân đạo, là một Xuân Hương “kì nữ, kì tài”.
5. Cảm nhận của anh chị về tâm sự của Hồ Xuân Hương qua bài thơ Tự tình 2
Trong hệ thống những bài thơ mang chứa tâm sự của Hồ Xuân Hương, “Tự Tình” là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thầm thía của người yêu đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp những cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao khát tình yêu nhưng gặp toàn dang dở bất hạnh. Đó là sự bất hạnh của một ước mơ không thành.
Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió (nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX), Hồ Xuân Hương là người chứng kiến và phần nào chịu ảnh hưởng của không khí sôi sục của phong trào quần chúng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Không khí ấy tác động đến tâm hồn vốn thông minh và giàu lòng trắc ẩn của bà. Bà uy nghiêm, thức tỉnh, trắc trở về đời mình, một cuộc đời đầy éo le, bạc phận, lấy chồng hai lần, hai lần làm lẻ và hai lần chồng đều chết sớm. Điều đó, với bà là những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của nỗi đau “hồng nhan bạc phận”.
Mở đầu bài thơ Tự tình, tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc xao xác tiếng gà. Đây là một thứ không gian, thời gian nghệ thuật được vận dụng làm cho sự thổ lộ tâm trạng tác giả:”canh khuya văng vẳng trống canh dồn”. “Văng vẳng” chính là từ tượng thanh nhưng ở đây nó biểu thị tâm trạng, không khí, cái không khí buồn vắng lặng của một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng. Câu thứ hai nhức nhói một tâm sự :
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Hay nhất của câu thơ thứ hai là từ “trơ”. Trơ là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ cảm nhận nỗi buồn hồng nhan. Một nỗi buồn cá thể càng kinh khủng hơn khi cọ xát với toàn xã hội, toàn cuộc đời: “nước non”. Một nỗi buồn đè nặng lên tâm sự bà, lên số phận của người phụ nữ. Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại, thoát khỏi. ” Chén rượu hương đưa” là một phương tiện. không phải là phương tiện duy nhất mà hầu như là cuối cùng cho một đè nén quá mức. Thế nhưng, bi kịch vẫn cứ là bi kịch :
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”
Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lý Bạch :
“Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt
Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu”.
Bất lực, câu thơ chuyển sang một sự cám cành si tình. Hồ Xuân Hương nói :
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Trong quan điểm thẩm mỹ xưa, vầng trăng tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của người phụ nữ. Câu “vầng trăngbóng xế khuyết chưa tròn” vừa là hình ảnh đẹp, có thực nhưng đượm buồn. Cái buồn của một “vầng trăng khuyết”. Đối với thơ xưa cảnh là tình, cảnh trăng khuyết man mác, gợi nhớ cuộc đời bà. Trong “mời trầu” bà đã ẩn ý như vậy.
Sang câu 5, 6 tứ thơ như đột ngột chuyển biến. sự cụ thể trong miêu tả khiến việc tả cảnh trở nên thuần khuyết. Một cảnh thực hoàn toàn :
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.
Nghệ thuật đảo ngữ và đối tạo nên sự sinh động và cảnh đầy sức sống. Một sức sống của bà như vẫy đạp, cựa mình. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của “bà chúa thơ Nôm” chứ không phải của ai khác. Rò ràng, dẫu đang rất buồn, rất cô đơn nhưng điều đó vẫn không làm suy giảm chất riêng của Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh, sức sống mãnh liệt, sự khát khao với cuộc đời khiến cho lòng đầy cám cảnh bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời, tha thiết, chứa chan sức sống. Đó là lý giải về những phản kháng, đối nghịch trong bản chất của bà, tạo nên những vần thơ châm biến đối lập. Vũ khí ấy hơn hẳn chén rượu “say rồi tỉnh”. Đó là phương tiên kỳ diệu nâng đỡ tâm hồn bà. Chỉ như thế mới có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương, ở hai câu kết :
“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”.
Yêu đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế, mà cuộc đời riêng thì vẫn:”xuân đi xuân lại lại.”, điệp từ chỉ cái vòng luẩn quẩn đáng ghét, vô vị của ngày tháng, cuộc đời. Điều này khiến bà không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình” đang bị san đi, sẻ lại… chia xới. Đối với trái tim thiết tha với đời kia, điều đó như một vết thương, nhức nhối.
Người ta nói rằng thơ là tâm trạng, là một bức thông điệp thẩm mĩ. Đọc “tự tình”, ta thấu hiểu tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn khát khao hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại bắt gặp toàn những dang dở, bất hạnh, điều đó tạo nên thơ bà có khi là một tiếng thở dài. Một tiếng thở đáng quý của một người có hoài bão nhưng không thể thực hiện được, trách nhiệm là ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập gay gắt với cơ cấu chung, trong chiều hướng ấy, “tự tình” là một bà thơ đòi quyên hạnh phúc, một lời phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực của người phụ nữ, tạo được sự thấu hiểu , đồng cảm với cảnh ngộ éo le, trắc trở.
Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của HoaTieu.vn.
Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp ngắn gọn, chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé!

1. Tác giả
Trước hết, bài cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 xin dành vài dòng để giới thiệu về tác giả Hồ Xuân Hương. Cho đến hiện tại giới nghiên cứu vẫn chưa đưa ra tài liệu chính xác về năm sinh và năm mất của Hồ Xuân Hương – một nữ sĩ tài danh của làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Mặc dù quê của bà ở Nghệ An nhưng bà lại sống gắn bó với mảnh đất Thăng Long nghìn năm văn hiến. Hồ Xuân Hương may mắn có cơ hội được đi đến nhiều nơi và kết thân với nhiều danh sĩ thế nhưng có một điều không may mắn với bà là cuộc đời, tình duyên lại có lắm ngang trái, éo le.
Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm” vì đã đóng góp cho đời những bài thơ chữ Nôm giàu giá trị (sáng của Hồ Xuân Hương bao gồm thơ chữ Hán và chữ Nôm, nhưng thơ Nôm có phần nổi bật hơn). Theo các tài liệu lưu truyền thì tên tuổi của Hồ Xuân Hương gây được tiếng vang là bởi trên dưới 40 bài thơ Nôm. Ngoài ra, Hồ Xuân Hương còn có tập “Lưu hương kí” gồm 24 bài chữ Hán và 26 bài chữ Nôm. Hồ Xuân Hương để lại ấn tượng trong lòng độc giả nét phong cách trào phúng mà trữ tình, đậm chất văn học dân gian. Với phong cách ấy, bà thường chọn nội dung về người phụ nữ để thể hiện tiếng nói thương cảm, đồng thời cũng khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.
2. Bài thơ Tự tình 2
Khi cảm nhận bài thơ Tự tình 2, chúng ta còn cần giới thiệu đôi nét về tác phẩm. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật và nằm trong chùm thơ gồm ba bài thơ Tự tình. Chùm thơ nói chung và bài thơ này nói riêng chính là dịp để nhà thơ bày tỏ nỗi niềm của mình trước duyên phận hẩm hiu.
1. Mở bài
– Giới thiệu về bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương: “Bà chúa thơ Nôm” có chùm thơ “Tự tình” bao gồm ba bài, là tiếng nói của thân phận, là những khát khao, đau buồn của kiếp người. Trong đó, bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện rõ tâm trạng, thái độ của nữ sĩ: vừa buồn đau, vừa phẫn uất trước nghịch cảnh éo le cùng khát vọng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.
2. Thân bài
– Bốn câu thơ mở đầu bài thơ đã cho thấy hoàn cảnh và tâm trạng của nữ sĩ
+ Hoàn cảnh:
Thời gian nghệ thuật: đêm khuya.
Tiếng trống canh giữa đêm khuya cho thấy cảm nhận về bước đi dồn dập của thời gian.
+ Tâm trạng buồn tủi của nữ sĩ:
Những từ ngữ giàu giá trị biểu cảm đã được sử dụng để thể hiện tâm trạng: “Trơ” được đặt đầu câu kết hợp với biện pháp đảo nhấn mạnh cảm giác tủi hổ, chai lì. Hai chữ “hồng nhan” lại đi với từ “cái” gợi lên ý thức về sự rẻ rúng, mỉa mai của thân phận.
“Vầng trăng bóng xế” (trăng sắp tàn) mà vẫn “khuyết chưa tròn” trở thành hình ảnh ẩn dụ, nhấn mạnh hai lần bi kịch của cuộc đời nữ sĩ: tuổi xuân trôi qua mà nhân duyên vẫn không trọn vẹn.
– Ý thức sâu sắc về bi kịch tình duyên, tác giả không chỉ cảm thấy bẽ bàng, tủi hổ mà còn phẫn uất
+ Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những nét chấm phá về rêu và đá hiên ngang tồn tại đầy mạnh mẽ: : “xiên ngang mặt đất”, “đâm toạc chân mây”.
+ Biện pháp đảo ngữ đưa những động từ mạnh lên đầu câu:
Làm nổi bật sức sống mãnh liệt của cỏ cây.
Ẩn dụ cho tâm trạng phẫn uất muốn vượt lên trên nghịch cảnh éo le của tác giả.
– Bài thơ kết thúc cũng bằng cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng chán chường, buồn tủi.
+ “Ngán” mang sắc thái chỉ sự chán ngán, ngán ngẩm.
+ Từ “xuân” được điệp lại hai lần mang những sắc thái ngữ nghĩa khác nhau: vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ tuổi xuân.
+ Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng được sử dụng với hai sắc thái ý nghĩa khác nhau: từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ “lại” thứ hai có nghĩa là quay trở lại, gợi lên sự tuần hoàn, lặp lại.
3. Kết bài
Khái quát giá trị của bài thơ: Bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện một cách sâu sắc, mãnh liệt khát vọng sống, khát vọng tự do và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn một người phụ nữa vừa dịu dàng, đằm thắm vừa mạnh mẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua tài năng trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng của “Bà Chúa thơ Nôm”.

1. Hai câu đề
Hai câu đề đã diễn tả nỗi niềm buồn tủi của nhà thơ trong khung cảnh vắng lặng về đêm. Thời điểm ấy được gợi lên rất rõ qua các từ “đêm khuya”, “văng vẳng” và càng trở nên dồn dập hơn khi tiếng “trống canh dồn” hối thúc liên hồi. Tiếng điểm nhịp của thời gian cũng chính là tiếng trống của tâm trạng. Chính tiếng trống ấy đã gợi ra phần nào sức tàn phá của thời gian vì được cảm nhận bằng chính tâm trạng mang cảm thức cô đơn và lo ngại trước bước đi của thời gian.
Từ khung cảnh ấy, nhà thơ gửi gắm chút cảm nhận về sự bẽ bàng của duyên phận. Nếu từ “trơ” có tác dụng nhấn mạnh thì sự kết hợp giữa “hồng nhan” và từ “cái” ở sau đó lại hàm ẩn sự cay đắng, xót xa. Thế nhưng bên cạnh đó, “trơ” còn được hiểu là sự thách thức, bản lĩnh của những người phụ nữ cá tính như nhân vật trữ tình.
2. Hai câu thực
Hai câu tiếp theo diễn tả rõ hơn cảnh và tình của nhân vật. Trong thời khắc về khuya mà chủ thể trữ tình còn thao thức hẳn phải có ít nhiều tâm sự. Hình ảnh “chén rượu hương đưa” chính là một sự xác nhận cho điều đó bởi chén rượu nhấm nháp khi trời về khuya là chén rượu chất chứa vô vàn suy tư. Cụm từ “say lại tỉnh” như gợi lên sự luẩn quẩn, rối bời không thể giải tỏa.
Hình ảnh “vầng trăng” vào thời điểm “bóng xế” với tính chất “khuyết chưa tròn” như thấp thoáng trong đó thân phận của người con gái. Với cô, tuổi xuân hình như đã dần trôi qua nhưng tình duyên vẫn còn dang dở, hẩm hiu.
3. Hai câu luận
Cặp câu thứ ba của bài đã bộc bạch niềm khát khao mãnh liệt của con người. Những sinh vật bé mọn như “rêu”, “đá” phải mọc “xiên ngang mặt đất” và “đâm toạc chân mây” như một cách để phản kháng lại ngoại cảnh mà sinh tồn. Dường như tác giả đã mượn hình ảnh ấy để nói thay tâm trạng của mình.
Cặp câu có sử dụng những hình ảnh mạnh mẽ, từ ngữ độc đáo đã gián tiếp thể hiện một tâm hồn tràn đầy sức sống và niềm khao khát mãnh liệt của nữ sĩ họ Hồ. Dù trong nghịch cảnh, dù chịu sự đè nén, vùi dập nhưng vẫn kiên cường, bản lĩnh.
4. Hai câu kết
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Hai câu thơ cuối chính là điểm nhấn của việc cảm nhận bài thơ Tự tình một sự thể hiện rõ rệt tâm trạng chán ngán, sầu tủi trước cuộc đời. Trong khi “xuân đi” rồi “xuân lại lại”, tạo hóa vẫn xoay vần như ngàn đời vẫn thế nhưng tuổi xuân với con người một khi đã qua thì không bao giờ trở lại nữa.
Câu thơ cuối cùng giúp người đọc dễ hình dung là bài thơ mang tâm trạng của một thân phận làm lẽ. Nói thế là bởi vì “mảnh tình” đã bé lại còn phải “san sẻ” rồi trở thành “tí con con” thì thật chua cay, đáng thương. Câu thơ kết lại khiến người đọc cảm thấy xót xa, mủi lòng của những “cái hồng nhan” trong xã hội phong kiến xưa khi phải chịu cảnh chồng chung. Đối với họ, có lẽ hạnh phúc thật hẹp, người này đủ đầy thì kẻ khác lại lạc lõng, bơ vơ.
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Đối với người Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ một nhà thơ nào. Bà là “Chúa thơ Nôm” là con của Hồ Phi Diễn (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và một người thiếp quê ở Hải Dương”. Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, “là nhà thơ độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc”.
“Tự tình” là bài thơ thể hiện nỗi buồn và tâm sự của nhà thơ về số phận lẻ loi của mình và niềm khát khao được hạnh phúc, được quân tử yêu thương.
Mở đầu bài thơ là không khí đêm khuya thanh vắng:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Không gian được mở ra giữa đêm khuya, thao thức, nghe tiếng trống dồn dập sang canh. Không gian cô quạnh, không có bóng người, gợi cho người ta cảm thấy ớn lạnh. Nhà thơ nhận thấy sự cô đơn đang bủa vây lấy con người mình, thấy mình cô độc giữa cuộc đời, cảm giác mình nhỏ bé đến lạ giữa đêm tối lại càng gợi sự cô quạnh và trống vắng, không tìm thấy ánh sáng. Nghe những câu thơ mà thấm thía, tội cho một người phụ nữ lẻ bóng mong được tình yêu đích thực.
Tâm trạng bi đát, mượn rượu giải sầu:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Nhà thơ nói lên tâm trạng và nỗi lòng của mình. Rất buồn, ngồi uống uống chén rượu để quên đi hiện tại, để quên đi sự cô đơn bủa vây nhưng càng uống càng tỉnh, tỉnh lại càng buồn hơn. Mượn rượu giải sầu, ai ngờ càng sầu hơn, lại càng gò bó mình hơn trong không gian cô quạnh. Nhìn trăng thấy trăng đã xế bóng mà lại chưa tròn. Vầng trăng như là thân phận của nhà thơ, “Khuyết chưa tròn”: Chưa tuyệt vọng vẫn còn ấp ủ niềm hi vọng. Không biết đến khi nào vầng trăng ấy mới tròn và nhà thơ mới được cảm nhận hạnh phúc của bản thân.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Nhà thơ không say, nhìn cảnh vật ở những nơi khác nhau, mở rộng tầm nhìn: những đám rêu trên mặt đất, mấy hòn đá phía chân trời. Những hình ảnh rất là ước lệ. Nhìn từ gần sát mình đến xa tít tắp tận chân trời. “Rêu” là loài mỏng manh nhỏ bé, nhưng lại có sức sống vô cùng mạnh mẽ, dù ở điều kiện nào nó vẫn phát triển rất là tốt. Cái nhìn khoẻ khoắn, có một sự phản kháng, sự vươn lên để khẳng định chỗ đứng của mình.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.”
Từ thiên nhiên xung quanh, nhìn lại bản thân mình, cảm thấy ngán nỗi, buồn cho mình, nghịch lí. Nhà thơ cảm thấy ngán ngẩm cho những quy luật của tạo hóa, xuân đi qua, rồi xuân lại đến. Thời gian cứ trôi qua xuân đi xuân lại lại, một sự tuần hoàn liên tục nghe mà ngán ngẩm cho duyên phận của mình. Tuổi xuân trôi qua mà lại không có tình duyên trọn vẹn. Mảnh tình của mình qua bao ngày ngóng đợi, thì lại phải san sẻ, không được trọn vẹn. Một nỗi buồn chán và thất vọng lại bao phủ. Ý cũng muốn nói đến những người thê thiếp đâu được hưởng niềm hạnh phúc mong ước, mà phải san sẻ cho bao nhiêu người. Thê thiếp thì đâu có tiếng nói, đâu có quyền sắp đặt mọi chuyện.
Đây là một bài thơ vô cùng hay và ý nghĩa. Một bài thơ chứa đựng nỗi buồn và niềm khát khao chân thành. Trong nền thơ trung đại, lần đầu tiên mới có một người phụ nữ dám nói lên điều ấy.
Ni-cu-lin, một người Nga, nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, đã phát hiện nền văn học dân gian Việt Nam thời trung cổ không được thừa nhận vào lĩnh vực thơ ca cao cấp”.
Thực ra, lịch sử văn học trung đại Việt Nam vẫn có quy luật này: hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết tồn tại và phát triển song song trong suốt trường kì lịch sử vẫn luôn luôn có tác động qua lại. Khi những tinh hoa của hai bộ phận này kết tụ lại ở những cá tính sáng tạo nào đó, trong những điều kiện lịch sử nhất định, thì đất nước lại được thấy sự xuất hiện của những thiên tài văn học với những áng thơ văn bất hủ. Ấy là những trường hợp Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,…
Tuy nhiên, ở Hồ Xuân Hương, quy luật này vẫn có một khía cạnh đặc biệt khác thường. Đây là trường hợp tư tưởng dân gian lấn át hẳn tư tưởng chính thống mà các tác giả Nho học, dù là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du cũng không hoàn toàn dứt bỏ được. Một tinh thần nổi loạn quyết liệt muốn san bằng mọi đẳng cấp trong xã hội, một khát vọng được sống, được hưởng hạnh phúc đúng với nghĩa thiết thực nhất, người nhất, trần tục nhất, chống lại mọi ràng buộc của lễ giáo phong kiến và tất cả những gì trái với tự nhiên – một thứ tư tưởng đặc biệt đề cao người phụ nữ là hạng người bị khinh rẻ nhất trong xã hội phong kiến – và lấy quy luật Tạo hoá làm chuẩn, đề cao sự sống tự nhiên như trời đất giao hoà, âm dương giao phối. Một thứ tư tưởng đi thẳng từ tục lệ thờ cúng sinh thực khí, từ những lễ hội nam nữ giao phối tượng trưng còn tồn tại mãi sau này ở nhiều làng xã Việt Nam, từ những bức tranh Đông Hồ như Hứng dừa, Đánh ghen hay những bức khắc gỗ Các cô gái tắm ao vẫn còn đó ở đình Thổ Tang, Vĩnh Phúc, từ những truyện tiếu lâm, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn hay những câu ca dao hết sức táo tợn:
– Không chồng mà chửa mới ngoan,
Có chồng mà chửa thế gian đã nhiều.
– Có chồng càng dễ chơi ngang,
Đẻ ra con thiếp con chàng con ai.
– Lẳng lơ cũng chẳng có mòn,
Chính chuyên cũng chăng sơn son để thờ.
Tư tưởng ấy đem đến cho Hồ Xuân Hương một nhãn quan riêng về thế giới: nhìn đâu cũng thấy Tạo hoá sinh sôi, âm dương giao phối, một thế giới trẻ trung, sống động, tốt tươi phồn thực, phơi phới xuân tình, đầy tràn sắc dục,…
Một tư tưởng như thế tấn công mạnh mẽ và chiếm lĩnh được nội dung chủ đạo của văn chương bác học, chỉ có thể xuất hiện ở thời đại mà chế độ phong kiến khủng hoảng sâu sắc, thời đại quật khởi của nhân dân. Ấy là thời đại từ Nam chí Bắc, nông dân khởi nghĩa nổ ra liên tiếp dẫn tới đỉnh cao là phong trào Tây Sơn lật đổ vua Lê, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, dẹp tan chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rước thẳng lên ngôi vua một anh hùng nông dân. Ông “vua áo vải” này với khí thế của quần chúng như triều dâng thác đổ, đã chớp nhoáng tiêu diệt quân Xiêm phía Nam và đánh tan hàng vạn quân Thanh phía Bắc.
Phải coi thơ Xuân Hương như tiếng dội trực tiếp của khí thế ấy mới hiểu được tinh thần táo tợn rất bình dân ở người đàn bà trí thức này. Tất nhiên Hồ Xuân Hương không phải là một hiên tượng đơn độc mà nằm trong cả một trào lưu văn học đầy tinh thần nhân văn chủ nghĩa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Nhưng phải nói ở nhà thơ này, sự “xâm lăng” của tinh thần dân gian vào văn học viết vẫn mãnh liệt hơn cả. Nếu ta nhớ rằng, đến mãi đầu thế kỉ XX, những nhà nho cấp tiến như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng vẫn còn coi Truyện Kiều là dâm thư, cô Kiều là con đĩ, thì có thể mường tượng được, vào thế kỉ XVIII, dư luận của giới nho sĩ đã phản ứng dữ dội như thế nào trước những vần thơ đi trước thời đại của Hồ Xuân Hương.
Nhưng khát vọng giải phóng nhân dân, giải phóng người phụ nữ của Xuân Hương làm sao có thể thực hiện được trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Đến ngay như Vương triều Tây Sơn cuối cùng cũng rơi vào khủng hoảng để cho Nguyễn Ánh trở lại khôi phục được nền chuyên chế nặng nề. Cho nên khuôn khổ của chế độ phong kiến trở nên quá chật hẹp đối với sức sống và tư tưởng ngang tàng của Xuân Hương; nhưng ngược lại, dù chống phá mạnh mẽ, sôi sục thế nào, Xuân Hương cuối cùng cũng không thoát ra khỏi được khuôn phép của chế độ ấy. Có thể nói, Xuân Hương là nỗi bức bối, là sự ấm ách của lịch sử Việt Nam cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX, muốn tìm một lối thoát mà chưa tìm được. Tấn bi kịch lịch sử này ngẫu nhiên lại gặp gỡ tấn bi kịch cá nhân của người đàn bà họ Hồ, một kì nữ tài ba với sự thức tính mạnh mẽ về ý thức cá nhân, về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của người phụ nữ, vậy mà cuộc đời lại phải chịu nhiều bất hạnh: một lần làm lẽ, hai lần goá chồng!
Cái bức bối, cái ấm ách vừa có tính cá nhân vừa có tính lịch sử đó đã tạo nên một nội dung riêng và một chất giọng riêng của thơ Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương sáng tác một loạt ba bài Tự tình (Kể nỗi lòng), người ta đánh số I, II, III.
Căn cứ vào ý thơ, giọng thơ, giới nghiên cứu đồ rằng, ba bài Tự tình đều làm khi nhà thơ tuổi đời đã xế và, vì thế đã từng phải nếm vị chua chát, nỗi chán chường của phận lẽ mọn và cảnh goá bụa. Nghĩ lại những ngày qua, người thiếu phụ – thi sĩ “Giật mình mình lại thương mình xót xa”. Nhưng khác với Thuý Kiều, cái tôi Xuân Hương, dù bế tắc vẫn không hoàn toàn khuất phục, dù bất lực vẫn không chịu buông xuôi.
Bài thứ nhất (Tự tình I) lấy cảm hứng vào lúc đã có tiếng gà báo sáng (“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom”) ; bài thứ hai (Tự tình II) lấy cảm hứng vào lúc đêm đã về khuya (“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”). Đó là thời khắc của hạnh phúc lứa đôi, của sum họp vợ chồng, vì thế cũng là thời khắc người vợ lẽ hay người goá phụ cảm nhận được đầy đủ nhất, sâu sắc nhất, thấm thìa nhất, cảnh cô đơn, nỗi bất hạnh của thân phận mình:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Đêm đã khuya mà nhà thơ vẫn tính thức – vì không ngủ được hay không muốn ngủ? – ngồi lắng nghe tiếng trống cầm canh nơi một đồn ải nào vẳng lại, nhắc nhớ một cách quái ác thời gian dường như cứ dồn đuổi nhau trôi đi, trôi đi một cách uổng phí và vô nghĩa lí trên thân phận trớ trêu của người đàn bà vẫn khao khát hạnh phúc mà phải chịu cảnh chăn đơn, gối chiếc,…
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chữ nghĩa của Xuân Hương bao giờ cũng trần trụi đến tàn nhẫn như thế.
Khi nhà thơ dùng đến hai chữ “hồng nhan” thì có nghĩa là ở người thiếu phụ, xuân sắc vẫn còn, xuân tình chưa cạn, vậy mà cứ phải “trơ” ra đó, không kẻ đoái hoài. Có người hiểu chữ “trơ” theo nghĩa trơ lì, không còn cảm giác: “Đau thương, ê chề ngấm sâu dần, sâu dần vào xương cốt, biến con người thành vật vô tri”. Đây là cách hiểu chữ trơ trong thơ Bà Huyện Thanh Quan: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. Tôi cho rằng, hiểu thơ như thế là trái ngược vói tư tưởng tác giá trong Tự tình (bài II) này. Người đàn bà này, dúng là đã nếm trải nhiều bất hạnh, nhưng tâm hồn vẫn luôn luôn cháy bỏng, luôn luôn sôi sục, một tâm trạng bồn chồn không yên, thể hiện ở hai câu thực:
Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,
Vầng trâng bóng xế khuyết chưa tròn.
Uống rượu để quên đời, nhưng không quên được: “say lại tỉnh”, khao khát sự thoả mãn mà ngó ra ngoài trời, chỉ thấy đêm tàn trăng khuyết.
Nhưng đây mới thực là tính cách và ngôn ngữ Xuân Hương:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Thế giới hình tượng của thơ Xuân Hương bao giờ cũng hoạt động mạnh mẽ và huyên náo như thế. Đó là không gian, thời gian trần tục, trần thế nên luôn luôn vận động, sôi sục, đối lập với không khí tĩnh lặng, phi thời gian của cổ thi (“Mõ thảm không khua mà cũng cốc – Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”; “Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc – Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo”; “Gió giật sườn non khua lắc cắc – Sóng dồn mặt nước vỗ long bong”,… Ngay cả màu sắc trong thơ Xuân Hương nhiều khi cũng như muốn gào lên, muốn hét lên: “Cửa son đỏ loét tùm hum nóc – Hòn đá xanh rì lún phún rêu”; “Một trái trăng thu chín mõm mòm – Nẩy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom”,…).
Tuy nhiên, âm thanh hay màu sắc, dù sao tự nó cũng phát ra tiếng động hoặc hiện thành xanh, vàng, trắng, đỏ,… Nhà thơ chỉ cần phóng đại thật to, tô cho thật đậm để trở thành âm thanh, màu sắc độc đáo của Xuân Hương. Nhưng dưới ngòi bút của nữ sĩ họ Hồ, ngay cả những vật hoàn toàn tĩnh lại, hoàn toàn bất động cũng đột nhiên trở thành những sinh vật biết cựa quậy, biết vùng vẫy, biết phá phách: “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám – Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”. Thủ pháp đảo ngữ được sử dụng ở đây càng nhấn mạnh tính hoạt động mạnh mẽ, dữ dội của thế giới nghệ thuật Hồ Xuân Hương.
Vậy là cái tôi đầy sức sống mà bị dồn nén của Xuân Hương từ những câu đề, qua hai câu thực, đến những câu luận, cứ nổi lên dần: lúc đầu là nỗi chán chường, ngán ngẩm “Trơ cái hồng nhan với nước non”, tiếp đó là tâm trạng bực dọc, bồn chồn, muốn say mà không say được, trong khi đêm thì tàn mà trăng vẫn khuyết: “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh – Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”. Cuối cùng là nỗi bức bối, niềm phẫn uất muốn vùng lên phá phách. Khát vọng sống của con người này, yêu cầu thực hiện triệt để tính cách, cá tính của người đàn bà đặc biệt này, chẳng những chế độ phong kiến không dung nổi, mà đến trời đất cũng trở nên chật hẹp.
Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Hương thường đặt nhân vật của mình đối diện với thiên nhiên rộng lớn, kề vai với vũ trụ mênh mông (“Thân em vừa trắng lại vừa tròn – Bảy nổi ba chìm với nước non”; “Gan nghĩa giãi ra cùng nhật nguyệt – Khối tình cọ mãi với non sông”; “Văng vẳng bên tai tiếng khóc chồng – Nín đi kẻo thẹn với non sông”; “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn – Trơ cái hồng nhan với nước non”,… Ấy là một con người có kích cỡ đặc biệt, không phải chỉ của bản thân mình hay của một gia đình, một làng, một xã, mà còn là của nhân dân, của đất nước, của Tạo hoá, của vũ trụ. Có nghĩ như vậy, ta mới hiểu được vì sao Xuân Hương có thể tự đặt mình từ thế đứng rất cao với thái độ và giọng điệu hết sức kẻ cả khi đối thoại với đời, dù đó là những bậc hiền nhân quân tử, là Thái thú Sầm Nghi Đống, là những đấng anh hùng (“Mát mặt anh hùng khi tắt gió”) thậm chí là vua, là chúa (“Chúa dấu, vua yêu một cái này” – Vịnh cái quạt).
Nhưng Xuân Hương, dù tư tưởng có thể đi trước thời đại, nhưng trong đời thực vẫn không thể vượt khỏi thân phận của mình. Vì thế, những hành vi phá phách, nổi loạn dù táo tợn thế nào cũng chỉ là những vùng vẫy trong giới hạn của ngôn từ mà thôi. Nhà thơ đành chấp nhận số phận của mình bằng một tiếng thở dài ngao ngán:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mánh tình san sẻ tí con con!
Nhưng Xuân Hương đích thực là nhà thơ của mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu của sự sống tươi ròng, của tinh thần lạc quan, yêu đời. Đó cũng chính là chất dân gian đậm đặc của hồn thơ này. Đọc thơ Xuân Hương, thấy có đủ cả buồn khổ, đắng cay, chán chường, căm uất, đủ cả oán thù, phẫn nộ, thậm chí muốn tung hết tất cả, phá phách tất cả…, nhưng không bao giờ mất hết niềm tin ở cuộc đời, ở sự sống. Điều ấy có thể cảm nhận rất rõ ở thế giới nghệ thuật hết sức sống động của nữ sĩ, một thế giới không bao giờ hoàn toàn vắng lặng: nếu không có tiếng chuông chùa văng vẳng, tiếng mõ, tiếng trống cầm canh thì cũng có tiếng “gà gáy trên bom”, tiếng “sóng dồn mặt nước”, tiếng “gió giật sườn non”, hay “cành thông gió thốc”,… Và nếu lắng nghe còn thấy “Rúc rích thây cha con chuột nhắt – Vo ve mặc mẹ cái ong bầu”,… Một thế giới hình tượng sống động, luôn cựa quậy, luôn hoạt động: “Cỏ gà lún phún leo quanh mép – Cá giếc le te lách giữa dòng” ; “Xiên ngang mặt đất rêu từng đám – Đâm toạc chân mây đá qiấy hòn” ; “Gan nghĩa giãi ra cùng nhật nguyệt – Khối tình cọ mãi với non sông”,… Một thế giới đầy màu sắc trẻ trung, hồng hào, tươi tốt, chan chứa xuân sắc, xuân tình,… Tất cả đều được phát hiện và đánh giá theo một quan điểm mĩ học độc đáo của Xuân Hương: lấy vẻ đẹp thanh tân, khoẻ khoắn, phồn thực, tự nhiên của cơ thể người đàn bà giữa tuổi xuân làm chuẩn. Trong thế giới nghệ thuật ấy, tiếng khóc không hẳn là lời tuyệt vọng và cái chết không hề muốn ngăn đường sự sống cKhóc ông phủ Vĩnh Tường, Khóc Tổng Cóc,…).
Đúng là Tự tình (bài II) đã kết thúc bằng một lời chua chát: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con”. Nhưng như thế là tuổi xuân chưa hết, tình xuân vẫn đầy.
Xưa thường có câu: “Chữ rằng, xuân bất tái lai”. Nhưng Xuân Hương lại nói “xuân đi xuân lại lại”, có nghĩa là người đàn bà vẫn còn có cái để chờ đợi, để ước ao, tuy rằng hạnh phúc mong đợi ấy chưa bao giờ được hưởng trọn vẹn: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Có một vấn đề rất nên đặt ra đối với thơ Hồ Xuân Hương nói chung: Vì sao tư tưởng dân gian gần như thuần chủng, nguyên chất ở Xuân Hương lại không được diễn đạt bằng các thể thơ dân gian như lục bát, song thất lục bát mà lại tự ép mình vào khuôn khổ thơ Đường, một thể thơ bác học ngoại nhập, luật lệ rất nghiêm minh? Lại một nét oái oăm, độc đáo của thơ Xuân Hương chăng? Nhưng ngẫm ra, thấy sự chọn lựa của nữ sĩ rất có lí, có thể nói là rất tự nhiên nữa.
Song thất lục bát là thể ngâm, hợp với lời trữ tình than thở. Lục bát thì mạnh về khả năng tự sự và thiên về diễn tả tình cảm thiết tha. Nhưng thơ Xuân Hương không chỉ có tình cảm mà còn có trí tuệ, có tư tưởng, đồng thời có nhu cầu tạo tính đa nghĩa trên mỗi dòng thơ, từ mỗi hình ảnh, mỗi ngôn từ: nghĩa hiển ngôn, nghĩa hàm ẩn, nghĩa trần trụi, nghĩa ỡm ờ, nghĩa từ vựng, nghĩa xã hội – tâm lí, nghĩa thanh, nghĩa tục, v.v.
Muốn đạt được những yêu cầu ấy, Xuân Hương rất cần đến khả năng của thất ngôn bát cú, của cấu trúc chặt chẽ, của luật đối ngẫu và của tính hàm súc với khả năng dồn nén nhiều nghĩa và tạo ý ngoài lời (ý tại ngôn ngoại).
Nhưng Xuân Hương, một mặt khai thác khả năng của thơ Đường, mặt khác lại cố tình xoá sạch, khước từ điển tích, điển cố, lối diễn đạt ước lệ cách điệu hoá, sự sử dụng màu sắc tao nhã, trừu tượng, thay vào đấy là sự khai thác triệt để những ngôn từ thuần Việt và các thú pháp nghệ thuật dân gian, đặc biệt là nghệ thuật trào phúng, hổn nhiên và táo tợn của ca dao, dân ca, của truyện tiếu lâm, Trạng Quỳnh, Trạng Lợn,… Và trên cái văn bản Việt hoá và dân gian hoá đó, bao giờ cũng hằn lên cái dấu triện “Xuân Hương hoá” đầy cá tính độc đáo và mãnh liệt của “thiên tài kì nữ” họ Hồ.
Xã hội phong kiến xưa luôn tôn thờ chế độ “Trọng nam, khinh nữ” khiến cho cuộc đời và số phận của những người phụ nữ vô cùng bấp bênh, đau khổ. Họ không có quyền lựa chọn hạnh phúc cho bản thân, luôn phải sống dưới cái bóng quá lớn của khuôn khổ “Tam tòng, tứ đức”. Tuy nhiên, trước số phận nghiệt ngã ấy, có những người chọn cách im lặng, cam chịu, nhưng cũng có những người dám đứng lên để đấu tranh cho khát khao hạnh phúc của bản thân. Hồ Xuân Hương là một người như vậy. Bà là một trong số rất ít nhưng nhà văn nữ ở thời đại này nhưng ở Hồ Xuân Hương lại nổi bật một cá tính riêng không trộn lẫn. Là một “nhà văn phụ nữ viết về phụ nữ”, Hồ Xuân Hương đã dám cất lên tiếng nói để bộc lộ tâm sự, suy tư thầm kín. Có lẽ cũng bởi cuộc đời long đong lận đận của mình mà các sáng tác của Hồ Xuân Hương chủ yếu nói về người phụ nữ, nhất là những người mang thân phận làm lẽ. Bài thơ “Tự tình II” như nói lên tất cả
Không chỉ sáng tác thơ chữ Hán, mà các sáng tác thơ Nôm của bà cũng vô cùng phong phú. Chính vì vậy, “ông hoàng thơ tình Xuân Diệu” đã ưu ái gọi bà là “bà chúa thơ Nôm”. Bài thơ “Tự tình II” nằm trong chum ba bài “ Tự tình”, thể hiện rõ tài năng cũng như phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương. Đó là sự hòa quyện giữa một chất thơ trữ tình cùng sự táo bạo, dí dỏm. Bài thơ “Tự tình II” chan chứa nỗi đau thầm kín, bộc lộ cảnh ngộ, thân phận và nhân cách, bản lĩnh của Hồ Xuân Hương.
Tâm trạng của Hồ Xuân Hương bắt đầu trong một không gian vô cùng đặc biệt:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”.
“Đêm khuya” là khoảng thời gian mà vạn vật đã chìm vào giấc ngủ. Đó cũng là khoảng thời gian con người gạt bỏ hết những trăn trở, âu lo để trở về với hạnh púc gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Nhưng với những người phụ nữ cô đơn, thì “đêm khuya” chính là lúc con người ta chất chứa nhiều tâm sự, là khoảng thời gian tâm tư sâu lắng nhất, thấm thía nhất nỗi bất hạnh, cô đơn đến tột cùng. Hồ Xuân Hương cũng vậy, khi màn đêm bao trùm lấy cảnh vật, cũng là lúc bản thân phải tự đối diện với lòng mình. Trong cái không gian tĩnh mịch ấy, bỗng “văng vẳng” tiếng “trống canh”. “Trống canh” là báo hiệu của thời gian, nay kết hợp với từ láy tượng thanh “văng vẳng” khiến âm thanh như từ xa vọng về, đầy ma mị, rối bời. Từ “dồn” như muốn nói lên sự dồn đuổi của thời gian lên cảnh vật, như thúc giục mọi người. Tuy nhiên, cấu trúc đảo ngữ đã khẳng định đây không chỉ là sự dồn đuổi của thời gian lên cảnh vật mà còn là sự dồn đuổi của tuổi trẻ giữa cái vòng tuần hoàn ngày-đêm của tạo hóa. Nếu như thời gian của cuộc đời là vô thủy, vô trung thì thời gian của đời người là hữu hạn. Giữa không gian yên ắng ấy là hình ảnh người phụ nữ lọt thỏm giữa bốn bề vắng lặng:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”.
“Trơ” có nghĩa là trơ trọi, được đặt ở đầu câu gây ấn tượng mạnh. Người phụ nữ trơ trọi giữa không gian lạnh lẽo, yên ắng. Từ “trơ” cũng có nghĩa là tủi hổ, bẽ bàng trước số phận lẻ loi, tình duyên không trọn. Từ xưa đến nay, người ta dùng từ “hồng nhan” để chỉ người con gái đẹp với hàm ý nâng niu, trân trọng. Nhưng Xuân Hương lại nói “cái hồng nhan” thì nghe thật rẻ rúng, mỉa mai. “Cái hồng nhan” “trơ” với nước non không chỉ là dầu dãi mà còn là cay đắng, gợi nên sự bạc phận, xót xa. Tuy nhiên, “cái hồng nhan” khi đặt trong thế đối sánh với “nước non” như một thoáng kiên cường, mạnh mẽ, như một sự thách thức, kiêu hãnh của một tâm hồn đầy cá tính. Biện pháp đảo ngữ cho thấy bên cạnh nỗi đau Xuân Hương còn là một bản lĩnh Xuân Hương.
Sau những giây phút cô đơn, lạc lõng là những bế tắc, tuyệt vọng:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Trong sự cô đơn, người phụ nữ ấy tìm đến rượu để quên đi nỗi đau nhưng càng uống thì lại càng như nuốt tủi, nuốt hận vào lòng. Cụm từ “say lại tỉnh” như vẽ ra một cái vòng luẩn quẩn, bế tắc, không có lối thoát. Bà tìm đến vầng trăng-người bạn tri kỉ muôn đời của những tâm hồn cô đơn với khao khát trăng sẽ chia sẻ nỗi niềm cô đơn, buồn tủi ấy. Nhưng vầng trăng cũng “khuyết chưa tròn”. Bằng việc sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, nhà thơ đã tạo nên sự đồng điệu giữa ngoại cảnh và tâm cảnh. Vầng trăng đã ở phía bên kia bầu trời mà vẫn khuyết cũng như tuổi xuân của con người đã trôi qua mà tình duyên chưa trọn vẹn. Tất cả những cố gắng thoát ra khỏi nỗi đau đều không thành, cuối cùng lại càng bế tắc khôn nguôi.
Sự bế tắc ấy đã khiến nhân vật trữ tình trào dâng nỗi niềm phẫn uất. sự phẫn uất ấy cuộn chảy mạnh mẽ, thấm cả vào cảnh vật:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”.
“Rêu”, “đá” là những sự vật nhỏ bé, vô tri, không được coi trọng. Nữ sĩ sử dụng hình ảnh của những sự vật bé nhỏ, hèn mọn, kết hợp với các động từ mạnh “xiên’, “đâm” để nói lên sức mạnh phản kháng trào dâng. Biện pháp liệt kê một lần nữa xuất hiện như muốn khẳng định thêm nỗi lòng phẫn uất của nhà thơ. “Rêu xiên ngang mặt đất”, “đá đâm toạc chân mây” như vách đất mà hờn, vạch trời mà oán. Ẩn sau những hình ảnh bình dị, giản đơn ấy, có lẽ chúng ta lại thấy bóng dáng của những người phụ nữ. Xã hội phong kiến quá bất công, khiến những người phụ nữ bé nhỏ phải oằn mình lên để chống đỡ. Qua cách miêu tả đầy tinh tế, cảnh vật hình như đang cựa quậy, căng đầy sức sống ngay cả trong bế tắc. Biện pháp tả cảnh ngụ tình đã thể hiện rõ bản lĩnh, cá tính và khát vọng mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương. Đó là khát khao hạnh phúc, khát khao được yêu thương trọn vẹn.
Hồ Xuân Hương có thể nói là một người phụ nữ cá tính, mạnh mẽ. Trước những sóng gió cuộc đời, bà vẫn luôn tự tin, kiêu hãnh. Tuy nhiên, dù tự tin, kiêu hãnh là thế, những cuối cùng, bà vẫn không thể vượt qua thân phận mình trong vòng vây của xã hội phong kiến. Sau tất cả sự cô đơn, tuyệt vọng, phẫn uất, đọng lại là tâm trạng ngán ngẩm, chán chường:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Từ “xuân” trong thơ Hồ Xuân Hương thật đa nghĩa. “Xuân” là mùa xuân của đất trời, là mùa của vạn vật sinh sôi, đâm chồi nảy lộc. Nhưng “xuân” cũng là tuổi xuân của con người. Mùa xuân qua đi rồi mùa xuân lại đi tới, tạo hóa vẫn tuần hoàn với muôn ngàn hoa lá, cỏ cây. Chỉ có tuổi xuân của đời người qua đi mà vĩnh viễn biến mất. Xuân đi rồi xuân lại, hai từ “lại” xếp cạnh nhau những mang hai ý nghĩa. Từ “lạị” thứ nhất có nghĩa là thêm một lần nữa, còn từ “lại” tiếp theo mang ý nghĩa là sự tuần hoàn, quay trở lại. Thời gian của cuộc đời cứ thế vô tình trôi qua, cứ mỗi mùa xuân trở lại là ngày xanh của tuổi trẻ lại lần lượt ra đi. Tổi trẻ thì cứ lặng lẽ kết thúc, trong khi tình duyên vẫn mãi chẳng vẹn đầy:
“Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Nhịp thơ 2/2/1/2 và nghệ thuật giảm dần làm cho nghịch cảnh trở nên éo le. Mọi người thường hay nói “mối tình”, “cuộc tình”, chứ “mảnh tình” thì nghe thật mâu thuẫn. Cụm từ “mảnh tình” khiến người đọc liên tưởng đến điều gì đó nhỏ nhoi, ít ỏi. Đau đớn hơn, “mảnh tình” đã bé, đã ít lại còn phải đem ra san sẻ, cuối cùng chỉ còn lại “tí con con” xót xa, tội nghiệp. Lời thơ quả thực cất lên từ sâu thẳm trong trái tim người đàn bà lẽ mọn với nước mắt đắng cay và tận cùng đau khổ.
“Tự tình II” thể hiện đặc sắc tài năng nghệ thuật của Hồ Xuân Hương. Tâm trạng nhân vật được khắc họa thành công qua việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật, ngôn từ tinh tế nhưng vẫn rất tự nhiên. Bài thơ là những lời bộc bạch vừa buồn tủi, vừa thách thức duyên phận, gắng gượng vươn lên những vẫn rơi vào bi kịch. Thế nhưng đó không chỉ là nỗi đau của riêng bà. Xuân Hương ôm trong mình nỗi đau của cả một thời đại. Nhà thơ cất lên tiếng nói nhân văn cho số phận, khát khao của những người phụ nữ trong xã hội xưa khi mà với họ, hạnh phúc là một chiếc chăn qua hẹp Qua đó, thể hiện tính nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Có thể nói, đây là bài thơ tiêu biểu cho phong cách sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương. Đó là sự thống nhất giữa một trái tim yếu mềm, đa cảm, nhiều yêu thương và một bộ óc mẫn tiệt, thông tuệ. Trong dòng chảy của văn học trung đại Việt Nam, ta thấy Xuân Hương nổi bật lên giữa tất cả các khuôn mẫu thông thường. Dù chỉ là một người phụ nữ nhỏ bé nhưng dám cất lên tiếng nói đòi quyền hạnh phúc, dám nói lên khát khao được yêu thương.
Qua bài thơ “Tự tình II”, ta thấy được tài năng cũng như trái tim nhân hậu của Xuân Hương. Dù cho có đau khổ, bế tắc thì vẫn luôn kiên cường, mạnh mẽ. Hình ảnh của Xuân Hương như một tấm gương sáng ngời về một người phụ nữ mạnh mẽ, thông minh, tài năng, nhân hậu mà những người phụ nữ ở thời đại trước hay thời đại ngày nay đều nên học tập. Không chỉ “ Tự tình II” mà tất cả những sáng tác của bà đều sẽ mãi in dấu trong lòng người đọc qua nhiều thế hệ. Bởi ở bà, ta thấy được một con người mang đầy tinh thần nhân đạo, là một Xuân Hương “kì nữ, kì tài”.
Hồ Xuân Hương là nhà thơ nổi tiếng, với rất nhiều những tác phẩm hay, và một trong những tác phẩm thể hiện được sâu sắc nhất hình tượng cũng như số phận của người phụ nữ Việt Nam thời xưa đó là bài Tự Tình.
Bài thơ Tự Tình được tác giả sáng tác ra để nói về tâm hồn, cũng như tình cảm của những người phụ nữ xưa, họ phải chịu rất nhiều những đau thương, khổ cực, cuộc đời của họ phải chịu rất nhiều những đắng cay, tủi hổ, không biết tâm sự cùng với ai, chỉ một mình lấp bóng trong đêm khuya, với bao nhiêu cảm xúc, tâm trạng của những người phụ nữa trước cuộc đời, với bao nhiêu cảm xúc đó, Hồ Xuân Hương đã sáng tác lên những vần thơ hay, nói lên số phận cũng như tiếng lòng của những người phụ nữ xưa:
Canh khuya văng vẳng trống canh đồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,
Vừng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.
Cảnh khuya là lúc trơ vơ, cô đơn, và con người thường sống đúng với cảm xúc của mình nhất, đây là lúc bao nhiêu nỗi lòng thương được bộc lộ cũng như diễn tả ra một cách sâu sắc cũng như sinh động nhất, tình cảm đó thể hiện trước hết ở tâm hồn trong sáng, cô đơn trước khung cảnh rộng lớn. Bài thơ với bao nhiêu cảm xúc của tác giả, với vần thơ chứa đựng biết bao nhiêu nỗi cô đơn thầm kín, đang dần vây quanh với thân phận nhỏ bé của những người phụ nữ, một mình phải đối diện với biết bao nhiêu nỗi đau, nỗi cô đơn.
Có lẽ tình cảm của tác giả dành cho bài thơ này đó là sự đồng cảm sâu sắc, nỗi lòng của tác giả cũng đang nói hộ cho chính mình, số phận của người phụ nữ xưa, những người phải chịu nhiều cực khổ, không được hưởng cuộc sống hạnh phúc như những người khác. Hồng nhan bạc mệnh, đây có lẽ là đề tài mà nhiều nhà văn lựa chọn để diễn tả trong tác phẩm của mình, nỗi lòng của những người phụ nữ xưa đã được đi sâu vào nền văn học, với biết bao nhiêu nỗi lòng của sự cô đơn, nỗi cô đơn đó, đang vây kín lấy tâm hồn, cũng như thể xác của họ.
Cảnh khuya người thiếu phụ một mình trơ trọi với núi non, không biết làm bạn với ai, chỉ biết một mình trơ trụi với bóng hồng nhan, đối diện với khung cảnh của núi non hùng vĩ, cảnh vật đó đã đang tác động sâu sắc đến cảm cảm xúc của người đọc, tác giả, không chỉ thể hiện nỗi lòng của chính mình, mà qua đó còn nói về số phận của những người phụ nữ xưa nói riêng, nhưng tình cảm đó đều được đi sâu vào thơ văn.
Đúng là nhà văn là những người chiến sĩ của mọi thời đại, chính vì thế, bao nhiêu tình cảm chân thành, da diết, đều được họ thể hiện sâu sắc qua biết bao nhiêu cung bậc, cũng như cảm xúc của người đọc, thấm sâu trong chính tác phẩm của mình. Tình cảm đó đã đi sâu và mang đậm biết bao nhiêu giá trị của những người phụ nữ xưa, chỉ biết mượn rượu để quên sầu, nhưng khi tỉnh lại họ chợt nhận ra tất cả vẫn đang ám ảnh lấy tâm hồn của họ:
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,
đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Tất cả nỗi buồn đó đều được thể hiện rất chi tiết và cụ thể trong tác phẩm, có thể thấy, nỗi lòng của những người phụ nữ đó là rất lớn, đêm khuya trợ trọi với biết bao nhiêu nỗi cô đơn, sự gian nan và biết bao nhiêu nỗi lòng dành cho người mình yêu, nhưng khổ nỗi mảnh tình san sẻ cũng không có ai để thấu.
Nhưng không hẳn vì thế mà họ quên đi chính mình, họ vẫn thể hiện sức sống tiềm tàng qua sức mạnh cũng như tình yêu thương của mình, họ vượt qua mọi khó khăn, vượt qua những cái khắc nghiệt của cuộc sống, xuyên ngang mặt đất, ở đây có thể hiểu rằng, họ đã trải qua bao nhiêu rào cản của xã hội phong kiến để có được hạnh phúc cho chính mình, không sợ những rào cản đó làm cản trở đi tình yêu cũng như xúc cảm trong chính bản thân họ.
Rêu từng đám ở đây nói về sự chắc chắn, kết nối, rêu không phải là thứ gì đó dễ đi, nó bám lâu đời, và cũng biểu hiện để nói về tình cảm của những người phụ nữ cũng phải chờ mong, đợi chờ và rồi, từng đám rêu đó đã chứng minh thấy tình cảm của họ đã hóa lên thành những đám rêu, bám từ ngày này qua ngày khác, không khó tháo ra.
Bao vất vả, cũng vượt qua, đâm toạc chân mây, rêu vẫn cứ mọc, vượt qua bao nhiêu nỗi cô đơn, tình cảm đó vẫn muốn san sẻ đi chút ít, sâu sắc và chân thành. Sự chờ đợi đó cứ lặp đi lặp lại, cứ chảy trôi hết ngày này qua ngày khác, xuân đi xuân lại lại”, ở đây cũng diễn tả sự quay trở lại của quỹ đạo thời gian, tất cả vượt qua rất nhiều những gian nan và vẫn muốn thể hiện tình cảm của chính mình.
Bài thơ đã thể hiện được sâu sắc nỗi lòng của những người phụ nữ xưa, họ phải sống một cuộc sống cô đơn, vất vả, một mình trơ trụi trước khung cảnh rộng lớn của thiên nhiên, nhưng lòng người thì thật nhỏ hẹp.
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương được biết đến là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ với tiếng nói cảm thương, tiếng nói khẳng định, tiếng nói tự ý thức về bản thân đầy bản lĩnh. “Bà chúa thơ Nôm” có chùm thơ “Tự tình” bao gồm ba bài, là tiếng nói của thân phận, là những khát khao, đau buồn của kiếp người. Trong đó, bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện rõ tâm trạng, thái độ của nữ sĩ: vừa buồn đau, vừa phẫn uất trước nghịch cảnh éo le cùng khát vọng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.
Bốn câu thơ mở đầu bài thơ đã cho thấy hoàn cảnh và tâm trạng của nữ sĩ:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Câu thơ gợi nên sự vắng lặng, tĩnh mịch của đêm khuya trong âm điệu buồn thương. Tiếng trống canh giữa đêm khuya cho thấy cảm nhận về bước đi dồn dập của thời gian. Trong thời gian và không gian đó, tác giả cay đắng nhận ra sự bẽ bàng của thân phận, được thể hiện qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ tinh tế, độc đáo. Những từ ngữ giàu giá trị biểu cảm đã được sử dụng để thể hiện tâm trạng: “Trơ” được đặt đầu câu kết hợp với biện pháp đảo nhấn mạnh cảm giác tủi hổ, chai lì. Hai chữ “hồng nhan” lại đi với từ “cái” đặc trưng cho phong cách nghệ thuật vừa trữu tình vừa trào phúng của tác giả, gợi lên ý thức về sự rẻ rúng, mỉa mai của thân phận. Bi kịch về tâm trạng càng được xoáy sâu thêm. Câu thơ: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” vừa miêu tả ngoại cảnh vừa diễn tả tâm cảnh, thể hiện sự thống nhất giữa thiên nhiên và con người. “Vầng trăng bóng xế” (trăng sắp tàn) mà vẫn “khuyết chưa tròn” trở thành hình ảnh ẩn dụ, nhấn mạnh hai lần bi kịch của cuộc đời nữ sĩ: tuổi xuân trôi qua mà nhân duyên vẫn không trọn vẹn, thậm chí chỉ là sự dang dở.
Ý thức sâu sắc về bi kịch tình duyên, tác giả không chỉ cảm thấy bẽ bàng, tủi hổ mà còn phẫn uất:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những nét chấm phá về rêu và đá. “Rêu” và “đá” là những sinh vật vô tri vô giác, bé nhỏ nhưng vẫn không chịu khuất phục mà vẫn hiên ngang tồn tại một cách mạnh mẽ: “xiên ngang mặt đất”, “đâm toạc chân mây”. Biện pháp đảo ngữ đưa những động từ mạnh lên đầu câu đã làm nổi bật sức sống mãnh liệt của cỏ cây, cũng chính là ẩn dụ cho tâm trạng phẫn uất muốn vượt lên trên nghịch cảnh éo le của tác giả. Nữ sĩ tuy nhận ra sự ngang trái, éo le của phận mình nhưng không hề cam chịu mà luôn muốn vùng vẫy, vượt lên trên hoàn cảnh bằng những hành động phản kháng.
Bài thơ mở đầu bằng cảm thức về thời gian: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”, và kết thúc cũng bằng cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng chán chường, buồn tủi:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Hai câu thơ tiếp tục thể hiện tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ của tác giả. “Ngán” mang sắc thái chỉ sự chán ngán, ngán ngẩm. Từ “xuân” được điệp lại hai lần mang những sắc thái ngữ nghĩa khác nhau: vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ tuổi xuân. Mùa xuân của đất trời luôn lặp đi lặp lại theo quy luật tuần hoàn: xuân, hạ, thu, đông nhưng với con người thì tuổi xuân chỉ đến một lần duy nhất, và không bao giờ trở lại. Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng được sử dụng với hai sắc thái ý nghĩa khác nhau: từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ “lại” thứ hai có nghĩa là quay trở lại, gợi lên sự tuần hoàn, lặp lại. Tất cả đã làm nổi bật ý thức sâu sắc về bi kịch của bản thân và nỗi chán chường khi phải sống trong cuộc sống eo le, ngang trái.
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tăng tiến ở câu thơ “Mảnh tình- san sẻ- tí- con con” nhấn mạnh bi kịch tình duyên éo le của nhân vật trữ tình. Mảnh tình vốn nhỏ bé lại còn không trọn vẹn, thậm chí là phải “san sẻ”. Câu thơ đã gợi lên hoàn cảnh đầy ngang trái của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa khi phải sống trong cảnh chung chồng, và mang thân đi làm lẽ.
Bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện một cách sâu sắc, mãnh liệt khát vọng sống, khát vọng tự do và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn một người phụ nữa vừa dịu dàng, đằm thắm vừa mạnh mẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua tài năng trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng của “Bà Chúa thơ Nôm”.
Hồ Xuân Hương ghi dấu tên mình trong lịch sử văn học như một nữ sĩ tài ba của dân tộc. Bà đi nhiều nơi, kết giao với nhiều nghệ sĩ, trong đó có Nguyễn Du. Xinh đẹp, giỏi giang, tuy nhiên, bà lại không được may mắn trong tình yêu khi tình duyên éo le, ngang trái. Thơ của Hồ Xuân Hương đậm chất dân gian, vừa trào phúng vừa trữ tình. Các tác phẩm của bà thường cất lên tiếng nói cảm thương cho thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đồng thời khẳng định vẻ đẹp và khát vọng sống của họ. Bài thơ “Tự tình 2” năm trong chùm bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương. “Tự tình” nghĩa là kể nỗi lòng, một đề tài thường thấy trong thơ xưa.
Mở đầu bài thơ, tác giả gợi ra một khoảng thời gian, không gian nghệ thuật, làm nền để thể hiện nỗi cô đơn, trơ trọi trong đêm hiu quanh:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Đêm khuya vắng lặng, hiu quanh. Đây là khoảng thời gian tâm trạng, là thời khắc con người đối diện với chính mình, trằn trọc thao thức, để cho những nỗi niềm xâm chiếm. Ta bắt gặp lại hình ảnh người chinh phụ mòn mỏi, vò võ trong đêm khuya thanh vắng, một mình chống trọi lại nỗi cô đơn:
“Gà eo óc gáy sương năm sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”
Thời gian điểm nhịp bằng tiếng trống canh. “Văng vẳng” diễn tả âm thanh từ xa vọng lại, mơ hồ, khó nắm bắt. Bằng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, màn đêm dường như lại càng rộng lớn hơn, có thể nuốt chửng con người. Đó là tiếng trống, mà cũng có thể là tiếng lòng, là âm thanh của ngoại cảnh, cũng là âm thanh của tâm hồn. Từ “dồn” diễn tả tiếng trống như thúc giục, dồn nén, có phần bế tắc. Qua tiếng trống, ta cảm thấy thời gian trôi đi càng lúc càng gấp gáp, riết róng như thúc giục. Đó cũng là sự gọi thức, giục giã của hạnh phúc, của tuổi xuân đã qua không bao giờ quay trở lại, không có cách gì níu giữ. Câu thơ tiếp theo, ta đã thấy có sự xuất hiện của con người. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh sự cô độc của chủ thể trữ tình. “Trơ” là tủi hổ, bẽ bàng. “Trơ” cũng có thể hiểu là trơ trọi, cô độc. Chỉ một từ thôi mà gợi lên bao cảm xúc cay đắng, ê chề, tủi hổ, bẽ bàng. “Trơ” còn là trơ gan, trơ lì như một sự thách thức: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. “Cái hồng nhan” được tác giả sử dụng mang hàm ý mỉa mai. “Hồng nhan” chỉ vẻ đẹp của người con gái trẻ trung đang thời xuân sắc, đi với từ “cái” càng trở nên trơ trọi, đáng thương. Trong thơ Hồ Xuân Hương, thân phận người phụ nữ thường được đặt trong mối quan hệ với non nước, non sông, vũ trụ và cuộc đời. Giữa cái rộng của không gian, dài của thời gian, người phụ nữ nhỏ bé, đáng thương hiện lên trong nỗi cô đơn, hiu quạnh, bấp bênh giữa cuộc đời, trơ trọi giữa vũ trụ. Đồng thời, sự đối sánh giữa con người và vũ trụ cũng thể hiện cá tính mạnh mẽ, kiên quyết của Hồ Xuân Hương, là sự thức tỉnh của cái tôi cá nhân tràn trề sức sống và khát vọng yêu thương.
Hai câu thực là nỗi niềm day dứt, xót xa cho tình duyên không trọn vẹn:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
“Chén rượu”, “vầng trăng” ở đây không còn là người bạn tri âm, tri kỉ nữa mà chỉ gợi nỗi niềm xót xa, hiu quạnh. Say- tỉnh là hai trạng thái hoàn toàn đối ngược nhau. Nhân vật trữ tình tìm quên trong hơi men, nhưng càng uống lại càng cô đơn, trống vắng. Từ lại diễn tả một sự lặp đi lặp lại triền miên đến nhàm chán. Vầng trăng là biểu tượng cho tình yêu đôi lứa, cho số phận con người. Vậy mà, tình duyên ấy, số phận ấy đã đến buổi xế bóng nhưng vẫn chưa toàn vẹn. Ba bi kịch đã được hội tụ đủ trong hai câu thực: tuổi xuân qua đi không bao giờ trở lại, tình yêu không người tri âm, tri kỉ, hạnh phúc dở dang, bẽ bàng.
Nếu như hai câu thực mang giọng có phần chua xót thì đến hai câu luận là sự phản kháng, nổi loạn của một sức sống mạnh mẽ, bền bỉ:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
“Xiên”, “đâm” là những động từ mạnh kết hợp với các từ “ngang”, “toạc” đã thể hiện sự dâng trào lên đến đỉnh điểm, vượt qua mọi giới hạn. Rêu và đá đều là những sự vật nhỏ bé, đối nghịch với mặt đất bao la rộng lớn, với chân mây mênh mông vời vợi. Những hình ảnh ấy tuy nhỏ nhoi nhưng có sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, bền bỉ, không chịu khuất phục, xâm chiếm những chiều kích không gian rộng lớn. Hai câu thơ cũng chính là ý thức phản kháng mãnh liệt, thể hiện cá tính mạnh mẽ, ngang tàng của nữ sĩ. Đó là sự trỗi dậy của cái tôi đòi quyền sống, quyền tự do, đồng thời là ý chí phản kháng chống lại những giáo điều, luật lệ hà khắc, cổ hủ của xã hội phong kiến, những bất công trong xã hội để có một cuộc sống hạnh phúc chính đáng.
Kết thúc bài thơ là nỗi ngậm ngùi cho bi kịch tình duyên, số phận:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Xuân có thể là mùa xuân của thiên nhiên, của đất trời, tuần hoàn bất diệt. Xuân cũng có thể là tuổi xuân của con người, mong manh và ngắn ngủi, nhỏ bé trước thời gian vô thủy cô chung của vũ trụ. “Xuân đi xuân lại lại” như cái vòng luẩn quẩn, sự trở lại của mùa xuân cũng là sự ra đi của tuổi xuân. “Mảnh tình” vốn đã ít ỏi, nhỏ bé nay lại được “san sẻ” lại càng ít ỏi, mong manh hơn nữa. Nghệ thuật tăng tiến nhấn mạnh sự nhỏ bé dần, chỉ sự ít ỏi, sẻ chia hạnh phúc trong cuộc đời Hồ Xuân Hương làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. Đó là tâm trạng của phận làm lẽ, cũng là nỗi lòng chung của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Đối với người Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ một nhà thơ nào. Bà là “Chúa thơ Nôm” là con của Hồ Phi Diễn (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và một người thiếp quê ở Hải Dương”. Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, “là nhà thơ độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc”.
Tâm trạng của Hồ Xuân Hương bắt đầu trong một không gian vô cùng đặc biệt:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”.
“Đêm khuya” là khoảng thời gian mà vạn vật đã chìm vào giấc ngủ. Đó cũng là khoảng thời gian con người gạt bỏ hết những trăn trở, âu lo để trở về với hạnh púc gia đình, hạnh phúc lứa đôi. Nhưng với những người phụ nữ cô đơn, thì “đêm khuya” chính là lúc con người ta chất chứa nhiều tâm sự, là khoảng thời gian tâm tư sâu lắng nhất, thấm thía nhất nỗi bất hạnh, cô đơn đến tột cùng. Hồ Xuân Hương cũng vậy, khi màn đêm bao trùm lấy cảnh vật, cũng là lúc bản thân phải tự đối diện với lòng mình. Trong cái không gian tĩnh mịch ấy, bỗng “văng vẳng” tiếng “trống canh”. “Trống canh” là báo hiệu của thời gian, nay kết hợp với từ láy tượng thanh “văng vẳng” khiến âm thanh như từ xa vọng về, đầy ma mị, rối bời. Từ “dồn” như muốn nói lên sự dồn đuổi của thời gian lên cảnh vật, như thúc giục mọi người. Tuy nhiên, cấu trúc đảo ngữ đã khẳng định đây không chỉ là sự dồn đuổi của thời gian lên cảnh vật mà còn là sự dồn đuổi của tuổi trẻ giữa cái vòng tuần hoàn ngày-đêm của tạo hóa. Nếu như thời gian của cuộc đời là vô thủy, vô trung thì thời gian của đời người là hữu hạn. Giữa không gian yên ắng ấy là hình ảnh người phụ nữ lọt thỏm giữa bốn bề vắng lặng:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Cảnh khuya người thiếu phụ một mình trơ trọi với núi non, không biết làm bạn với ai, chỉ biết một mình trơ trụi với bóng hồng nhan, đối diện với khung cảnh của núi non hùng vĩ, cảnh vật đó đã đang tác động sâu sắc đến cảm cảm xúc của người đọc, tác giả, không chỉ thể hiện nỗi lòng của chính mình, mà qua đó còn nói về số phận của những người phụ nữ xưa nói riêng, nhưng tình cảm đó đều được đi sâu vào thơ văn.
Đúng là nhà văn là những người chiến sĩ của mọi thời đại, chính vì thế, bao nhiêu tình cảm chân thành, da diết, đều được họ thể hiện sâu sắc qua biết bao nhiêu cung bậc, cũng như cảm xúc của người đọc, thấm sâu trong chính tác phẩm của mình. Tình cảm đó đã đi sâu và mang đậm biết bao nhiêu giá trị của những người phụ nữ xưa, chỉ biết mượn rượu để quên sầu, nhưng khi tỉnh lại họ chợt nhận ra tất cả vẫn đang ám ảnh lấy tâm hồn của họ:
Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,
đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con.
“Xiên”, “đâm” là những động từ mạnh kết hợp với các từ “ngang”, “toạc” đã thể hiện sự dâng trào lên đến đỉnh điểm, vượt qua mọi giới hạn. Rêu và đá đều là những sự vật nhỏ bé, đối nghịch với mặt đất bao la rộng lớn, với chân mây mênh mông vời vợi. Những hình ảnh ấy tuy nhỏ nhoi nhưng có sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, bền bỉ, không chịu khuất phục, xâm chiếm những chiều kích không gian rộng lớn. Hai câu thơ cũng chính là ý thức phản kháng mãnh liệt, thể hiện cá tính mạnh mẽ, ngang tàng của nữ sĩ. Đó là sự trỗi dậy của cái tôi đòi quyền sống, quyền tự do, đồng thời là ý chí phản kháng chống lại những giáo điều, luật lệ hà khắc, cổ hủ của xã hội phong kiến, những bất công trong xã hội để có một cuộc sống hạnh phúc chính đáng.
Xuân có thể là mùa xuân của thiên nhiên, của đất trời, tuần hoàn bất diệt. Xuân cũng có thể là tuổi xuân của con người, mong manh và ngắn ngủi, nhỏ bé trước thời gian vô thủy cô chung của vũ trụ. “Xuân đi xuân lại lại” như cái vòng luẩn quẩn, sự trở lại của mùa xuân cũng là sự ra đi của tuổi xuân. “Mảnh tình” vốn đã ít ỏi, nhỏ bé nay lại được “san sẻ” lại càng ít ỏi, mong manh hơn nữa. Nghệ thuật tăng tiến nhấn mạnh sự nhỏ bé dần, chỉ sự ít ỏi, sẻ chia hạnh phúc trong cuộc đời Hồ Xuân Hương làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn. Đó là tâm trạng của phận làm lẽ, cũng là nỗi lòng chung của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Bao vất vả, cũng vượt qua, đâm toạc chân mây, rêu vẫn cứ mọc, vượt qua bao nhiêu nỗi cô đơn, tình cảm đó vẫn muốn san sẻ đi chút ít, sâu sắc và chân thành. Sự chờ đợi đó cứ lặp đi lặp lại, cứ chảy trôi hết ngày này qua ngày khác, xuân đi xuân lại lại”, ở đây cũng diễn tả sự quay trở lại của quỹ đạo thời gian, tất cả vượt qua rất nhiều những gian nan và vẫn muốn thể hiện tình cảm của chính mình.
Bài thơ đã thể hiện được sâu sắc nỗi lòng của những người phụ nữ xưa, họ phải sống một cuộc sống cô đơn, vất vả, một mình trơ trụi trước khung cảnh rộng lớn của thiên nhiên, nhưng lòng người thì thật nhỏ hẹp.
—/—
Trên đây là các bài văn mẫu Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương do Top lời giải sưu tầm và tổng hợp được, mong rằng với nội dung tham khảo này thì các em sẽ có thể hoàn thiện bài văn của mình tốt nhất!
Cảm nhận về bài thơ “Tự tình” – Ngữ văn 11
Bài giảng Ngữ văn 11 Tự tình
Dàn ý Cảm nhận về bài thơ “Tự tình”
I. Mở bài: Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
Sơ lược về nhà thơ Hồ Xuân Hương và phong cách sáng tác.
Giới thiệu bài thơ Tự tình II với nội dung về ước mơ và hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam.
II. Thân bài: Cảm nhận về bài thơ “Tự tình II”
a. Hai câu đề:
Tình cảnh của người thiếu phụ, cô đơn trong đêm vắng lặng, đợi chờ chồng đến mức chán chường.
Nỗi phiền muộn bởi đêm tối quá tĩnh mịch quạnh hiu khiến con người ta tủi phận, buồn rầu, mà với Hồ Xuân Hương đó còn là sự bẽ bàng của số phận là thứ thiếp.
Phản ánh số phận bất hạnh, éo le của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Khóc thương, đớn đau, chua chát cho cái cuộc đời hồng nhan của mình, cũng như của rất nhiều nhiều những phụ nữ ngoài kia, hạnh phúc đối với họ trở thành thứ xa xỉ, bởi ở cái xã hội này làm gì có hạnh phúc cho phụ nữ đâu!
b. Hai câu thực:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”: Cái vòng luẩn quẩn không hồi kết, càng trốn tránh nỗi cô đơn, khốn khổ của mình thì mỗi lúc tỉnh lại Hồ Xuân Hương lại càng thấm thía hơn về cuộc đời hồng nhan bạc phận của mình.
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn”: Phản ánh chính hoàn cảnh của người thiếu phụ đã sắp đi qua hết thời thanh xuân, son sắc nhưng tình duyên đã 2 lần mà vẫn còn lận đận trái ngang.
Lời than vãn về số phận chung của những người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc, nhất phu đa thê, người phụ nữ chưa bao giờ thực sự tìm được hạnh phúc cho riêng mình dù họ đã cố gắng và khao khát biết bao nhiêu.
c. Hai câu luận:
Ý chí, cũng như khao khát cháy bỏng được thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ phong kiến, đòi quyền công bằng, khao khát hạnh phúc của người phụ nữ.
Bà không muốn sống trong cái cảnh bị rẻ rúng coi thường, không muốn chịu kiếp chồng chung, muốn được tự do thể hiện cá tính và vui sống cuộc đời do mình làm chủ chứ không phải phụ thuộc vào ai khác.
d. Hai câu kết:
Ý thức được sự chảy trôi của thời gian, thanh xuân của phụ nữ có hạn, chưa tìm được hạnh phúc đích thực thì tuổi già ập đến thực sự là nỗi chán ngán vô cùng tận.
Hạnh phúc của người phụ nữ ở chế độ phong kiến không được trọn vẹn, vừa ít lại còn phải chia năm xẻ bảy, khiến họ vô cùng đau khổ và chán chường với lòng ghen và sự cô quạnh.
III. Kết bài: Khẳng định về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Nêu một số cảm nhận của bản thân về bài thơ “Tự tình II”
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 1)
Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nữ có cái tôi vô cùng độc đáo của văn học trung đại Việt Nam. Bà đã để lại cho thế hệ mai sau nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó phải kể đến bài thơ Tự tình II.
Xã hội xưa, con người thân phận nhỏ bé thường chịu nhiều bất công, đặc biệt là người phụ nữ. Họ phải cúi mình nhún nhường trước những hủ tục, những quan niệm lạc hậu để rồi bị vùi dập trong kiếp sống bấp bênh, nổi trôi vô định, chịu nỗi đau về thể xác, bị giày vò về tình thần. Trong họ, sự cô đơn, tủi phận luôn bủa vây, song sâu thẳm nơi đáy lòng, họ vẫn ngời lên những vẻ đẹp đáng trân trọng. Bài thơ Tự tình là lời tâm sự với những nỗi buồn và khát khao, là tiếng lòng của bao người phụ nữ trong xã hội đương thời.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Khi màn đêm buông xuống, bóng tối ùa về bất chợt là lúc lòng người dễ chìm trong mớ cảm xúc hỗn độn nhất. Lúc này đây, nhân vật trữ tình cũng như thế, “đêm khuya” – khoảnh khắc của nỗi buồn, của sự cô đơn chiếm chỗ. Tiếng trống canh dồn càng làm cho sự tĩnh mịch, vắng lặng của đêm tối thêm thấm đượm. Giữa tiếng trống canh lòng người càng khắc khoải, phận hồng nhan “trơ” giữa cuộc đời, nỗi chơ vơ tột cùng, trống trải đến khôn nguôi.
Nỗi buồn có thể được chia sẻ nếu có một ai đồng cảm cùng mình, chịu nghe mình giãi bày, chịu lắng nghe những tổn thương, khổ đau của mình. Nhưng ở đây, nhân vật trữ tình lại chỉ một mình đơn độc, không có lấy một ai san sẻ, đành lấy rượu làm tri kỉ, tìm đến rượu để quên hết những muộn phiền:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Men rượu có thể làm người say, quên đi tức thời nhưng rồi khi tỉnh nỗi đau vẫn còn đó, chẳng thể vơi, cuối cùng, sự cô đơn vẫn cứ bám víu lấy thân phận bé nhỏ. Kiếp hẩm hiu của người phụ nữ như vầng trăng khuyết, dù bóng đã xế mà chẳng thể “tròn”, chẳng thể trọn vẹn một mối tình chung thủy, sắt son. Duyên phận lỡ làng, cuộc đời trái ngang, còn gì đau khổ hơn như thế, số phận cứ như trêu ngươi người phụ nữ vậy.
Nhưng dù rằng có khó khăn, dù rằng bao tồi tệ xảy đến thì người phụ nữ vẫn không hề từ bỏ. Sâu thẳm, họ vẫn mang trong mình sức sống kiên cường, mạnh mẽ để vượt thoát khỏi những cơ cực đang chịu đựng từng ngày hay chí ít cũng để vơi đi những tù túng, chán chường.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Những đám rêu nhỏ bé kia cũng dũng cảm “xiên ngang” cả mặt đất để vươn mình đón lấy ánh sáng mặt trời. Những hòn đá nhỏ nhoi cũng “đâm toạc” cả trời mây để nhận lấy tự do. Tất cả những hình ảnh của sự vật thiên nhiên ấy chính là hình ảnh ẩn dụ cho người phụ nữ với sức sống phi thường, mạnh mẽ. Dù cho những bất công, đau khổ có vùi dập họ từng ngày thì họ vẫn gắng gượng để vượt thoát với ước mơ tự do, hạnh phúc và bình yên.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Xuân của tạo hoá, đi rồi đến, vòng tuần hoàn của vũ trụ chẳng thể đổi thay. Thời gian thì trôi đi nhưng có những điều chẳng thể nào thay đổi. Chữ “Ngán” đặt đầu câu càng diễn tả sự chán chường của nhân vật trữ tình, tuổi xuân cứ ngày một thêm vậy mà mong cầu một cuộc tình trọn vẹn cũng chẳng thể có.
Thanh xuân để chờ đợi một hạnh phúc đúng nghĩa cũng chẳng chạm tới, đến “mảnh tình” – mối tình mỏng manh, nhỏ nhoi, ít ỏi cũng phải san sẻ cho người. Như thế, sao không thể ngán ngẩm, sao không khỏi chán chường, sao không thể không cô đơn cho được.
Quan niệm phong kiến xưa: “Trai năm thê bảy thiếp, gái chuyên chính một chồng” đã khiến cho bao người phụ nữ phải ngập chìm trong khổ đau, gặm nhấm nỗi cô đơn từng ngày, từng giờ, từng đêm vắng. Là người phụ nữ sống trong xã hội lúc bấy giờ, cũng chịu chung cảnh ngộ như thế mà Hồ Xuân Hương đã viết nên bài thơ nói lòng mình mà cũng nói hộ lòng người.
Bài thơ khiến ta không khỏi xót xa, thương cảm cho kiếp sống mong cầu hạnh phúc mòn mỏi và chịu đựng khổ đau của bao phụ nữ xưa. Đồng thời, càng căm phẫn một xã hội bất công vùi dập tự do, hạnh phúc của con người.
Bài thơ Tự tình II có nỗi buồn, có cô đơn đấy nhưng bên trong mỗi lời thơ đều chất chứa một sức sống mãnh liệt của một tâm hồn khao khát hạnh phúc, một tấm lòng khát khao tự do và thiết tha với cuộc đời. Tác phẩm đã chạm đến người đọc bởi những cảm xúc chân thực từ lối viết của một trái tim giàu yêu thương.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 2)
Văn học trung đại Việt Nam đánh dấu sự thành công của các nhà thơ nổi tiếng với những tác phẩm để lại dấu ấn vô cùng mạnh mẽ. Nguyễn Du có Đoạn trường tân thanh, Tú Xương có Thương vợ, Nguyễn Khuyến có chùm thơ về thu.
Và có một nữ thi sĩ nổi bật lên giữa những chùm quả ngọt ấy đó là Hồ Xuân Hương – bà chúa thơ Nôm của nền văn học nước nhà. Bà đã để lại cho người đời sau những bài thơ nói lên tiếng nói của người phụ nữ, cất lên tiếng thơ tố cáo, đấu tranh cho quyền phụ nữ vô cùng sâu sắc. Đặc biệt, Tự tình II là một tác phẩm vô cùng xuất sắc thể hiện được tài năng và tư tưởng của bà.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Cũng như bao người phụ nữ trong xã hội cũ, Hồ Xuân Hương cũng phải chịu kiếp chồng chung. Bà từng cất lên tiếng thơ ai oán:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.”
Có lẽ vì vậy mà bà hiểu hơn những nỗi lòng của người phụ nữ chung số phận. Giữa đêm khuya tĩnh mịch, khi mà mọi vật, mọi người đang chìm trong giấc ngủ thì người phụ nữ kia vẫn chưa thể nhắm mắt vì nỗi lòng thổn thức của chính mình. Tiếng trống điểm canh vẫn vang vọng giữa cảnh khuya, khiến lòng người khôn nguôi nghĩ về cuộc đời, về số phận trái ngang.
Từng khoảng khắc thời gian trôi qua dường như chỉ là bao nỗi trằn trọc của kẻ ” hồng nhan”. Người phụ nữ ấy một mình trơ trọi giữa khoảng không, đang mong đợi chút gì như thứ hạnh phúc nhỏ bé lên lỏi vào trong tâm khảm. Nỗi cô cô đơn, tủi hổ tràn ngập, bao vây quanh thân người con gái, dòng tâm trạng bẽ bàng, chịu đựng, chán chường trước cuộc đời.
Chao ơi! Sao đời người phụ nữ khổ cực đến vậy, một mình chịu đựng, một mình thôi. Duyên phận hẩm hiu, tình người nông cạn, ai hiểu nỗi lòng lúc này. Càng khát khao hạnh phúc bao nhiêu thì nỗi cô đơn càng tràn ngập bấy nhiêu. Nỗi lòng đành mượn rượu tâm tình để quên đi hết tất thảy những khổ đau ngập tràn:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Nhưng rượu có làm quên đi được nỗi sầu dằng dặc đang bủa vây tâm hồn người phụ nữ uống, càng tỉnh lại càng đau. Hương rượu càng khiến lòng người thêm đau khổ, càng gợi nỗi niềm muôn thuở chia xa. Làm sao để quên đi niềm đau ấy, làm sao để với lấy chút bình yên trong trái tim mình. Chẳng thể nào quên được nỗi tuyệt vọng vô bờ bến, nhìn lên vầng trăng mong tìm chút đồng cảm, mong vẻ đẹp tròn đầy của ánh trăng mang chút hy vọng cho niềm hạnh phúc.
Vậy mà vầng trăng cũng vô tình khuyết đi như hạnh phúc chẳng thể cập bờ viên mãn. Vầng trăng bao giờ mới tròn vẹn, hạnh phúc đôi ta bao giờ mới tuyệt diệu và bình yên, bao giờ mới thôi khao khát đợi chờ, bao giờ mới ngừng đau khổ , cô đơn. Nỗi buồn không thể ngừng, càng ngập trong men rượu nỗi buồn càng tàn toả, cảnh vật cũng mang vẻ sầu tư.
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” chứ, thiên nhiên mang nỗi buồn nhân thế:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Nhưng dù buồn trong nó vẫn mang sức mạnh ngang tàn. Có nhỏ bé, có yếu ớt những vẫn mạnh mẽ vươn lên. Đó là một sức sống mãnh liệt của thiên nhiến ẩn dụ cho sự đấu tranh giành lấy hạnh phúc của người phụ nữ. Họ không cam chịu, không khuất phục trước số phận. Tình duyên lận đận nhưng không vì thế mà chấp nhận nỗi cô đơn, vẫn muốn đấu tranh để giành lấy hạnh phúc của mình.
Trong lòng những người phụ nữ vẫn ngập tràn hy vọng, ngập tràn niềm tin ở tương lai về hạnh phúc và tình yêu, mong chờ nhưng tháng ngày bình yên. Nhưng đời vốn trớ trêu, chút hy vọng ấy lại bị nghịch cảnh quấn lấy một lần nữa. Thực tại phũ phàng, cuộc đời lại bế tắc, chán nản:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Xuân thì vẫn cứ thế tuần hoàn, vòng xoay của số phận cũng cứ tuần hoàn như thế. Mà tình yêu, hạnh phúc vẫn cứ dở dang, chật hẹp. Duyên đôi lứa đã ít ỏi, nhỏ bé, từng mảnh vụn vỡ nhỏ nhoi mà vẫn đành chấp nhận san sẻ, chia xớt cho người.
Từng lời thơ thốt ra chứa chan niềm xót xa, cay đắng. Có chua xót, có đăng cay, có niềm tin, có quyết liệt, có cô đơn, có thất vọng và cả tủi hờn. Tiếng thơ đượm buồn và chứa chan khát khao mãnh liệt niềm hạnh phúc trong xã hội đầy rẫy bất công. Lối biểu cảm tinh tế theo từng dòng tâm trạng đã khiến người đọc thổn thức theo từng lời chữ thốt ra, qua đó ta thêm yêu thương và trân trọng vẻ đẹp, tấm lòng của những người phụ nữ, thêm yêu, thêm quý hồn thơ của nữ sĩ tài ba Hồ Xuân Hương.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 3)
Được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”, Hồ Xuân Hương đã để lại cho chúng ta những tác phẩm thơ Nôm thật sự xuất sắc, trong đó đa số là các bài thơ nói về thân phận người phụ nữ, cùng với nỗi niềm đồng cảm, thương cảm sâu sắc và khao khát được hạnh phúc.
Trong các tác phẩm ấy có chùm thơ ba bài thơ Tự tình, được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời của bà. Mỗi bài thơ đều mang những nỗi niềm cảm xúc riêng nhưng tựu chung lại là nỗi buồn, nỗi cô đơn của một người phụ nữ khao khát yêu đương nhưng lại gặp phải những bất hạnh, đau đớn. Tự tình 2 được sinh ra trong niềm cảm hứng chung ấy.
Hồ Xuân Hương được sinh ra vào giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, khi mà xã hội đang chuyển mình đầy sóng gió. Cả xã hội khi ấy đều sục sôi cái tư tưởng đòi quyền sống, tự do và hạnh phúc. Và cái không khí ấy đã tác động mạnh mẽ tới tâm trí và hồn thơ của bà. Ngẫm lại số phận mình, hai lần lấy chồng, hai lần làm lẽ, hai lần chồng chết, cuộc đời bà là một chuỗi dài những tháng năm đau khổ, là những giọt nước mắt cho phận “hồng nhan”.
Có lẽ chính thế mà khi viết Tự tình 2, bà đã gợi mở ra không gian vắng lặng giữa đêm khuya thanh vắng, chỉ còn xao xác tiếng trống canh khuya:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Một không gian bao la mở ra trước mắt chúng ta, thế nhưng không gian ấy lại vắng lặng, đìu hiu, cô quạnh đến vô cùng, chỉ còn tiếng trống canh lặng lẽ gióng lên từng hồi lạnh lẽo. Người ta cũng phải ngạc nhiên tự hỏi tại sao nhân vật trữ tình lại mở lời giữa lúc đêm khuya vắng thế này? Liệu còn điều gì khiến bà suy tư mà giật mình thức giấc hay vì cả đêm qua, bà chưa hề chợp mắt một phút nào chăng?
Tiếng trống canh “dồn” dập, gấp gáp báo hiệu sự trôi chảy của thời gian, mỗi khắc trôi qua là tuổi xuân của bà lại trôi qua một chút. Đêm khuya là lúc người ta nghỉ ngơi, vậy tại sao bà còn ngồi đây với đầy nỗi niềm tâm sự?
Có lẽ là bởi vì sự cô đơn, sự buồn tủi, thao thức cho số kiếp của mình đang xâm chiếm lấy tâm hồn nhạy cảm của bà. Ở đây, Hồ Xuân Hương đã sử dụng từ láy “văng vẳng” – một từ láy tượng thanh miêu tả cái âm thanh vang vọng của tiếng trống canh trong đêm, và nó cũng là từ láy diễn tả cái không khí vắng lặng đến vô cùng của một con người đang thao thức giữa canh khuya.
Đến câu thơ thứ hai, người ta nhận thấy đằng sau nỗi thao thức ấy là một bầu tâm sự đang cần trút bỏ:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
“Hồng nhan” là một từ ngữ vốn dùng để chỉ những người phụ nữ xinh đẹp, ấy thế mà người phụ nữ ấy giữa canh khuya lại phải chịu cảnh “trơ” trọi một mình. Ấn tượng nhất trong câu thơ là từ “trơ”. Có lẽ chưa từng có một nhà thơ nào lại bạo gan trong cách sử dụng từ ngữ như thế! “Trơ” ở đây có lẽ Hồ Xuân Hương muốn nhắc tới sự cô đơn, lẻ loi, trơ trọi – một nỗi buồn bao trùm lấy cả không gian. Hồ Xuân Hương đã đặt ở câu thơ một từ ngữ định lượng “cái” để chỉ “hồng nhan”.
Đây là một sự cụ thể hóa cho cái nỗi buồn cho kiếp má hồng, giọng thơ chùng xuống thể hiện một sự não nề trong khung cảnh. Đặt chữ “trơ” lên đầu câu, bà muốn nhấn mạnh sự trơ trọi, đơn độc, cái buồn tủi của mình trong đêm vắng. Và cái buồn ấy càng cụ thể hơn khi nó được đặt bên cạnh một cái to lớn như “nước non”. Đến đây, ta chợt cảm khái rằng có phải chăng đây Hồ Xuân Hương đang muốn gợi đến hình ảnh của một người vợ lẽ đang mòn mỏi chờ chồng mình trong canh khuya của kiếp chung chồng cay đắng, tủi phận chăng?
Cái buồn rất dễ thấm vào tâm can con người, như Nguyễn Du đã nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, nó cũng thấm sang cả cảnh vật trong đêm vắng lặng này. Vậy nên ta mới cảm thấy cái bóng đêm kia quá lạnh lẽo, quá cô quạnh. Và khi cái buồn đang đè nặng, chi phối tâm trạng con người thì có lẽ chén rượu là phương tiện để giải sầu hiệu quả nhất. Thế nên, Hồ Xuân Hương cũng học theo người xưa “nâng chén để tiêu sầu”, nhưng có lẽ điều đó chỉ làm cho nỗi buồn càng thêm nặng nề, nỗi bi kịch vẫn là bi kịch không lối thoát:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Như một quy luật của tạo hóa, trăng tròn rồi lại khuyết, lặp lại theo một chu kì nhất định. Vầng trăng – vốn là tượng trưng cho cuộc đời, cho tuổi xuân của người con gái, vầng trăng “tròn” tức là đã đến tuổi gả chồng, cái tuổi đẹp nhất của người con gái. Thế nhưng, trăng trong thơ Hồ Xuân Hương lại chỉ khuyết chẳng tròn, và đã “xế” bóng, gợi lên tuổi xuân đang dần trôi đi của người con gái – nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Trăng đã xế, tuổi xuân đã qua, ấy vậy mà vẫn chưa có được hạnh phúc trọn vẹn. Phải chăng hình ảnh trăng chưa tròn là vì hạnh phúc của bà còn chưa viên mãn hay cũng là cuộc đời của bà, đã có tuổi mà hạnh phúc vẫn chẳng tròn đầy?
Những câu thơ nối tiếp vẫn nói lên nỗi đơn côi, lẻ bóng của nhân vật trữ tình thế nhưng lại với một sự chuyển biến khác:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn’
Nếu như bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh vắng lặng, đìu hiu của canh khuya cô quạnh, lời thơ dìu dặt, đượm buồn diễn tả cái tâm trạng chờ đợi mòn mỏi thì hai câu thơ này lại đột ngột chuyển mình mạnh mẽ. Hồ Xuân Hương đã dùng ở đây nghệ thuật đảo ngữ với tiết tấu nhanh, mạnh mẽ tạo nên một khung cảnh sinh động, chân thực và đầy sức sống.
Những đám rêu trên mặt đất được bóng trăng xiên ngang mà soi tỏ, những hòn đá vô tri còn được ánh trăng đâm xuyên qua những đám mây mà chiếu tới. Cảnh thực nhưng lại gợi cảm nhiều hơn gợi tả. Đến những thứ vô tri vô năng mà còn được ánh trăng soi tỏ, có đôi có cặp, cớ sao một kiếp hồng nhan lại phải chịu cảnh cô đơn một mình?
Hai câu thơ thôi mà toàn là những động từ mạnh “đâm toạc, xiên ngang” phải chăng nó đang bày tỏ cái nỗi lòng chất chứa sắp bùng nổ của nhà thơ? Lời thơ như là một sự phản ứng dữ dội cho kiếp sống cô độc của người phụ nữ ấy, nhân vật trữ tình không còn dịu dàng được nữa, bà muốn được giải thoát khỏi tâm trạng bức bối đang bủa vây lấy thân mình. Nghệ thuật đảo ngữ đã làm cho lời thơ thêm phần mạnh mẽ dứt khoát, táo bạo giống hệt tính cách của “bà chúa thơ Nôm”.
Thế nhưng, cái bộc phát tức giận đó chỉ dường như bùng lên trong giây lát để rồi bà lại trở về với cái nỗi buồn mênh mang trong lòng. Một sự chấp nhận, một sự bất lực, cam chịu mà bà phải thốt lên trong sự đau đớn:
“Ngán nỗi xuân qua xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Một câu thơ nhưng lại khiến người đọc cảm thấy một khoảng thời gian dài đằng đằng khi mà tuổi xuân của bà cứ trôi đi trong lặng lẽ, trong sự ngao ngán về cuộc đời. Mùa xuân đến trong mừng vui rộn rã thì tuổi xuân của bà cũng dần chảy trôi đi, ấy vậy mà hạnh phúc, tình yêu vẫn chỉ được hưởng một chút “con con”.
“Mảnh tình” – chỉ là mảnh tình chứ chẳng được trọn vẹn, ấy vậy mà còn phải “san sẻ” thì còn đáng bao nhiêu nữa đây? Có lẽ đây là lời thở than đầy cay đắng của Hồ Xuân Hương cho cái kiếp vợ lẽ của mình, sự san sẻ yêu thương là một điều không ai muốn, vậy mà bà phải chịu:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
Hai câu thơ cuối khép lại như một lời than thầm kín của người phụ nữ trong phận làm lẽ của xã hội xưa. Bởi một kiếp làm lẽ sẽ chẳng bao giờ được hưởng trọn tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của mình.
Bài thơ được Hồ Xuân Hương viết lên để thể hiện tâm trạng và thái độ của mình trước duyên phận hẩm hiu, bà vừa uất ức, vừa đau xót muốn gắng gượng vươn lên nhưng bi kịch cứ nối dài bi kịch. Nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ là thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với những từ ngữ sinh động gây ấn tượng mạnh mẽ.
Mặc dù sử dụng thể thơ Đường nhưng những ngôn từ của bà đều hết sức thuần việt. Ngôn từ khi dịu dàng, đằm thắm, gợi tả nỗi buồn, khi phá cách với nhịp điệu mãnh liệt, tất cả đều được sử dụng để miêu tả những cảm nhận của bà về nỗi buồn sự đời. Nghệ thuật đặc tả được bà sử dụng hết sức tinh tế cùng với nghệ thuật đảo ngữ tạo nên một Tự tình cực kỳ thành công về mặt cảm xúc và xây dựng hình tượng.
Tự tình 2 là bài thơ thể hiện tâm tư, tình cảm của Hồ Xuân Hương trước duyên phận của mình; vừa uất ức, tức giận, buồn tủi, lẻ loi, muốn vượt lên nhưng lại rơi vào bi kịch. Bài thơ là minh chứng cho khát vọng hạnh phúc mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương đồng thời khẳng định tài năng của bà, xứng đáng với danh xưng “bà chúa thơ Nôm”.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 4)
Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ xuất sắc của Việt Nam, số lượng tác phẩm bà để lại khá nhiều, và phong cách sáng tác thơ chủ yếu của Hồ Xuân Hương chính là tả cảnh ngụ tình. Bà còn được biết đến với hình ảnh của một nữ nhà thơ viết nhiều về thân phận người phụ nữ, là người dũng cảm đề cao vẻ đẹp, sự hi sinh và đức hạnh của người phụ nữ, đồng thời lên tiếng bênh vực cho họ và phê phán lên án gay gắt chế độ xã hội cũ.
Tự tình là một trong những bài thơ hay, chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc của chính tác giả và cũng là của người phụ nữ nói chung. Bài thơ Tự tình mở đầu với 2 câu thơ vừa tả cảnh nhưng cũng tả hình ảnh của một người phụ nữ – hay có thể gọi là hồng nhan. Nhưng tiếc thay, hồng nhan đó lại rơi vào hoàn cảnh cô đơn trống vắng, giữa đêm khuya u tịch.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Những cơn sóng cảm xúc đang cuộn xoáy trong lòng khiến nữ sĩ suy tư trăn trở, thao thức thâu đêm. Tiếng trống cầm canh lâu lâu lại điểm, báo thời gian đang trôi qua. Bước chân của đêm tối mới nặng nề càng làm in sâu nỗi đau đời âm ỉ, dai dẳng thiêu đốt tâm can nữ sĩ bấy lâu nay bật thốt thành lời chua chát, đắng cay.
Hồng nhan là gương mặt đẹp, thường được dùng để chỉ phụ nữ nói chung và những người con gái đẹp nói riêng. Là một người phụ nữ có nhan sắc, nhưng lại được miêu tả “trơ với nước non”. Trước cuộc đời rộng lớn, người phụ nữ đó nhận ra thân phận của mình lẻ loi đơn chiếc, và âm thanh của trống cầm canh lại càng điểm thêm một nỗi buồn, trống vắng khó tả. Người phụ nữ ấy đã tìm đến rượu để giải sầu:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Những tưởng như nỗi bất hạnh đã khiến tâm hồn hoá thành gỗ đá nhưng không phải. Trái tim còn đập nên ý thức vẫn còn, nữ sĩ đành say cho quên vậy. Mỗi khi có chuyện gì đó sầu muộn, người xưa thường tìm đến trăng đến rượu để ngỏ cùng bầu tâm sự. Chỉ muốn uống thật say, hương rượu thật nồng để quên đi tất cả, nhưng nghịch lí thay, chén rượu đưa lên mũi, hương nồng vào mũi nhưng người muốn say nhưng tâm và suy nghĩ vẫn đang rất tỉnh.
Không có nỗi buồn nào biến mất ở đây, mà càng làm hiện hữu rõ nỗi lòng của người phụ nữ lúc này. Hình ảnh vầng trăng xuất hiện nhưng khuyết chưa tròn. Phải chăng, ngụ ý cho thân phận cho hạnh phúc của chính tác giả. Là người tài giỏi nhưng duyên phận hẩm hiu, chưa một lần trọn ven. Tuổi xuân dần đi qua mà hạnh phúc vẫn chưa tới bến đỗ.
Tỉnh thì đau khổ nhưng mình vẫn còn được là mình không đến nỗi tuyệt vọng. Lời dạy của trời đất sâu kín mà rành rành trước mắt, ngụ ở ngay trong rêu đá. Hình ảnh rêu được đưa ra đây nhưng mang những dụ ý sâu xa của tác giả Hồ Xuân Hương, rêu là loài mỏng manh nhỏ bé nhưng lại có sức sống vô cùng mạnh mẽ, không dừng lại đó, ở bất cứ một điều kiện nào thì nó vẫn có thể tươi tốt, dù là điều kiện sống như thế nào đi chăng nữa.
Hình ảnh rêu từng đám đâm xuyên ngang mặt đất gợi ra cho chúng ta những liên tưởng mạnh mẽ về sự phản kháng mạnh mẽ cũng như sự chống đối của nó với thứ có thể mạnh hơn nó. Hình ảnh đá cũng vậy, đối lập với sự nhỏ bé của những viên đá với sự rộng lớn của trời đất, nó lại càng làm nổi bật sức mạnh của những viên đá, quả thực nó không tầm thường một tí nào. Sự đồng điệu của người và thiên nhiên, luôn đối mặt với khó khăn thách thức nhưng chưa bao giờ đi đến thành công.
Kiếp làm vợ lẽ, dù cố thoát ra nhưng vẫn không được. Cho nên mới có 2 câu cuối:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Thiên nhiên thuận theo đất trời, xuân đi rồi xuân lại tới, nhưng con người lại khác, với người phụ nữ tuổi xuân trôi đi nhưng chẳng bao giờ quay lại thêm một lần nào nữa. Lại càng đáng buồn hơn cho nhưng số phận hẩm hưu, chờ mong cả tuổi xuân, chờ có một niềm hạnh phúc trọng vẹn nhưng nào đâu có được.
Trước sự lẻ loi, chán chường mà Hồ Xuân Hương đã sử dụng” ngán” phần nào nói lên được nỗi lòng của thi sĩ bây giờ. Mảnh tình đã bé lại còn phải san sẻ, chia nhỏ ra. Không được hưởng một tình yêu một hạnh phúc trọn vẹn, tới khi tìm đến với hạnh phúc lại phải san sẻ, thật quả là đáng thương. Qua đây cũng ngầm ẩn ý về những số phận của người phụ nữ, chịu cảnh thê thiếp, dưới chế độ cũ không được coi trọng và không có quyền lên tiếng.
Tự tình là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách cũng như tư tưởng của Hồ Xuân Hương đặc biệt là những vấn đề xoay quanh người phụ nữ. Bài thơ trĩu nặng một nỗi buồn nhưng không hề bi lụy bởi nổi bật lên trên hết là cốt cách cứng cỏi, tâm hồn nhạy cảm và mạnh mẽ đã giúp nữ sĩ vượt qua bao bất hạnh của cuộc đời.
Bài thơ vừa là tiếng lòng riêng của nữ sĩ, vừa là tiếng lòng chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thuở ấy. Qua đây chúng ta cũng thấy được một Hồ Xuân Hương vừa yếu mềm nhưng cũng thật ngang tàng mạnh mẽ khi dám bộc lộ những suy nghĩ của chính mình.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 5)
“Bà Chúa Thơ Nôm” – Hồ Xuân Hương là một nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, thơ của bà chính là tiếng nói thương cảm đối với số phận người phụ nữ, tiếng thơ của bà còn thấm đượm tinh thần nhân đạo khi trân trọng, đề cao vẻ đẹp và những khát vọng chính đáng của người phụ nữ. Bài thơ “Tự tình” (bài II) nằm trong chùm thơ “Tự tình” của bà là một trong những sáng tác mà ở đó ta cảm nhận được tâm trạng buồn tủi, phẫn uất trước duyên phận éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc ở Hồ Xuân Hương.
Mở đầu bài thơ nữ thi sĩ gợi ra một khung cảnh cũng như tâm cảnh mang nặng sự cô đơn, vắng vẻ quạnh hiu:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Thời gian được nhắc đến đã là đêm khuya, là khoảng thời gian khá nhạy cảm, nhạy cảm bởi đó là lúc con người ta đối diện với chính bản thân mình, những suy nghĩ, trăn trở bắt đầu bủa vây xung quanh. Thêm vào đó, giữa không gian tĩnh mịch, vắng vẻ của đêm khuya lại có thêm tiếng trống canh dồn, âm thanh “văng vẳng” càng làm tăng sự vắng lặng và quạnh hiu của không gian, tiếng trống dồn dập giống như đang thúc giục dồn dập bước đi thời gian.
Tiếng trống hay cũng là tiếng lòng của nữ thi sĩ, sự rối bời quẩn quanh khi nhận ra sự trôi chảy của thời gian của đời người, mà ta – phận hồng nhan vẫn còn trơ trơ, chỉ có mình ta với nước non, đó là sự cô đơn, lẻ bóng, trơ trọi. Có thể đó là sự tủi hổ trong nhận thức về hoàn cảnh của nhà thơ nhưng cũng có thể đó chính là sự kiên cường, bền bỉ trong con người nhà thơ.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
“Say lại tỉnh” giống như một vòng luẩn quẩn, bế tắc của cuộc đời cũng như của tình duyên, muốn say cho quên sầu muộn và nỗi xót xa số phận nhưng càng say lại càng tỉnh, càng thấu hơn nỗi khổ của thân phận.
Hình ảnh vầng trăng “bóng xế” nghĩa là trăng sắp tàn, trời sắp sáng lại thêm “khuyết chưa tròn” ấy là sự tương quan với số phận của người nữ sĩ, trăng sắp tàn giống như tuổi xuân đã sắp trôi qua thế nhưng trăng vẫn khuyết chưa tròn ấy là tình duyên vẫn chưa được trọn vẹn như ý. Ta cảm nhận được nỗi lòng cay đắng, xót xa cho duyên phận lỡ làng của nhà thơ.
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Trong hai câu thơ trên, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ làm tăng sức hấp dẫn của câu thơ, đặc biệt việc đặt các động từ mạnh ở đầu mỗi câu thơ như “xiên ngang, đâm toạc” đã làm tăng sự sinh động của câu thơ. Bức tranh thiên nhiên có mặt đất, chân mây, rêu từng đám mọc xiên ngang mặt đất, những hòn đá dựng đứng như đâm vào toạc cả chân mây.
Việc sử dụng hình ảnh và từ ngữ đã gợi nên một thiên nhiên tràn đầy sức sống và ẩn chứa trong đó là tâm trạng, thái độ của nữ nhà thơ. “Xiên ngang, đâm toạc” là sự phẫn uất và phản kháng của nhà thơ đối với cuộc đời, số phận của mình. Từng lời thơ nghe có vẻ đầy căm phẫn nhưng sâu xa ta lại thấy sự chua chát, cam chịu và chấp nhận của nhà thơ.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Nhắc đến mùa xuân là nhớ về tuổi xuân của mình, nữ thi sĩ ngán ngẩm bởi mùa xuân qua đi rồi mùa xuân lại đến nhưng tuổi xuân mà qua thì là hết hẳn, chẳng còn lấy lại được nữa. Mà cứ mỗi mùa xuân trở lại lại là sự ra đi của tuổi xuân, nhìn bao mùa xuân qua là bấy nhiêu năm tuổi xuân dần vơi đi, tuổi xuân đã ít cứ theo đà trôi chảy của thời gian vẫn éo le, hẩm hiu và dở dang lỡ làng.
Giống như “mảnh tình” của nàng thi sĩ, đã nhỏ bé chỉ gọi là “mảnh” nhưng lại còn “san sẻ” thành ra chỉ còn một “tí con con” dường như không còn đáng là bao nữa. Những lời thơ như lời tâm sự của nhà thơ về chính tình duyên và số phận của mình, nỗi lòng của nhà thơ thể hiện sự khát khao có được hạnh phúc, nhưng hy vọng bao nhiêu lại phải thất vọng bấy nhiêu, chỉ trách sao số phận của nữ thi sĩ lận đận, phũ phàng.
Ta có thể cảm nhận được sự nỗ lực, sự gắng gượng vươn lên số phận của Hồ Xuân Hương, nhưng dù có cố gắng, dù có kiên cường nhà thơ vẫn phải đối mặt với những trớ trêu, thực tại phũ phàng của số phận. Những ước mơ và khát khao sống, hạnh phúc của nhà thơ là một thái độ sống rất tích cực mà chúng ta phải học tập, dù hoàn cảnh và số phận có phũ phàng với ta nhưng ta vẫn phải sống một cuộc đời thật ý nghĩa.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 6)
Xã hội phong kiến xưa đầy rẫy những bất công, những sự đàn áp khiến cho đời sống của nhân dân cực khổ. Và đặc biệt, những người phụ nữ xưa, thân phận “như trái bần trôi” bị vùi dập, chà đạp, ngay cả quyền tự do yêu đương, quyền được hưởng hạnh phúc cũng bị tước đoạt.
Bởi vậy, biết bao bài thơ cất lên tiếng nói thương cảm cho cuộc đời “hồng nhan bạc phận” của họ như nàng Kiều tài năng mà số phận truân chuyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người chinh phụ với nỗi lòng nhớ thương chồng nơi biên ải xa xôi trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn,…
Và có một nhà thơ nữ bản lĩnh tài ba, đã dùng chính ngòi bút của mình nói lên tiếng nói phẫn uất trước cuộc đời đầy đau thương của mình, cũng là tiếng lòng thổn thức của bao kiếp đàn bà bạc mệnh, đó là nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương. Tự tình 2 là bài thơ vô cùng tiêu biểu và thành công của bà.
“Canh khuya văng vẳng trống canh dồn.
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Tình yêu khiến con người ta hạnh phúc cũng khiến người ta đau khổ, tình yêu luôn chất chứa những cung bậc cảm xúc khó tả, ai cũng khao khát yêu và được yêu nhưng không phải tình yêu tất cả đều được như ý nguyện. Bởi vậy, giữa màn đêm tĩnh mịch ấy, người con gái cô đơn đến tội nghiệp, một mình lẻ loi, tiếng trống điểm canh vẫn dồn dập không ngăn trở được bước đi của thời gian, cứ “văng vẳng” bên tai kẻ cô đơn, sầu muộn.
Màn đêm giá lạnh, u buồn, văng vẳng tiếng trống khiến trái tim đã lạnh giá lại càng đơn côi, đau khổ đến tội nghiệp. Tiếng thơ “Cái hồng nhan” cất lên nghe sao mà chua chát, ngậm ngùi đến thế. Phận hồng nhận trơ trọi giữa khoảng không của non nước bao la, chẳng ai thấu, chẳng chốn nào hay. Giọng thơ da diết, trĩu nặng nỗi lòng, lòng bẽ bàng, tủi phận biết bao.
” Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Xót xa cho phần ngang trái của mình, nhà thơ tìm đến chén rượu cho vơi đi nỗi lòng, tìm đến ánh trăng bầu bạn, tâm tình. Nhưng càng uống lại càng tỉnh, nỗi sầu chẳng thể quên mà càng rợn ngợp, bủa vây ” say lại tỉnh”, hương rượu nồng nàn ấy không thể xoá tan đi nỗi lòng thương nhớ, đớn đau này. Nỗi sầu thân phận cứ quẩn quanh, vừa quên lại chợt nhớ. Ánh trăng kia đã xế bóng mà vẫn chẳng thể viên mãn tròn đầy.
Vầng trăng khuyết như chính cuộc tình của nhà thơ với người thương chẳng thể nào trọn vẹn, đong đầy, mãi mãi chỉ có khổ đau, hối tiếc, xót xa mà thôi. Cho đến bao giờ, ánh trăng kia mới có thể đong đầy mang đến hạnh phúc thực sự đây khi thực tại quá phũ phàng, chua xót. Nỗi lòng tuyệt vọng khôn thấu, trái tim nghẹn ngào chẳng thể thốt nên lời, lòng trĩu nặng ai oán mà cũng khát khao hạnh phúc, khát khao tình yêu viên mãn. Thiên nhiên cùng với lòng người dường như hoà hợp, chất chứa nỗi tâm trạng của nhà thơ:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Thiên nhiên có buồn, có mệt mỏi đấy thôi nhưng cũng đầy nội lực, đầy khát khao, mang sức sống vô cùng mãnh liệt. Những đám rêu xiên ngang mặt đất để trường tồn, để tìm lấy sự sống cho chính mình. Những hòn đá vốn nằm yên một chỗ cũng “đâm toạc” chân mây đấy thôi. Sự vật dù có nhỏ bé, có giản đơn nhưng rất phi thường, mạnh mẽ.
Phải chăng đó cũng chính là hình ảnh của một Hồ Xuân Hương phản kháng trước số phận của mình. Nỗi niềm đè nén bấy lâu bỗng vực dậy, vươn lên, thân phận rêu đá phẫn uất trước thời cuộc, quyết liệt đứng dậy đấu tranh vươn lên mọi khổ đau tủi nhục của số phận để nắm bắt lấy nguồn hạnh phúc bé nhỏ xứng đáng có được bấy lâu.
Dù trong bần cùng, khó khăn, đớn đau vẫn có những tia hy vọng len lói, vẫn có nghị lực để vượt qua. Trong nghịch cảnh vẫn ánh lên những phẩm chất vô cùng sáng ngời và tốt đẹp. Nhưng phải làm sao đây khi thực tại đớn đau, phũ phàng đến chán chường, bất công xã hội, cuộc đời ngang trái lại khiến một lần nữa nhân vật trữ tình rơi vào bi kịch:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Một nỗi ngao ngán với đời, với thời gian lại dâng lên trong lòng. Mùa xuân đi rồi lại đến, thời gian dẫu trôi nhưng vẫn cứ xoay vòng đấy thôi. Tuổi xuân cũng thế, qua đi không níu kéo được mà nỗi buồn thì trĩu nặng. Tình yêu thì dang dở, hạnh phúc bé nhỏ, mong manh làm sao không khỏi ngán ngẩm, quạnh hiu cho được.
Cuộc tình đã không được đong đầy, nhặt nhạnh từng “mảnh” vụn vỡ mà phải chia sớt, san sẻ, có đau nào bằng nỗi đau ấy. Trong tình yêu, ai mà chẳng muốn có được trọn vẹn nhất tình cảm của người mình thương, không một ai cao thượng để chia sẻ mối tình của mình cho người khác. Bởi vậy mà Hồ Xuân Hương cũng đã từng viết:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
“Tí con con” trong tình yêu phải san sẻ cho kẻ khác. Biết làm sao được khi đời sống tàn nhẫn như thế, đành cam chịu cho phận khổ duyên mỏng của mình mà thôi.
Bằng ngôn ngữ giản dị, lời thơ chân thành, cảm xúc tự nhiên, Hồ Xuân Hương đã cho thấy được tài năng trong ngòi bút của mình qua việc diễn tả những cảm xúc đa dạng sâu kín của tâm hồn. Đọc bài thơ, em càng cảm phục trước tấm lòng và nghị lực sống của người phụ nữ xưa.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 7)
Có những tác phẩm luôn được gắn liền với tên tuổi của người làm ra nó, chẳng hạn như nhắc đến Nguyễn Khuyến người ta nhớ ngay đến chìm thơ thu nổi tiếng của ông, nhắc đến Nguyễn Du người ta không thể nào không nói đến Truyện Kiều. Và Hồ Xuân Hương cũng thế, nhắc đến nữ thi sĩ này người ta nhớ nhất là chùm thơ Tự tình. Đặc biệt trong đó có bài thơ Tự tình II được nhiều người yêu mến và thích đọc nó. Phải chăng do nó nói lên chính tấm lòng của người phụ nữ kia nên được sự ưu ái của bạn đọc như thế ?
Bài thơ Tự tình II được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, viết theo ngôn ngữ môn thuần việt chính vì thế cấu trúc bài thơ cũng được chia thành bốn phần đề, thực, luận, kết. Mỗi phần gồm hai câu nói lên những tâm tư tình cảm của nhà thơ hay cũng chính là sự đồng cảm với số phận người phụ nữ bấy giờ.
Trong xã hội trọng nam khinh nữ ấy đã có lần Xuân Hương mạnh bạo nói lên câu: “Không chồng có chửa mới ngoan – Có chồng mà chửa thế gian có đầy”. Câu nói ấy không phải lăng loàn mà nó thể hiện sự bênh vực của Xuân Hương với những phụ nữ bị cưỡng hiếp nhục nhã khi bị người ta chê cười chửa hoang. Vì thế bài thơ Tự tình này cũng như đang nói lên tâm trạng của người phụ nữ thời xưa.
Hai câu thơ đầu mở ra một không gian của đêm buông tĩnh mịch, và trước cái đêm tĩnh lặng ấy cái tình của người phụ nữ mới bắt đầu chiếm lấy không gian ấy để mà thổn thức một mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Thời gian đêm khuya thường là lúc mọi cảnh vật chìm vào bóng tối và giấc ngủ thì người phụ nữ kia lại không thể ngủ được. Và chính không gian ấy đã góp phần làm cho tâm trạng tình cảm của người phụ nữ được bộc lộ ra rõ nét hơn. Hai chữ “văng vẳng” thể hiện tiếng động nơi xa xa vọng lại, đó là tiếng trống cầm canh, tiếng trống ấy không làm cho không gian nơi đây thêm phần huyên náo mà nó càng nhấn mạnh sự tịch mịch của đêm tối mà thôi.
Tiếng trống cầm canh thúc giục buổi sáng mai thức dậy còn người phụ nữ của chúng ta thì vẫn còn chưa ngủ được. Có lẽ nàng thao thức với những tâm tư chất chứa trong lòng mà không thể nói với ai, chỉ là những đêm khuya nàng nhớ lại chúng nên không thể nào nhắm mắt nổi. Động từ “trơ” thật hay khi nói lên trạng thái của hồng nhan kia.
Biện pháp tu từ đảo trật tự cú pháp trong câu như nhấn mạnh trạng thái ấy. Trơ có nghĩa là trơ trẽn hay trơ lì, dù hiểu thế nào đi nữa thì đó cũng là trạng thái cô đơn của nhà thơ khi đêm đến. Hồng nhan trơ mình với nước non, người phụ nữ lẻ loi cô đơn khi chịu cảnh làm vợ lẽ. Chẳng thế mà Xuân Hương từng có câu thơ về phận làm lẽ:
“Chém cha cái cảnh lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.”
Sang hai câu thực, nhà thơ tiếp tục thể hiện những suy tư chồng chất của mình. Làm sao có ai hiểu được tâm trạng ấy. Liệu rằng chúng ta có thể thấy được một cảnh tươi đẹp hơn nhưng than ôi không hề có, lại những câu thơ buồn được cất lên:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Trong sự cô đơn chua cay nghiệt ngã của thân phận làm vợ lẽ nhà thơ đã tìm đến rượu. Người ta tìm đến rượu khi vui để chúc tụng để cho hơi men làm cho nó thêm phần vui vẻ hơn, đương nhiên khi buồn người ta cũng tìm đến rượu để giải sầu. Từ xưa đến nay vẫn thế, Hồ Xuân Hương cũng vậy, bà quyết định tìm đến rượu để giải sầu.
Thế nhưng chính hơi men nồng ấm ấy lại không thể làm nguôi đi sự cô đơn, buồn bã của nhà thơ. Càng uống lại càng tỉnh, say nhưng rồi lại tỉnh, như vậy nỗi lòng, nỗi sầu đau của nhà thơ lớn đến mức rượu kia cũng không thể có tác dụng cho bà quên đi. Hình ảnh vầng trăng tượng trưng cho nhan sắc của người thiếu nữ ấy, đó là một vẻ đẹp lung linh huyền ảo, đằm thắm mà dịu dàng.
Thế nhưng vầng trăng kia lại xế bóng khuyết chưa tròn phải chăng đó là sự tương đồng với nhan sắc của nhà thơ. Xuân Hương nghĩ nhan sắc mình ngày càng một tàn đi giống như vầng trăng kia cũng xế bóng thế mà chưa tìm được một tình yêu đôi lứa thật sự. Buồn lại càng thêm buồn.
Tiếp đến hai câu luận, nhà thơ thể hiện nỗi đau của phái đẹp trong xã hội phong kiến mục nát lúc bấy giờ:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Nghệ thuật đảo trật tự cú pháp một lần nữa lại được nhà thơ sử dụng một cách triệt để và hiệu quả. Nào là “xiên ngang” rồi lại “đâm toạc” đó là những động từ mạnh mẽ thể hiện sức sống của những cây rêu, hòn đá kia. Đó là khả năng sinh tồn của những sinh vật nhỏ bé, dường như trong không gian u mịch và thời gian đêm khuya ấy nhà thơ đang ngắm nghía phát hiện những sự vật hiện tượng trong bóng đêm đó.
Tuy nhiên chẳng có lẽ nhà thơ chỉ ngắm nhìn nó thôi sao, tác giả còn gửi thân phận của mình vào từng cảnh vật. Đám rêu kia hay chính là thân liễu đào tơ yếu ớt của phái nữ, hòn đá kia như thể hiện sự nhỏ bé của người phụ nữ trong xã hội lạc hậu lỗi thời. Những động từ mạnh kia giống như sự phá phách của Xuân Hương nó mãnh liệt như khát vọng đi tìm hạnh phúc vậy.
Hai câu thơ cuối bài nhà thơ nêu lên quy luật của tự nhiên vĩnh hằng cái vô hạn đối lập cái hữu hạn trong chính thiên nhiên và con người:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Nếu Xuân Diệu có câu thơ “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn – Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” thì Xuân Hương cũng có hai câu thơ trên nói về sự việc này, quy luật này. Động từ ngán thể hiện sự buồn bã chán nản của Hồ Xuân Hương khi mỗi mùa xuân trôi đi mang theo tuổi tác và vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhà thơ Xuân Diệu thật đúng khi viết:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian”
Tuổi trẻ tuổi thanh xuân là vô cùng hiếm hoi và quý giá vì thế cho nên Xuân Diệu, Xuân Hương hay chính chúng ta đều giữ gìn nó muốn nó mãi mãi tồn tại với mình. Thế nhưng quy luật tự nhiên không thể như thế được, ở đây Xuân Hương cũng vậy, tuổi trẻ của bà chưa tìm được một tình yêu đôi lứa hạnh phúc vậy mà thời gian thì cứ trôi nhanh mang theo những nhan sắc vẻ đẹp của mình.
Xuân này qua đi xuân khác lại đến mỗi một mùa xuân qua đi rồi lại một mùa xuân khác quay lại nó cứ tuần hoàn chảy trôi như thế mặc cho những dự định của con người còn dang dở chưa hoàn thành, mặc cho tuổi trẻ kia không thắm lại thêm lần nữa. Nhà thơ đã khéo sổ cái vô hạn với cái hữu hạn là như vậy. Mùa xuân cứ trôi còn người phụ nữ kia ngày càng thêm già mặc cho nàng chưa tìm được bến bờ hạnh phúc. Thời gian có đợi chờ ai bao giờ và Hồ Xuân Hương của chúng ta vẫn ngậm ngùi san sẻ một mối tình.
Theo quy luật thông thường tình yêu là của hai người nhưng trong xã hội cũ những mảnh tình ấy được san sẻ thành nhiều mảnh, đó là những mảnh ghép tình mà khiến cho người phụ nữ buồn bã. Mảnh tình vốn con con mà lại phải san sẻ cho người khác qua đó ta thấy được xã hội cũ đã chà đạp lên hạnh phúc và tinh thần người phụ nữ như thế nào, trai thì năm thê bảy thiếp con gái thì chỉ vẻn vẹn chung thủy một người chồng.
Như vậy qua đây ta thấy yêu mến Hồ Xuân Hương cũng như quý trọng những người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ phải chịu đựng những niềm đau nỗi buồn của cảnh lấy chồng chung, bị hắt hủi một mình trong đêm dài quạnh quẽ. Qua đó nhà thơ cũng nói về chính bản thân mình, có thể thấy bà đã góp một phần nói lên tiếng nói chua chát đau khổ của người phụ nữ trong xã hội xưa và chính vì thế Xuân Hương là cái tên mà mọi người vô cùng yêu mến vì những vần thơ hay bênh vực người phụ nữ.
Xuân Hương đại diện cho tất cả những người phụ nữ thời trung đại nói lên những điều thầm kín trong lòng mình. Phải chăng đã góp phần làm nên tên tuổi của bà trong nền văn học trung đại Việt Nam? Xuân Hương là cái tên người ta nhớ đến nhiều nhất khi nhắc đến những thi sĩ nữ của văn học trung đại.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 8)
Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của xã hội trung đại xưa. Người đời tôn vinh bà là “Bà Chúa thơ Nôm”. Trong những vần thơ của bà, tất cả thể hiện tiếng nói và sự đồng cảm với thân phận người phụ nữ. Trong đó, tác phẩm “Tự tình” của Hồ Xuân Hương được coi là bài thơ bộc lộ những nổi tủi hờn, cay đắng của người phụ nữ. Đồng thời, bài thơ cũng nói lên nỗi niềm của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Đặc biệt Tự tình 3 là bài thơ nổi tiếng nói lên nỗi lòng “khắc khoải” của người phụ nữ.
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Nếu ở bài Tự tình I mở đầu bằng âm thanh văng vẳng tiếng gà gáy, thì bài tự tình III lại mượn hình thượng một chiếc bách đầy tâm trạng. Chiếc bách chính là biểu tượng của tâm trạng buồn về thân phận nổi lênh đênh. Chiếc bánh chính là người con gái giữa dòng đời, lênh đênh xô đẩy giữa cuộc đời buồn thay của chính mình “giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”.
Theo dòng suy tưởng, ý thơ giữa dòng sông lênh đênh là hình ảnh chiếc bách nổi chìm không biết trôi về đâu, mà đó chính là hình tượng của dòng đời rộng lớn, hình ảnh người phụ nữ góa trẻ cũng không biết nương tựa vào đâu.
Hai câu thơ tiếp theo cũng diễn tả nỗi truân chuyên của người phụ nữ góa trẻ trong thời phong kiến:
Lưng khoang tình nghĩa đường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Tình và nghĩa vẫn dạt dào. Tuy nhiên, sóng gió cứ ập đến và đe dọa đánh vào mạn thuyền. Hai câu thơ trên mang nỗi buồn, sự chán chường về thân phận người phụ nữ. Lòng người muốn bình yên, nhưng gió không khi nào lặng. Đời người đàn bà trong xã hội xưa ít khi được hạnh phúc. Hạnh phúc dường như đã từng nằm trong tầm tay của họ, nhưng nó cũng tan vỡ. Thế là bỗng dưng đứt gánh giữa đường.
Bốn câu là tâm trạng đau buồn của người đàn bà góa bụa còn xuân sắc, hai câu tiếp theo thể hiện sự buông xuôi cho số phận của người phụ nữ:
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến.
Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
Trong ý thơ, người phụ nữ không quan tâm đến việc ai đó cầm lái đưa con tàu vào bến. Dù có để cánh buồm lướt qua thác ghềnh, họ cũng không quan tâm. Động từ “mặc” có thể chỉ ra sự buông xuôi thực sự ở đây. Cuộc sống của người phụ trẻ quá bụa giờ đây giống như con tàu lênh đênh trên biển khơi, ai muốn chèo lái chèo cũng không còn là vấn đề.
Cả câu thơ nói lên sự bất lực của người phụ nữ trong xã hội cổ đại. Ngay cả khi cầu mong mình may mắn, họ cũng không thể thay đổi hoàn cảnh hay số phận của mình. Họ không thể thay đổi sự thật trần trụi của xã hội rằng dòng nước biển khơi lênh đênh quyết định thân phận của người phụ nữ mà không cưỡng lại được.
Hai câu thơ cuối khép lại với những chán chường:
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.
Nhiều động từ thể hiện sự chấp nhận, chẳng hạn như “cam lòng”, “ôm nỗi”. Tác giả tự hỏi liệu có ai sẽ đến với mình? Và nếu có ai đó đến họ cũng sẽ chấp nhận mà không thể cưỡng lại được… Người phụ nữ trong xã hội xưa còn nhỏ bé, bị áp bức, hà khắc thì thân phận của một người góa phụ trẻ còn đáng buồn hơn. Các góa phụ trẻ không còn lựa chọn nào khác, ai muốn đẩy thuyền thì đẩy. Tức là ôm nỗi đau vào lòng.
Hồ Xuân Hương thấu hiểu nỗi đau, nỗi oan, sự bất công của người phụ nữ nên đã dùng thơ để nói lên nỗi lòng của mình. Bà là đại diện cho những người phụ nữ mạnh mẽ, kêu gọi quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và lên án sự bất công, khắc nghiệt của xã hội. Tự tình 3 khắc hoạ hiện thực xã hội phong kiến. Bất công, hà khắc với phụ nữ. Qua đây chúng ta hiểu và thông cảm hơn với những người phụ nữ của xã hội cũ.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 9)
Thơ là thư kí của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn thi sĩ. Nó phản ánh cuộc sống của con người, xã hội, để qua đó người nghệ sĩ bộc bạch nỗi lòng mình. Hay nói cách khác, mỗi bài thơ chính là tiếng hát của trái tim, được thể hiện như một hình thức nghệ thuật cao quý, tinh vi. Trong những nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Xuân Diệu… Hồ Xuân Hương nổi lên như một hiện tượng văn học độc đáo, được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”.
Xuân Hương đem “tiếng lòng” của mình và những người phụ nữ xã hội xưa vào thi ca. Bà có cuộc đời và tình duyên éo le, trắc trở nên đã mượn ngòi bút để cất lên tiếng nói thương cảm cho thân phận người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đã để lại cho văn học Việt Nam nhiều bài thơ giá trị như “Bánh trôi nước”, “Mời trầu”… Tiêu biểu trong đó là “Tự tình II”. Bài thơ đã bộc lộ tâm trạng vừa buồn tủi vừa phẫn uất trước duyên phận éo le và khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn nhà thơ.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mối tình san sẻ tí con con.”
“Tự tình II” nằm trong chùm thơ Tự tình gồm 3 bài. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, nhưng cái đặc sắc ở đây là tác giả không viết bằng chữ Hán mà là chữ Nôm. Bà đã “Việt hóa” thể thơ của người Hoa để bộc lộ suy nghĩ người Việt, tâm hồn người Việt.
Đúng như giáo sư Lê Trí Viễn từng nói: “Dưới ngòi bút của Hồ Xuân Hương, Đường luật mất hẳn cốt cách quý tộc mà ngoan ngoãn cung hiên vần điệu cân xứng của mình cho và sử dụng theo ý muốn”. Nhan đề “Tự tình” của bài thơ là tự bộc lộ, giãi bày tâm trạng, tình cảm của mình, hay nói cách khác, đây chính là sự hé mở nỗi lòng khó nói của tác giả.
Hai câu đề đã mở ra thời gian và không gian nghệ thuật rất đặc biệt:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Đêm đã về khuya, là khi tác giả đang thao thức trong nỗi cô đơn, đợi chờ. Tính từ “văng vẳng” đã được nữ sĩ sử dụng rất tự nhiên, tinh tế, khiến ta cùng lúc nhận ra không gian vừa mênh mông vừa vắng lặng lúc nửa đêm. Ở đây, Xuân Hương đã khéo léo sử dụng bút pháp nghệ thuật quen thuộc của thi pháp cổ điển là lấy động tả tĩnh.
“Trống canh dồn”, tiếng trống canh thôi thúc, gấp gáp, liên hồi thể hiện bước đi dồn dập của thời gian. Tiếng trống của tâm trạng – tâm trạng rối bời vì thời gian trôi qua nhanh có nghĩa là tuổi xuân của nhà thơ cũng qua mau.
Cách cảm nhận bước đi của thời gian qua tiếng trống điểm canh là cách cảm nhận rất đỗi Á Đông. Đó là thời gian tâm lí thấm đậm chất trữ tình. Đêm khuya là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, đó lại cũng là lúc lòng người sâu lắng nhất, là lúc con người đối diện với chính bản thân mình.
Mở đầu bài thơ, ta đã cảm nhận được cái buồn man mác len lỏi trong từng câu chữ được gợi ra từ sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tiếng trống văng vẳng không quá gần mà lại nghe thấy cái nhịp “dồn” vội vàng, gấp gáp… Bởi, đó là tiếng trống gợi sự bước đi của thời gian, gợi sự tàn phá và nó được nghe bằng tâm trạng của người phụ nữ mang tâm thức cô đơn, ám ảnh trước thời gian.
Không gian và thời gian đã được mở ra như thế, rất tài tình và tinh tế. Nhà thơ đã cảm nhận sự bẽ bàng của duyên phận qua câu thơ “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu gây ấn tượng mạnh mẽ. “Trơ” là tủi hổ, là bẽ bàng. Thêm vào đó là hai từ “hồng nhan” là để chỉ sắc đẹp của người con gái, mà lại đi với từ “cái” thì thật rẻ rúng, mỉa mai. Cái hồng nhan “trơ” ra với nước non, với không gian, thời gian. Câu thơ đã gợi lên sự hồng nhan bạc phận. Vì vậy, nỗi xót xa càng thấm thía, đau xót.
Nhịp điệu 1/3/3 cũng là để nhấn mạnh sự bẽ bàng. Trong văn cảnh này, chữ “trơ” không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng mà còn là thách thức. “Từ “trơ” kết hợp với nước non thể hiện sự bền gan, thách đố. Như vậy ở đây ta thấy được bên cạnh nỗi đau Xuân Hương là bản lĩnh Xuân Hương.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Ở hai câu đề, nữ thi sĩ đã tái hiện cho chúng ta thấy một không gian vắng lặng lúc đêm khuya. Trong thời khắc ấy, khi chủ thể trữ tình vẫn còn thao thức chưa ngủ ắt hẳn có điều gì trăn trở. Như thách thức số phận, nhà thơ mượn rượu để quên đi nỗi sầu.
Cụm từ “say lại tỉnh” như là một vòng luẩn quẩn lặp đi lặp lại, tình duyên như trở thành trò đùa, càng say lại càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận. Mong muốn chút niềm an ủi từ thiên nhiên, cảnh vật, tác giả dùng câu thơ tả cảnh ngụ tình. Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa ánh trăng và con người.
Cảnh tình của Xuân Hương được thể hiện qua hình ảnh thơ chứa đựng sự éo le: Trăng sắp tàn mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân đã trôi qua mà tình duyên còn chưa trọn vẹn. Hương rượu để lại vị đắng chát, hương tình thoảng qua để chỉ còn “phận hẩm duyên ôi”. Sự đối lập giữa “say” – “tỉnh”, “khuyết” – “tròn” đã gợi lên cho người đọc cảm giác chông chênh, không xác định được ranh giới giữa không và có, say và tỉnh. Cặp từ trái nghĩa đã giúp ta nhận ra được điều đó giữa hi vọng mong manh về hạnh phúc và hiện thực phũ phàng.
Từ hình ảnh “vầng trăng” nhà thơ bắt đầu chuyển sang mượn thiên nhiên để miêu tả tâm trạng:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”
Hai câu thơ tả cảnh được cảm nhận qua tâm trạng cũng như mang theo nỗi niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật bé nhỏ như đám rêu kia cũng không chịu mềm yếu, khuất phục mà phải xiên ngang mặt đất trỗi dậy mạnh mẽ. Đá đã rắn chắc lại phải cứng cáp hơn để “đâm toạc chân mây”. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của cỏ cây, cũng như sự phẫn uất trong tâm trạng.
Không chỉ vậy những động từ mạnh “xiên, đâm” cũng được kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo thể hiện sự bướng bỉnh, ngang trái. Điều đó đã thể hiện một phong cách Xuân Hương, không chỉ phẫn uất mà còn phản kháng, không khuất phục trước số phận đau khổ, muốn vươn lên bằng chính sức sống mãnh liệt của mình. Với tài năng sử dụng từ ngữ, hình ảnh mạnh mẽ, táo bạo, lấy cảnh ngụ tình, hai câu thơ đã gợi lên cảnh vật sinh động, đầy sức sống. Đó cũng chính là tâm hồn đầy sức sống, cõi lòng nhiều khao khát của Xuân Hương.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Đến hai câu kết, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch hết nỗi cay đắng của đời người. “Ngán” là ngán ngẩm với nỗi đời éo le, với vòng xoáy của số phận. Từ “xuân” nay mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân qua đi rồi lại trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn cây cỏ, hoa lá. Nhưng, với con người thì tuổi xuân qua là không bao giờ quay trở lại.
Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng mang hai ý nghĩa khác nhau. Từ “lại” thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ “lại” thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn.
“Mảnh tình” đã bé lại phải “san sẻ” thành ra ít ỏi, chỉ còn “tí con con” nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ kết thúc trong nỗi xót xa, mỉa mai đến tội nghiệp của “cái hồng nhan” trong xã hội phong kiến xưa. Câu thơ là nỗi lòng của người phụ nữ vừa đau buồn vừa thách thức duyên phận, gắng gượng nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Vì vậy, ý nghĩa nhân văn của bài thơ càng sâu sắc, thấm thía hơn.
Trái tim Xuân Hương đã thức giấc để đập nhịp cùng những tâm hồn của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đối với văn học là quá khứ, nhưng bài học và những cảm xúc mà bà mang lại cho thế hệ ngày nay vẫn tồn tại, hiện hữu. Đó là bài học về sự vượt qua khó khăn, chiến thắng đau khổ. Cuộc đời nữ sĩ Xuân Hương đã hai lần chồng và đều thất bại, nhưng trong tim bà vẫn giữ nguyên nhịp đập hy vọng về hạnh phúc và tình yêu.
Tự tình II là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự bày tỏ nỗi lòng của người phụ nữ lận đận tình duyên nhưng luôn khao khát có được một tình yêu trọn vẹn, xứng đáng với tấm chân tình của mình. Đặc sắc trong bút pháp của nữ sĩ cho thấy tài năng thi ca của tâm hồn, với việc sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, thủ pháp tả cảnh ngụ tình, dùng động từ mạnh kết hợp với đảo ngữ và các từ láy càng làm cho bài thơ trở nên sâu sắc, thấm đẫm cái ý cái tình của người phụ nữ.
Những hình ảnh giản dị với tâm trạng uất ức, xót xa cho số phận hẩm hiu và cũng là bi kịch, khát vọng hạnh phúc của Xuân Hương nói riêng hay chính người phụ nữ phong kiến nói chung. Bài thơ đã truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc: Dù sống trong hoàn cảnh cay nghiệt nhưng con người vẫn cố gắng vươn lên, thay đổi số phận, mong muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tự tình II mà Hồ Xuân Hương để lại sẽ vẫn có giá trị đến muôn đời.
Quả thật, Xuân Hương rất xứng đáng với danh xưng “Bà chúa thơ Nôm” khi đã để lại cho đời những áng văn bất hủ.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 10)
Giai đoạn vào giữ thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 là khoảng thời gian phát triển rực rỡ nhất của văn học trung đại Việt Nam. Thời điểm đó xuất hiện những câu bút rất nổi tiếng và người ta hay nhắc đến nhất là đại thi hào Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều, cùng bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu của nữ sĩ Hồ Xuân Hương đó là bài thơ Tự tình 2. Qua bài thơ, ta mới hiểu tại sao Hồ Xuân Hương lại được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm, là nhà thơ của phụ nữ, chuyên viết về phụ nữ.
Hồ Xuân Hương sống vào giai đoạn lịch sử đất nước có nhiều biến động. Quê gốc ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, nhưng bà chủ yếu sống ở kinh thành Thăng Long. Cuộc đời của Xuân Hương rất truân chuyên, là con vợ lẽ, bản thân cũng đi làm lẽ cho người ta, rồi sớm góa chồng, thậm chí bà góa chồng tận 2 lần.
Bà là người có tài lại có sắc, vừa thông minh vừa bản lĩnh. Về sự nghiệp sáng tác, đến nay chỉ còn lưu lại được 40 bài thơ Nôm, và một số bài thơ chữ Hán chép chung trong tập Lưu Hương ký. Nội dung nổi bật là thể hiện sự cảm thông thương xót đối với thân phận éo le, thiệt thòi của những người phụ nữ trong xã hội xưa.
Đồng thời trân trọng, khẳng định, đề cao, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn cùng ngoại hình, thể hiện cái khát khao được vươn lên trong cuộc sống, được hạnh phúc sâu sắc của người phụ nữ. Về nghệ thuật, bà luôn tìm cách Việt hóa thơ Đường trong các khía cạnh đề tài, hình ảnh, ngôn ngữ.
Tự tình 2 nằm trong chùm thơ Tự tình, với âm điệu gần giống những câu ca dao than thân xưa. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật nên gồm 4 phần, đề, thực, luận, kết. Nội dung chính là mạch tâm trạng của người phụ nữ khi giãi bày tâm tư tình cảm của mình. Trong đó, hai câu đề là nỗi buồn tủi, chán chường số phận, hai câu thực là sự cố gắng trốn chạy, cố quên nhưng lại phải đối mặt với thực cảnh và thực tình của mình để thấm thía hơn.
Hai câu thơ đề đã gợi ra nỗi chán chường, buồn tủi của nhân vật trữ tình bằng việc tái hiện lại bối cảnh thời gian và không gian trong câu khai đề:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”.
Thời gian vào lúc “đêm khuya” khi vạn vật đã chìm vào nghỉ ngơi, con người còn thức đến khuya thì có nghĩa đây là khoảng thời gian để đối diện với chính mình, chìm đắm vào nỗi suy tư, nỗi buồn tẻ, thao thức. Tiếng “trống canh dồn” gợi ra bước đi rất vội vã gấp gáp của thời gian.
Từ đó, ta có thể đọc được tâm trạng con người trong bối cảnh thời gian ấy, đang chất chứa nhiều nỗi niềm, đó là sự bất an, lo lắng, rối bời, hoảng hốt. Bút pháp lấy động tả tĩnh trong từ “văng vẳng”, cho ta cảm nhận được âm thanh từ rất xa vọng lại, chính tỏ đây là một không gian rộng lớn, tĩnh vắng đến lạ thường. Trong không gian ấy, con người trở nên nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng, trơ trọi.
Nỗi niềm buồn tủi chán chường không chỉ được gợi ra trong không gian và thời gian, mà còn được diễn tả một cách rất trực tiếp trong câu thừa đề bằng cách sử dụng những từ ngữ gây ấn tượng mạnh.
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Tác giả nhấn mạnh từ “Trơ” bằng hai biện pháp nghệ thuật kết hợp, đó là nghệ thuật đảo cấu trúc phối hợp với cái nhịp ngắt đầy phá cách 1/3/3. Thông qua đó, tác giả diễn tả nỗi đau và bản lĩnh của Hồ Xuân Hương. “Trơ” có nghĩa là trơ trọi, lạc lõng, tủi hổ, bẽ bàng. “Trơ” cũng còn có nghĩa là trơ lì, chai sạn, ngẩng cao đầu thách thức. Cuối cùng, bà nhấn mạnh khắc sâu hai vế đối lập “cái hồng nhan/nước non”, là cá nhân người phụ nữ với xã hội phong kiến rộng lớn.
Từ đó, ta thấy rõ hơn cái bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa, nhỏ bé, yếu đuối thế mà phải đối mặt với cái xã hội to lớn, đầy rẫy bất công, tưởng chẳng thể ngóc đầu lên được. Cụm từ “cái hồng nhan” là một kết hợp từ rất độc đáo, “hồng nhan” vốn là từ hán việt mang sắc thái trang trọng, thể hiện sự trân trọng với vẻ đẹp của người phụ nữ thế mà lại kết hợp với từ “cái”, một lượng từ thường kết hợp với những từ chỉ đồ vật bé nhỏ, vô tri, vô giác, tầm thường. Gợi ra sự rẻ rúng, coi thường với giá trị của người phụ nữ, thật xót xa, buồn tủi.
Hồ Xuân Hương đã cất lên tiếng than cho những thân phận má đào ở xã hội xưa, góp thêm một tiếng nói trong trào lưu nhân đạo của văn học cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Đến hai câu thực đó là nỗi đau thân phận nổi trôi giữa say và tỉnh, dường như Hồ Xuân Hương đã ngồi nhẫn tàn canh, ngồi một mình trong nỗi cô đơn, để làm bạn với chén rượu cay nồng, để đối mặt với đêm khuya lẻ bóng với vầng trăng lạnh đang soi.
“Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn”
Câu thơ chứa đựng biết bao nỗi niềm ngao ngán, nhà thơ uống rượu để cho say, cho quên đi nỗi sầu khổ nhân thế, nhưng trái ngang sao cứ “say lại tỉnh”, gợi cái vòng luẩn quẩn, bế tắc, lặp đi lặp lại. Bà muốn say nhưng rượu cũng chẳng khiến bà say mãi, rồi cũng có lúc phải tỉnh lại. Bà lại phải đối mặt với nỗi cô đơn, với cái nỗi lẻ loi, phải đối diện với đêm khuya mịt mù, thứ mà bà muốn say để trốn tránh. Và khi tỉnh ra rồi lại càng thấm thía hơn cái nỗi cô đơn, trơ trọi mà mình phải gánh chịu.
Câu “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn” trước hết là ngoại cảnh, sau cũng tâm cảnh. Bởi nó bộc lộ được cảm xúc của nhà thơ, tạo nên cái sự đồng nhất giữa trăng và người. Ta nhận thấy hình ảnh “Vầng trăng bóng xế” có nghĩa là trăng đêm đã sắp tàn, tuổi xuân đã sắp trôi qua hết, nhưng trái ngang sao vẫn “khuyết chưa tròn”, tình duyên của nhà thơ vẫn chưa trọn vẹn, còn lắm lận đận, truân chuyên nhiều bề.
Hai câu thơ thực mang dáng dấp của một lời than vãn, nghe đâu đây có tiếng thở dài. Nhà thơ như than cho số phận éo le và cũng là than thay cho những người phụ nữ khác có cùng chung cảnh ngộ với bà. Lời than ấy vừa đau đớn, vừa xót xa, như châm kim vào lòng người đọc, một nỗi đau thấu tâm can.
Như vậy chỉ qua hai câu thơ đề và hai câu thơ luận của Tự tình 2 ta đã thấy được phần nào nỗi cô đơn, lẻ loi, nỗi xót xa, đau đớn trước cái số phận nghiệt ngã lắm truân chuyên của Hồ Xuân Hương, đồng thời cũng là của những người phụ nữ thời bấy giờ. Những dòng thơ ngắn ngủi còn cho thấy cái bản lĩnh mạnh mẽ của một người phụ nữ tuy cuộc đời lắm nhiêu khê, nhưng vẫn dám thách thức với xã hội, đồng thời còn thể hiện cái tài năng thơ văn tuyệt diệu, thâm sâu của mình.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 11)
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương được biết đến là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ với tiếng nói cảm thương, tiếng nói khẳng định, tiếng nói tự ý thức về bản thân đầy bản lĩnh. “Bà chúa thơ Nôm” có chùm thơ “Tự tình” bao gồm ba bài, là tiếng nói của thân phận, là những khát khao, đau buồn của kiếp người. Trong đó, bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện rõ tâm trạng, thái độ của nữ sĩ: vừa buồn đau, vừa phẫn uất trước nghịch cảnh éo le cùng khát vọng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.
Bốn câu thơ mở đầu bài thơ đã cho thấy hoàn cảnh và tâm trạng của nữ sĩ:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Câu thơ gợi nên sự vắng lặng, tĩnh mịch của đêm khuya trong âm điệu buồn thương. Tiếng trống canh giữa đêm khuya cho thấy cảm nhận về bước đi dồn dập của thời gian. Trong thời gian và không gian đó, tác giả cay đắng nhận ra sự bẽ bàng của thân phận, được thể hiện qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ tinh tế, độc đáo.
Những từ ngữ giàu giá trị biểu cảm đã được sử dụng để thể hiện tâm trạng: “Trơ” được đặt đầu câu kết hợp với biện pháp đảo nhấn mạnh cảm giác tủi hổ, chai lì. Hai chữ “hồng nhan” lại đi với từ “cái” đặc trưng cho phong cách nghệ thuật vừa trữu tình vừa trào phúng của tác giả, gợi lên ý thức về sự rẻ rúng, mỉa mai của thân phận. Bi kịch về tâm trạng càng được xoáy sâu thêm.
Câu thơ: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” vừa miêu tả ngoại cảnh vừa diễn tả tâm cảnh, thể hiện sự thống nhất giữa thiên nhiên và con người. “Vầng trăng bóng xế” (trăng sắp tàn) mà vẫn “khuyết chưa tròn” trở thành hình ảnh ẩn dụ, nhấn mạnh hai lần bi kịch của cuộc đời nữ sĩ: tuổi xuân trôi qua mà nhân duyên vẫn không trọn vẹn, thậm chí chỉ là sự dang dở.
Ý thức sâu sắc về bi kịch tình duyên, tác giả không chỉ cảm thấy bẽ bàng, tủi hổ mà còn phẫn uất:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những nét chấm phá về rêu và đá. “Rêu” và “đá” là những sinh vật vô tri vô giác, bé nhỏ nhưng vẫn không chịu khuất phục mà vẫn hiên ngang tồn tại một cách mạnh mẽ: “xiên ngang mặt đất”, “đâm toạc chân mây”. Biện pháp đảo ngữ đưa những động từ mạnh lên đầu câu đã làm nổi bật sức sống mãnh liệt của cỏ cây, cũng chính là ẩn dụ cho tâm trạng phẫn uất muốn vượt lên trên nghịch cảnh éo le của tác giả.
Nữ sĩ tuy nhận ra sự ngang trái, éo le của phận mình nhưng không hề cam chịu mà luôn muốn vùng vẫy, vượt lên trên hoàn cảnh bằng những hành động phản kháng. Bài thơ mở đầu bằng cảm thức về thời gian: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”, và kết thúc cũng bằng cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng chán chường, buồn tủi:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Hai câu thơ tiếp tục thể hiện tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ của tác giả. “Ngán” mang sắc thái chỉ sự chán ngán, ngán ngẩm. Từ “xuân” được điệp lại hai lần mang những sắc thái ngữ nghĩa khác nhau: vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ tuổi xuân. Mùa xuân của đất trời luôn lặp đi lặp lại theo quy luật tuần hoàn: xuân, hạ, thu, đông nhưng với con người thì tuổi xuân chỉ đến một lần duy nhất, và không bao giờ trở lại.
Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng được sử dụng với hai sắc thái ý nghĩa khác nhau: từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ “lại” thứ hai có nghĩa là quay trở lại, gợi lên sự tuần hoàn, lặp lại. Tất cả đã làm nổi bật ý thức sâu sắc về bi kịch của bản thân và nỗi chán chường khi phải sống trong cuộc sống eo le, ngang trái.
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tăng tiến ở câu thơ “Mảnh tình- san sẻ- tí- con con” nhấn mạnh bi kịch tình duyên éo le của nhân vật trữ tình. Mảnh tình vốn nhỏ bé lại còn không trọn vẹn, thậm chí là phải “san sẻ”. Câu thơ đã gợi lên hoàn cảnh đầy ngang trái của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa khi phải sống trong cảnh chung chồng, và mang thân đi làm lẽ.
Bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện một cách sâu sắc, mãnh liệt khát vọng sống, khát vọng tự do và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn một người phụ nữ vừa dịu dàng, đằm thắm vừa mạnh mẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua tài năng trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng của “Bà Chúa thơ Nôm”.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 12)
Hồ Xuân Hương là nữ sĩ tài ba ở nước ta vào cuối thế kỉ XVIII — đầu thế kỉ XIX. Ngoài tập “Lưu Hương kí” bà còn để lại khoảng 50 bài thơ Nôm, phần lớn là thơ đa nghĩa, vừa có nghĩa thanh vừa có nghĩa tục. Một số bài thơ trữ tình đằm thắm, thiết tha, buồn tủi… thể hiện sâu sắc thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, với bao khao khát sống và hạnh phúc tình duyên.
Chùm thơ “Tự tình” phản ánh tâm tư tình cảm của Hồ Xuân Hương, của một người phụ nữ lỡ thì quá lứa, duyên phận hẩm hiu, … Bài thơ này là bài thứ hai trong chùm thơ “Tự tình” ba bài.
Thi sĩ Xuân Diêu trong bài “Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm” đã viết: “Bộ ba bài thơ trữ tình này cùng với bài “Khóc vua Quang Trung” của công chúa Ngọc Hân làmị một khóm riêng biệt, làm tiếng lòng chân thật của người đàn bà tự nói về tình cảm bản thân của đời mình trong văn học cổ điển Việt Nam…” Ông lại nhận xét thêm về đỉệ thơ, giọng thơ: “…trong bộ ba bài thơ tâm tình này, bên cạnh bài thơ vẩn “ênh hẻ nênh và bài thơ vần “om” oán hận, thì bài thơ vần “on” này mong đợi, chon von”.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,
Vầng trăng bống xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”.
Hai trong ba bài thơ, nữ sĩ đều nói về đêm khuya, canh khuya. “Tự tình” bà vi “Tiếng gà vãng vẳng gáy trên bom – Oán hận trông ra khắp mọi chòm”. Ở bài thơ này cũng vậy, bà tỉnh dậy lúc canh khuya, hay thao thức suốt đêm khuya, tâm trạng ngổn gang phiền muộn.
Âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống từ một chòi canh xa đưa lại như thúc giục thời gian trôi nhanh, tuổi đời người đàn bà trôi nhanh: “Canh khuya văng vẳng trống canh dồn”. “Hồng nhan” là sắc mặt hồng, chỉ người phụ nữ. “Trơ” nghĩa là lì ra, trơ ra, chai đi, mất hết cảm giác. “Nước non”: chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội.
Câu thơ: “Trơ cái hồng nhan với nước non” nói lên một tâm trạng: con người đau buồn nhiều nỗi, nay nét mặt thành ra trơ đi trước cảnh vật, trước cuộc đời, tựa như gỗ đá, mất hết cảm giác. Nỗi đau buồn đã đến cực độ. Từ “cái” gắn liền với chữ “hồng nhan” làm cho giọng thơ trĩu xuống, làm nổi bật cái thân phận, cái duyên phận, cái duyên số đã quá hẩm hiu rồi. Ta có cảm giác tiếng trống dồn canh khuya, thời gian như cơn gió lướt qua cuộc đời, lướt qua số phận và thân xác nhà thơ.
Con người đang than thân trách phận ấy đã có một thời son trẻ tự hào: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”, có phẩm hạnh một “tấm lòng son” trọn vẹn, lại tài năng, thế mà nay đang trải qua những đêm dài cay đắng. Qua đó, ta thấy cái xã hội phong kiến buổi ấy chính là tác nhân đã làm xơ xác, khô héo phận hồng nhan.
Đằng sau hai câu đề là những tiếng thở dài ngao ngán. Cố vẫy vùng để thoát ra, bươn ra khỏi cái nghịch cảnh nhưng đâu dễ! Tiếp theo là hai câu thực:
“Chén rượu hương đưa say lợi tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Nghệ thuật đối rất thần tình: “Chén rượu” với “vầng trăng”, trên thì “hương đưa”, dưới lại có “bóng xế”, đặc biệt ba chữ “say lại tỉnh” vời “khuyết chưa tròn” đăng đối, hô ứng nhau làm nổi bật bi kịch về thân phận người đàn bà dang dở, cô đơn. Muốn mượn chén rượu để khuây khoả lòng mình, nhưng vừa nâng chén rượu lên môi mùi hương phả vào mặt, đưa vào mũi.
Tưởng uống rượu cho say để quên đi bao nỗi buồn, nhưng càng uống càng tỉnh. “Say lại tỉnh” để rồi tỉnh lại say, cái vòng luẩn quẩn ấy về duyên phận của nhiều phụ nữ đương thời, trong đó có Hồ Xuân Hương như một oan trái. Buồn tủi cho thân phận, bao đêm dài thao thức đợi chờ, nhưng tuổi đời ngày một “bóng xể”.
Bao hi vọng đợi chờ. Đến bao giờ vầng trăng mới “tròn”? Đến bao giờ hạnh phúc đến trong tám tay, được trọn vẹn, đầy đủ? Sự chờ mong gắn liển với nỗi niềm khao khát. Càng cô đơn càng chờ mong, càng chờ mong càng đau buồn, đó là bi kịch của những người đàn bà quá lứa lỡ thì, tình duyên ngang trái, trong đó có Hồ Xuân Hương.
Hai câu trong phần luận, tác giả lấy cảnh để ngụ tình. Đây là hai câu thơ tả cảnh “lạ lùng” được viết ra giữa đêm khuya trong một tâm trạng chán ngán, buồn tủi:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.
Ý thơ cấu trúc tương phản để làm nổi bật cái dữ dội, cái quyết liệt của sự phản kháng. Từng đám rêu mềm yếu thế mà cũng “xiên ngang mặt đất” được! Chỉ có rải rác “đá mấy hòn” mà cũng có thể “đâm toạc chân mây” thì thật kì lạ! Hai câu thơ, trước hết cho ta thấy thiên nhiên tiềm ẩn một sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên mạnh mẽ vô cùng.
Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ mang màu sắc, đường nét, hình khối mà còn có gương mạt, có thái độ, có hành động, cũng “xiên ngang…”, cũng “đâm toạc”… mọi trở ngại, thế lực. Xuân Hương vốn tự tin và yêu đời. Con người ấy đang trải qua nhiều bi kịch vẫn cố gắng gượng với đời. Phản ứng mạnh mẽ, dữ dội nhưng thực tại vẫn chua xót.
Đêm đã về khuya, giữa cái thiên nhiên dào dạt, bốn bề mịt mùng bao la ấy, người đàn bà hẩm hiu càng cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Chẳng thế mà trong bài “Tự tình I”, nữ sĩ đã buồn tủi viết:
“Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”.
Cả nỗi đau trần thế như dồn tụ lại đáy lòng một người đàn bà cô đơn. Khao khát được sống trong hạnh phúc, được làm vợ, làm mẹ như mọi người đàn bà khác. Nhưng “hồng nhan bạc mệnh”! Đêm càng về khuya, người đàn bà không thể nào chợp mắt được, trằn trọc, buồn tủi, thân đơn chiếc, thiếu thốn yêu thương, xuân đi rồi xuân trở về, mà tình yêu chỉ được “san sẻ tí con con”, phải cam chịu cảnh ngộ:
“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Xuân đi qua, xuân trở lại, nhưng với người phụ nữ thì “mỗi năm mỗi tuổi như đuổi xuân đi”… Chữ “ngán” nói lên nỗi đau, nỗi buồn tủi của người đàn bà lỡ thì quá lứa, đang trải qua sự mòn mỏi, đợi chờ. Tình duyên, tình yêu như bị tan vỡ, tan nát thành nhiều “mảnh”, thế mà chua chát thay chỉ được “san sẻ tí con con”.
Câu thơ là tiếng than thân trách phận. Phải chăng đây là lần thứ hai Hồ Xuân Hương chịu cảnh làm lẽ? Tinh đã vỡ ra thành “mảnh” lại còn bị “san sẻ”, đã “tí” lại “con con”. Mỗi chữ như rưng rưng những giọt khóc. Câu thơ này, tâm trạng này được nữ sĩ nói rõ thêm trọng bài “Lấy chồng chung”:
“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Năm thì mười hoạ hay chăng chớ,
Môt tháng đôi lẩn có cũng không!”.
Tóm lại, “Tự tình” là lời tự than, tự thương xót, buồn tủi cho duyên số, duyên phận hẩm hiu của mình. Càng thao thức cô đơn, càng buồn tủi. Càng buồn tủi, càng khao khát được sống trong hạnh phúc trọn vẹn, đầy đủ. Thực tại nặng nề, cay đắng bủa vây, khiến cái hồng nhan phơi ra, “trơ” ra với nước non, với cuộc đời. Người đọc vô cùng cảm thông với nỗi lòng khao khát sống, khao khát hạnh phúc của nữ sĩ và người phụ nữ trong xã hội cũ. Giá trị nhân bản là nội dung sâu sắc nhất của chùm thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương.
Cách dùng từ rất đặc sắc, độc đáo thể hiện phong cách nghệ thuật Hồ Xuân Hương: “trơ cái hồng nhan”, “say lại tỉnh”, “khuyết chưa tròn”, “xiên ngang”, “đâm toạc”, “ngán nỗi”, “lại lại”, “tí con con”, … Chữ dùng sắc nhọn, cảnh ngụ tinh, diễn tả mọi đau khổ bi kịch về duyên số. Qua bài thơ này, ta càng thấy rõ Hồ Xuân Hương đã đưa ngôn ngữ dân gian, tiếng nói đời thường vào lời ca, bình dị hoá và Việt hoá thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bà xứng đáng là “Bà chúa thơ Nôm” của nền thi ca dân tộc.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 13)
Thân phận lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết thời hiện đại. Tình yêu và hanh phúc gia đình là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Nó góp phần thế hiện rõ tinh thần nhân đạo trong văn học. Chùm thơ Tự tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ trong vàn học Việt Nam – Hồ Xuân Hương.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng nghe tiếng trống cầm canh báo thời khắc đi qua. Canh khuya là thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Nàng cảm thấy tiếng trống canh báo hiệu thời gian khắc khoải mong ngóng một điều gì. Nhưng càng mong lại càng không thấy. Tiếng trống canh đang dồn dập kia chính là thông báo về thời gian tâm trạng của nàng. Nó thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải, thảng thốt thiếu tự tin, đầy lo âu và tuyệt vọng của người đàn bà.
Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng bẽ bàng của người vợ cô đơn chờ mong chồng mà chồng không đến bằng một chữ trơ – trơ trọi, trơ cái hồng nhan, cái thân phận phụ nữ với nước non, với đời, với tình yêu.
Hai câu tiếp theo, Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng tuyệt vọng của người vợ chờ chồng.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Câu thơ ẩn chủ từ, chỉ thây hành động và trạng thái diễn ra. Chén rượu hương đưa nghĩa là uống rượu giải sầu cho quên sự đời, nhưng say rồi lại tỉnh, tức là uống rượu vẫn không quên được mối sầu! Vầng trăng bóng xế trong câu bốn có nghĩa là đêm đã gần tàn, nhưng trăng chưa tròn mà đã xế, thể hiện cảm xúc về hạnh phúc chưa tròn đầy. Vầng trăng bóng xế cũng có thể có hàm ý chỉ tuổi người đã luống mà hạnh phúc chưa đầy.
Nếu như bốn câu thơ đầu tiên diễn tả cái tâm trạng chờ đợi mòn mỏi có phần tuyệt vọng, buông xuôi, thì ở hai câu năm và sáu, Hồ Xuân Hương đã bất ngờ vẽ ra hình ảnh một sự cảm khái. Cái đám rêu kia còn được bóng trăng xế xiên ngang mặt đất soi chiếu tới. Ta có thể tưởng tượng: mấy hòn đá kia còn được ánh trăng đâm toạc chân mây để soi đến. Hoá ra thân phận mình cô đơn không bằng được như mấy thứ vô tri vô giác kia!
Đây không nhất thiết phải là cảnh thực, mà có thể chỉ là hình ảnh trong tâm tưởng. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc có ý tiếp cái mạch văn trũng bóng xế ở câu trên. Nhưng các sự vật, hình ảnh thiên nhiên ở đây diễn ra trong dáng vẻ khác thường, do việc tác giả sử dụng những từ ngữ chỉ hành động có tính chất mạnh mẽ, dữ dội:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hon.
Hai câu thơ này cũng có thể hiểu là đảo ngữ: rêu từng đám xiên ngang mặt đất, còn đá mấy hòn vươn lên đâm toạc chân mây. Và đó không phải là hình ảnh của ngoại cảnh, mà là hình ảnh của tâm trạng, một tâm trạng bị dồn nén, bức bối muốn đập phá, muốn làm loạn, muôn được giải thoát khỏi sự cô đơn, chán chường. Nó thể hiện cá tính manh mẽ, táo bạo của chính Hồ Xuân Hương.
Những dồn nén, bức bôi, đập phá của tâm trạng nhà thơ bất ngờ bộc phát, và cũng bất ngờ lắng dịu, nhường chỗ cho sự trở lại của nỗi buồn chán và bất lực, chấp nhận và cam chịu. Càu thơ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại chứa đựng biết bao nhiêu là thời gian và sự chán ngán kéo dài. Cuộc đời cứ trôi đi, thời gian cứ trôi đi, tình yêu và hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút.
Tác giả đã đi, tình yêu mà hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã dùng từ mảnh tinh để nói cái tình bé như mảnh vỡ. Lại nói san sẻ – Chắc là san sẻ với chồng, san sẻ với vợ cả chăng? Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, như một tổng kết, như một lời than thở thầm kín của người phụ nữ có số phận lẽ mọn về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội xưa.
Bài thơ là lời than thở cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn, thể hiện thái độ bi quan, chán nản cùa tác giả và thân kiếp thiệt thòi của con người.
Đặc sắc nhất về nghệ thuật của bài thơ là sử dụng những từ ngữ và hình ảnh gây ấn tượng mạnh. Tác giả chủ yếu sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với sắc thái đặc tả mạnh, bằng những động từ chỉ tình thái: dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc, đi, lại lại, san. sẻ, … và tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, khuyết, tròn… để miêu tả những cảm nhận về sự đời và số phận.
Hình ảnh trong bài thơ gây ấn tượng rất mạnh bởi nghệ thuật đặc tả. Nhà thơ thường đẩy đối tượng miêu tả tới độ cùng cực của tình trạng mang tính tạo hình cao. Nói về sự cô đơn, trơ trọi đến vô duyên của người phụ nữ thì: Trơ cái hồng nhan với nước non. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc đều là những hành động mạnh mẽ như muốn tung phá, đầy sức sông thể hiện những cảm xúc trẻ trung.
Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống trong cô đơn, mòn mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống trong hạnh phúc vợ chồng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem lại.
Bài thơ bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi bất hạnh của người phụ nữ, phê phán gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất lực và cam chịu của con người trước cuộc sống hiện tại.
Bài thơ diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát vọng đáng trân trọng, một tâm trạng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội xưa. Những mơ ước hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, đó là bi kịch không thể giải toả. Vì thế giọng điệu của bài thơ vừa ngậm ngùi vừa ai oán. Yêu cầu giải phóng con người, giải phóng tình cảm chỉ có thể tìm được lời giải đáp dựa trên cơ sở của những điều kiện lịch sử – xã hội mới mà thôi.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 14)
Hồ Xuân Hương được mệnh danh là Bà Chúa Thơ Nôm. Trong văn học Việt Nam, bà được coi là một hiện tượng độc đáo bởi nhà thơ là phụ nữ nhưng viết về phụ nữ rất đặc sắc. Trong dòng thơ Nôm của bà, hình ảnh người phụ nữ hiện lên mang vẻ đẹp và khát vọng hạnh phúc. Bài thơ Tự tình II – một bài thơ trong chùm thơ ba bài của Hồ Xuân Hương thể hiện tâm trạng vừa buồn tủi, phẫn uất trước thân phận éo le, bất hạnh, qua đó thể hiện khát khao được hạnh phúc.
Mở đầu bài ” Tự tình II” là nỗi buồn tủi tác giả trong khoảng thời gian đêm khuya:
” Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Trong khoảng thời gian khuya, tối lẽ ra con người sẽ cảm thấy cô đơn, bé nhỏ. Xuân Hương cảm thấy cô đơn trước thời gian đang chảy trôi đó. Tác giả sử dụng lại mô tip “văng vẳng”, nếu ở Tự tình I là câu thơ ” Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom” thì ở đây là “văng vẳng trống canh dồn”. Nó gợi lên sự gấp gáp liên tiếp của tiếng trống, nó gợi sự dồn dập của thời gian làm cho tâm trạng của con người thêm rối bời.
trong lúc đó thì tác giả cảm thấy ” trơ cái hồng nhan” đó là tâm trạng tủi hổ, bẽ bàng. Nó giống như cảnh Kiều bị bỏ rơi một mình ở lầu Ngưng Bích vậy. Còn “hồng nhan” lại chỉ vẻ đẹp của người thiếu nữ đi với ” cái” lại mang nghĩa rẻ rúng, khỉnh bỉ nhiều hơn. Câu thơ thể hiện tâm trạng bẽ bàng của tác giả trước không gian và thời gian đêm khuya.
Trong tâm trạng ấy, người phụ nữ tìm đến chén rượu:
” Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Mảnh trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Một bi kịch xảy ra khi trăng sắp tàn “bóng xế” mà lại “khuyết chưa tròn” để cho ta thấy rằng tuổi xuân của người phụ nữ sắp qua đi, sắp hết mà sao nhân duyên lại không trọn vẹn. Người phụ nữ ấy tìm đến chén rượu đê giải sầu để quên đi thực tại bẽ bàng này mà sao đắng cay quá “chén rượu hương đưa” hương rượu có vị đắng chát mà hương tình vẫn còn đó. ” say lại tỉnh” là hình ảnh gợi vòng luẩn quẩn tuần hoàn để họ càng thấy đau đớn hơn. Đọc câu thơ, ta lại nhớ đến tâm trạng của Kiều trong ” Nỗi thương mình”
” Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Xuân Hương đau đớn, ê trề hơn khi tình rượu là lúc bóng xế trăng tàn.
Sau đó, tác giả thểhiện nỗi phẫn uất của mình tan tỏa khắp trời đất ” Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám, Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn” Hình ảnh thiên nhiên trong hai câu thơ trên vô cùng đặc biệt. Chúng là những sinh vật nhỏ bé như đám rêu xanh kia mà cũng vô cùng cứng cỏi. Nó mọc xiên ngang mặt đất. Đá thì rắn chắc để ” đâm toạc chân mây”.
Biện pháp đảo ngữ đảo động từ lên trước “Xiên” ” đâm toạc” để thấy sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ co nhỏ bé mà cũng rất ngang bướng, rắn rỏi. Chính câu thơ này đã thể hiện bản lĩnh của Xuân Hương rất mạnh mẽ. Nhưng rồi bà vẫn không thể thoát khỏi quy luật của trời đất:
” Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Bà cảm thấy chán ngán, ngán ngẩm trước nỗi đời bạc bẽo, éo le này. Bởi “xuân đi xuân lại lại” một vòng quy luật của tạo hoa. Từ ” xuân” ở đây mang hai nghĩa, nó không phải chỉ mùa xuân mà nó còn chỉ tuổi xuân. Mùa xuân thì cứ tuần hoàn trôi mỗi năm thì tuổi xuân của người phụ nữ cũng vậy.
Hai từ “lại lại” cũng rất đặc biệt, ” lại” đầu tiên chỉ thêm một lần nữa, còn ” lại” thứ hai lại là trở lại. Nghịch cảnh ấy lại đối lập với ” mảnh tình san sẻ” đã mảnh tình rồi lại phải phải san sẻ thành ít ỏi, chỉ còn lại ” tí con con”. Câu thơ đã thể hiện nỗi đau đớn vô cùng của thân phận làm lẽ. Nó thể hiện nỗi đau của người phụ nữ xưa khi có số phận éo le như vậy
Tự tình II là một bài thơ đặc sắc trong chùm thơ ba bài của Hồ Xuân Hương. Bài thơ mang nỗi buồn của người phụ nữ nhưng nó cũng mang sự cứng cỏi, mạnh mẽ đấm chất Bà Chúa Thơ Nôm. Bài thơ cũng thể hiện niềm khát khao hạnh phúc, khát vọng sống của người phụ nữ xưa.
Cảm nhận về bài thơ Tự Tình (Mẫu 15)
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Đối với người Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ một nhà thơ nào. Bà là “Chúa thơ Nôm” là con của Hồ Phi Diễn (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và một người thiếp quê ở Hải Dương”.
Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục.
Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, “là nhà thơ độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc”. Chùm thơ “Tự tình” gồm 3 bài có thể nói là một trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của Hồ Xuân Hương. Trong đó bài Tự tình 1 thể hiện sâu sắc nỗi buồn, là lời tâm sự của nhà thơ về số phận lẻ loi và niềm khát khao được hạnh phúc, được người quân tử yêu thương.
Mở đầu bài thơ, hai cậu đề gợi ra một không gian bao la, mờ mịt từ bom thuyền ở nơi dòng sông đến khắp mọi chòm xóm, thôn làng. Người phụ nữ thao thức suốt những canh dài. Tiếng gà gáy “văng vẳng” trên bom thuyền từ xa đưa tới. Đêm dài chuyển canh, mịt mùng vắng lặng mới nghe thấy tiếng gà gáy “văng vẳng” như thế.
Nghệ thuật lấy động (tiếng gà gáy) để diễn tả cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài nơi làng quê đã góp phần làm nổi bật tâm trạng “oán hận” của người phụ nữ thao thức suốt những canh trường. Nàng ngồi dậy, lắng tai nghe tiếng gà gáy sang canh, rồi “trông ra” màn đêm mịt mùng. Màn đêm như bủa vây người phụ nữ trong nỗi buồn cô đơn, oán hận:
“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông xa khắp mọi chòm”.
Hai câu 3, 4 trong phần thực, tác giả tạo ra hai hình ảnh “mõ thảm” và “chuông sầu” đốì nhau, hô ứng nhau, cực tả nỗi đau khổ, sầu tủi của riêng mình đang sống trong cảnh ngộ quá lứa lỡ thì, trắc trở trong tình duyên, vần thơ đầy ám ảnh. Phủ định để khẳng định tiếng “cốc” của “mõ thảm”, tiếng “om” của “chuông sầu”. Nữ sĩ đã và đang trải qua những đêm dài thao thức và cô đơn, đau cho nỗi đau của đời mình cô đơn như “mõ thảm”, chẳng ai khua “mà cũng cốc”, tủi cho nỗi tủi của riêng mình lẻ bóng chăn đơn như “chuông sầu” chẳng đánh “cớ sao om”.
Nỗi oán hận, đau buồn sầu tủi như thấm vào đáy dạ, tê tái xót xa, như đang toả rộng trong không gian “khắp mọi chòm”, như kéo dài theo thời gian của những đêm dài. “Om” là tiếng tượng thanh, tiếng chuông sầu, cũng là gợi tả nỗi thảm sầu tê tái, đau đớn đến cực độ. Câu hỏi tu từ đã làm cho giọng thơ thảm thiết, xoáy sâu vào lòng người như một lời than, như một tiếng thở dài tự thương mình trong nỗi buồn ngao ngán:
“Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”
Có biết thời con gái, Hồ Xuân Hương đã có những vần thơ tươi xinh, phơi phới như “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” (Bánh trôi nước), “Hai hàng chân ngọc duỗi song song” (Đánh đu),… ta mới thấy hết nỗi thảm sầu về bi kịch cô đơn của nữ sĩ được diễn tả tê tái trong hai câu trong phần thực này.
Lời than tự tình trong cô đơn được khơi sâu trong phần luận, để mà “rầu rĩ” thêm, giận hờn thêm cho duyên phận hẩm hiu:
“Trước nghe” đối với “sau giận”; “tiếng” hô ứng với “duyên”-, “rầu rĩ” là tâm trạng đối với “mõm mòm” là trạng thái. “Trước nghe nhưng tiếng…”, là những tiếng gì? – Tiếng của miệng thế? Hay tiếng gà văng vẳng gáy, tiếng “chuông sầu”, tiếng “mõ thảm” đáng “cốc”, đang “om” trong lòng mình?
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Giữa cảnh khuya thao thức, càng nghe càng thêm “rầu rĩ”, buồn tủi. Giữa lúc tàn canh thao thức, càng nghe càng “giận”, càng hờn về tình duyên bẽ bàng. Tình duyên của mình được ví với trái cây, không còn “má hây hây gió” (Xuân Diệu) nữa mà đã chín “mõm mòm”, nghĩa là quá chín, đã nẫu đi! “Duyên mõm mòm” là duyên phận hẩm hiu, quá lứa lỡ thì!
Trong câu thơ như có nhiều lệ, nhiều tiếng thở dài, vừa than thân trách phận, vừa buồn tủi về con đường tình duyên. Tiếng thơ tự tình của Hồ Xuân Hương là lời than tự thương mình, đồng thời thương cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ đã luống tuổi mà vẫn cô đơn lẻ bóng: “Giật mình mình lại thương mình xót xa” (Truyện Kiều)
Phần kết xuất hiện một tứ thơ rất lạ. Như một sự thách đố với số phận, với duyên số. Nữ sĩ vẫn bướng bỉnh trước bi kịch cô đơn của mình khi “duyên để mõm mòm” rồi:
“Tài tử văn nhân ai đó tá!
Thân này đâu đã chịu già tom!”
Vừa nghi vấn, vừa cảm thán, hai câu kết đầy nghịch lí. Nữ sĩ như vẫn còn tin vào tài năng của mình có thể làm xoay chuyển được duyên phận, vẫn hi vọng tìm được bạn đời trăm năm trong đám tài tử văn nhân. Câu 6 nữ sĩ viết: “Sau giận vì duyên để mõm mòm”, câu 8 bà lại viết: “Thân này đâu đã chịu già tom!”. “Già tom” nghĩa là rất già, già hẳn! Đó là một cách “nói cứng” thể hiện một thái độ “bướng bỉnh”, một bản lĩnh cứng cỏi trước ngang trái cuộc đời.
Đọc chùm thơ “Tự tình” cũng như tìm hiểu cuộc đời của nữ sĩ, về mặt tình duyên, ta thấy hạnh phúc tình yêu chưa một lần mỉm cười với Xuân Hương. Bài thơ “Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyên Hầu” (Nhớ người cũ, viết gửi cần chánh học sĩ Nguyễn Du – tước hầu) như một bóng quang âm soi tỏ một “mảnh tình riêng” của “bà chúa thơ Nôm”, giúp ta cảm nhận bài thơ “Tự tình” này:
“Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gởi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son cùng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu mấy,
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong”
Bài thơ “Tự tình” gieo vần “om”, 5 vần thơ, vần nào cũng hóc hiểm, tài tình: “bom-chòm-tìm-mòm-tom”. Những vần thơ hóc hiểm ấy, một mặt thể hiện bút pháp điêu luyện, mặt khác đã tạo nên nhạc điệu, âm điệu như thắt, như nén lại cái “oán”, cái “hận”, cái “ngang bướng” của một tâm trạng; một cá tính rất Xuân Hương.
Duyên số và hạnh phúc tình yêu của người phụ nữ là nội dung đầy ám ảnh đối với mỗi chúng ta khi đọc bài thơ “Tự tình” này của Xuân Hương. “Tự tình” là tiếng than thân trách phận cho nỗi buồn cô đơn, về bi kịch tình yêu, là niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ. Vì lẽ đó, “Tự tình” mang giá trị nhân bản sâu sắc.
Xem thêm các văn mẫu Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:
Phân tích bút pháp lãng mạn trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân
Phân tích lòng yêu cái đẹp của đoạn văn tả cảnh Huấn Cao cho chữ?
Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao
Phân tích tâm trạng của Chí Phèo khi bị Thị Nở từ chối sống chung
Phân tích quá trình bị tha hóa của nhân vật Chí Phèo
Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình Hồ Xuân Hương ❤️️ 15 Mẫu Hay ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Tác Phẩm Nổi Tiếng Của Hồ Xuân Hương.
Dàn Ý Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình Hồ Xuân Hương
Lập dàn ý cảm nhận về bài thơ Tự tình Hồ Xuân Hương là bước đầu tiên và không thể thiếu trong quá trình làm bài. Tham khảo dưới đây cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 dàn ý chi tiết:
I. Mở bài: Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
- Sơ lược về nhà thơ Hồ Xuân Hương và phong cách sáng tác.
- Giới thiệu bài thơ Tự tình II với nội dung về ước mơ và hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam.
II. Thân bài: Cảm nhận về bài thơ “Tự tình II”
a. Hai câu đề:
- Tình cảnh của người thiếu phụ, cô đơn trong đêm vắng lặng, đợi chờ chồng đến mức chán chường.
- Nỗi phiền muộn bởi đêm tối quá tĩnh mịch quạnh hiu khiến con người ta tủi phận, buồn rầu, mà với Hồ Xuân Hương đó còn là sự bẽ bàng của số phận là thứ thiếp.
- Phản ánh số phận bất hạnh, éo le của người phụ nữ trong xã hội xưa.
- Khóc thương, đớn đau, chua chát cho cái cuộc đời hồng nhan của mình, cũng như của rất nhiều nhiều những phụ nữ ngoài kia, hạnh phúc đối với họ trở thành thứ xa xỉ, bởi ở cái xã hội này làm gì có hạnh phúc cho phụ nữ đâu!
b. Hai câu thực:
- “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”: Cái vòng luẩn quẩn không hồi kết, càng trốn tránh nỗi cô đơn, khốn khổ của mình thì mỗi lúc tỉnh lại Hồ Xuân Hương lại càng thấm thía hơn về cuộc đời hồng nhan bạc phận của mình.
- “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn”: Phản ánh chính hoàn cảnh của người thiếu phụ đã sắp đi qua hết thời thanh xuân, son sắc nhưng tình duyên đã 2 lần mà vẫn còn lận đận trái ngang.
- Lời than vãn về số phận chung của những người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc, nhất phu đa thê, người phụ nữ chưa bao giờ thực sự tìm được hạnh phúc cho riêng mình dù họ đã cố gắng và khao khát biết bao nhiêu.
c. Hai câu luận:
- Ý chí, cũng như khao khát cháy bỏng được thoát khỏi sự kìm kẹp của chế độ phong kiến, đòi quyền công bằng, khao khát hạnh phúc của người phụ nữ.
- Bà không muốn sống trong cái cảnh bị rẻ rúng coi thường, không muốn chịu kiếp chồng chung, muốn được tự do thể hiện cá tính và vui sống cuộc đời do mình làm chủ chứ không phải phụ thuộc vào ai khác.
d. Hai câu kết:
- Ý thức được sự chảy trôi của thời gian, thanh xuân của phụ nữ có hạn, chưa tìm được hạnh phúc đích thực thì tuổi già ập đến thực sự là nỗi chán ngán vô cùng tận.
- Hạnh phúc của người phụ nữ ở chế độ phong kiến không được trọn vẹn, vừa ít lại còn phải chia năm xẻ bảy, khiến họ vô cùng đau khổ và chán chường với lòng ghen và sự cô quạnh.
III. Kết bài: Khẳng định về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Nêu một số cảm nhận của bản thân về bài thơ “Tự tình II”
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Nghị Luận Tự Tình 🍀 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Mở Bài Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình 2
Gợi ý mở bài cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 sẽ giúp các em học sinh có cách bắt đầu bài viết hấp dẫn, để lại nhiều ấn tượng với người đọc. Từ đó đạt kết quả cao cho bài viết cảm nhận về bài thơ Tự Tình.
Xã hội phong kiến xưa luôn tôn thờ chế độ “Trọng nam, khinh nữ” khiến cho cuộc đời và số phận của những người phụ nữ vô cùng bấp bênh, đau khổ. Họ không có quyền lựa chọn hạnh phúc cho bản thân, luôn phải sống dưới cái bóng quá lớn của khuôn khổ “Tam tòng, tứ đức”. Tuy nhiên, trước số phận nghiệt ngã ấy, có những người chọn cách im lặng, cam chịu, nhưng cũng có những người dám đứng lên để đấu tranh cho khát khao hạnh phúc của bản thân.
Hồ Xuân Hương là một người như vậy. Bà là một trong số rất ít nhưng nhà văn nữ ở thời đại này nhưng ở Hồ Xuân Hương lại nổi bật một cá tính riêng không trộn lẫn. Là một “nhà văn phụ nữ viết về phụ nữ”, Hồ Xuân Hương đã dám cất lên tiếng nói để bộc lộ tâm sự, suy tư thầm kín. Có lẽ cũng bởi cuộc đời long đong lận đận của mình mà các sáng tác của Hồ Xuân Hương chủ yếu nói về người phụ nữ, nhất là những người mang thân phận làm lẽ. Bài thơ “Tự tình II” như nói lên tất cả
Không chỉ sáng tác thơ chữ Hán, mà các sáng tác thơ Nôm của bà cũng vô cùng phong phú. Chính vì vậy, “ông hoàng thơ tình Xuân Diệu” đã ưu ái gọi bà là “bà chúa thơ Nôm”. Bài thơ “Tự tình II” nằm trong chum ba bài “ Tự tình”, thể hiện rõ tài năng cũng như phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương. Đó là sự hòa quyện giữa một chất thơ trữ tình cùng sự táo bạo, dí dỏm. Bài thơ “Tự tình II” chan chứa nỗi đau thầm kín, bộc lộ cảnh ngộ, thân phận và nhân cách, bản lĩnh của Hồ Xuân Hương.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình 2 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình 2 – Mẫu 1
Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 là một nội dung trọng tâm cần ôn tập kỹ lưỡng trong chương trình học. Tham khảo bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tự tình dưới đây:
Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nữ có cái tôi vô cùng độc đáo của văn học trung đại Việt Nam. Bà đã để lại cho thế hệ mai sau nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó phải kể đến bài thơ Tự tình II.
Xã hội xưa, con người thân phận nhỏ bé thường chịu nhiều bất công, đặc biệt là người phụ nữ. Họ phải cúi mình nhún nhường trước những hủ tục, những quan niệm lạc hậu để rồi bị vùi dập trong kiếp sống bấp bênh, nổi trôi vô định, chịu nỗi đau về thể xác, bị giày vò về tình thần. Trong họ, sự cô đơn, tủi phận luôn bủa vây, song sâu thẳm nơi đáy lòng, họ vẫn ngời lên những vẻ đẹp đáng trân trọng. Bài thơ Tự tình là lời tâm sự với những nỗi buồn và khát khao, là tiếng lòng của bao người phụ nữ trong xã hội đương thời.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Khi màn đêm buông xuống, bóng tối ùa về bất chợt là lúc lòng người dễ chìm trong mớ cảm xúc hỗn độn nhất. Lúc này đây, nhân vật trữ tình cũng như thế, “đêm khuya” – khoảnh khắc của nỗi buồn, của sự cô đơn chiếm chỗ. Tiếng trống canh dồn càng làm cho sự tĩnh mịch, vắng lặng của đêm tối thêm thấm đượm. Giữa tiếng trống canh lòng người càng khắc khoải, phận hồng nhan “trơ” giữa cuộc đời, nỗi chơ vơ tột cùng, trống trải đến khôn nguôi.
Nỗi buồn có thể được chia sẻ nếu có một ai đồng cảm cùng mình, chịu nghe mình giãi bày, chịu lắng nghe những tổn thương, khổ đau của mình. Nhưng ở đây, nhân vật trữ tình lại chỉ một mình đơn độc, không có lấy một ai san sẻ, đành lấy rượu làm tri kỉ, tìm đến rượu để quên hết những muộn phiền:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Men rượu có thể làm người say, quên đi tức thời nhưng rồi khi tỉnh nỗi đau vẫn còn đó, chẳng thể vơi, cuối cùng, sự cô đơn vẫn cứ bám víu lấy thân phận bé nhỏ. Kiếp hẩm hiu của người phụ nữ như vầng trăng khuyết, dù bóng đã xế mà chẳng thể “tròn”, chẳng thể trọn vẹn một mối tình chung thủy, sắt son. Duyên phận lỡ làng, cuộc đời trái ngang, còn gì đau khổ hơn như thế, số phận cứ như trêu ngươi người phụ nữ vậy.
Nhưng dù rằng có khó khăn, dù rằng bao tồi tệ xảy đến thì người phụ nữ vẫn không hề từ bỏ. Sâu thẳm, họ vẫn mang trong mình sức sống kiên cường, mạnh mẽ để vượt thoát khỏi những cơ cực đang chịu đựng từng ngày hay chí ít cũng để vơi đi những tù túng, chán chường.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Những đám rêu nhỏ bé kia cũng dũng cảm “xiên ngang” cả mặt đất để vươn mình đón lấy ánh sáng mặt trời. Những hòn đá nhỏ nhoi cũng “đâm toạc” cả trời mây để nhận lấy tự do. Tất cả những hình ảnh của sự vật thiên nhiên ấy chính là hình ảnh ẩn dụ cho người phụ nữ với sức sống phi thường, mạnh mẽ. Dù cho những bất công, đau khổ có vùi dập họ từng ngày thì họ vẫn gắng gượng để vượt thoát với ước mơ tự do, hạnh phúc và bình yên.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Xuân của tạo hoá, đi rồi đến, vòng tuần hoàn của vũ trụ chẳng thể đổi thay. Thời gian thì trôi đi nhưng có những điều chẳng thể nào thay đổi. Chữ “Ngán” đặt đầu câu càng diễn tả sự chán chường của nhân vật trữ tình, tuổi xuân cứ ngày một thêm vậy mà mong cầu một cuộc tình trọn vẹn cũng chẳng thể có.
Thanh xuân để chờ đợi một hạnh phúc đúng nghĩa cũng chẳng chạm tới, đến “mảnh tình” – mối tình mỏng manh, nhỏ nhoi, ít ỏi cũng phải san sẻ cho người. Như thế, sao không thể ngán ngẩm, sao không khỏi chán chường, sao không thể không cô đơn cho được.
Quan niệm phong kiến xưa: “Trai năm thê bảy thiếp, gái chuyên chính một chồng” đã khiến cho bao người phụ nữ phải ngập chìm trong khổ đau, gặm nhấm nỗi cô đơn từng ngày, từng giờ, từng đêm vắng. Là người phụ nữ sống trong xã hội lúc bấy giờ, cũng chịu chung cảnh ngộ như thế mà Hồ Xuân Hương đã viết nên bài thơ nói lòng mình mà cũng nói hộ lòng người.
Bài thơ khiến ta không khỏi xót xa, thương cảm cho kiếp sống mong cầu hạnh phúc mòn mỏi và chịu đựng khổ đau của bao phụ nữ xưa. Đồng thời, càng căm phẫn một xã hội bất công vùi dập tự do, hạnh phúc của con người.
Bài thơ Tự tình II có nỗi buồn, có cô đơn đấy nhưng bên trong mỗi lời thơ đều chất chứa một sức sống mãnh liệt của một tâm hồn khao khát hạnh phúc, một tấm lòng khát khao tự do và thiết tha với cuộc đời. Tác phẩm đã chạm đến người đọc bởi những cảm xúc chân thực từ lối viết của một trái tim giàu yêu thương.
Xem nhiều hơn 🌹 Thơ Hồ Xuân Hương 🌹 Trọn Bộ Bà Chúa Thơ Nôm

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình II Nâng Cao – Mẫu 2
Văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tự tình II nâng cao sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Thơ là thư kí của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn thi sĩ. Nó phản ánh cuộc sống của con người, xã hội, để qua đó người nghệ sĩ bộc bạch nỗi lòng mình. Hay nói cách khác, mỗi bài thơ chính là tiếng hát của trái tim, được thể hiện như một hình thức nghệ thuật cao quý, tinh vi. Trong những nhà thơ tiêu biểu như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Xuân Diệu… Hồ Xuân Hương nổi lên như một hiện tượng văn học độc đáo, được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”.
Xuân Hương đem “tiếng lòng” của mình và những người phụ nữ xã hội xưa vào thi ca. Bà có cuộc đời và tình duyên éo le, trắc trở nên đã mượn ngòi bút để cất lên tiếng nói thương cảm cho thân phận người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đã để lại cho văn học Việt Nam nhiều bài thơ giá trị như “Bánh trôi nước”, “Mời trầu”… Tiêu biểu trong đó là “Tự tình II”. Bài thơ đã bộc lộ tâm trạng vừa buồn tủi vừa phẫn uất trước duyên phận éo le và khát vọng hạnh phúc trong tâm hồn nhà thơ.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mối tình san sẻ tí con con.”
“Tự tình II” nằm trong chùm thơ Tự tình gồm 3 bài. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, nhưng cái đặc sắc ở đây là tác giả không viết bằng chữ Hán mà là chữ Nôm. Bà đã “Việt hóa” thể thơ của người Hoa để bộc lộ suy nghĩ người Việt, tâm hồn người Việt.
Đúng như giáo sư Lê Trí Viễn từng nói: “Dưới ngòi bút của Hồ Xuân Hương, Đường luật mất hẳn cốt cách quý tộc mà ngoan ngoãn cung hiên vần điệu cân xứng của mình cho và sử dụng theo ý muốn”. Nhan đề “Tự tình” của bài thơ là tự bộc lộ, giãi bày tâm trạng, tình cảm của mình, hay nói cách khác, đây chính là sự hé mở nỗi lòng khó nói của tác giả.
Hai câu đề đã mở ra thời gian và không gian nghệ thuật rất đặc biệt:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Đêm đã về khuya, là khi tác giả đang thao thức trong nỗi cô đơn, đợi chờ. Tính từ “văng vẳng” đã được nữ sĩ sử dụng rất tự nhiên, tinh tế, khiến ta cùng lúc nhận ra không gian vừa mênh mông vừa vắng lặng lúc nửa đêm. Ở đây, Xuân Hương đã khéo léo sử dụng bút pháp nghệ thuật quen thuộc của thi pháp cổ điển là lấy động tả tĩnh.
“Trống canh dồn”, tiếng trống canh thôi thúc, gấp gáp, liên hồi thể hiện bước đi dồn dập của thời gian. Tiếng trống của tâm trạng – tâm trạng rối bời vì thời gian trôi qua nhanh có nghĩa là tuổi xuân của nhà thơ cũng qua mau.
Cách cảm nhận bước đi của thời gian qua tiếng trống điểm canh là cách cảm nhận rất đỗi Á Đông. Đó là thời gian tâm lí thấm đậm chất trữ tình. Đêm khuya là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, đó lại cũng là lúc lòng người sâu lắng nhất, là lúc con người đối diện với chính bản thân mình.
Mở đầu bài thơ, ta đã cảm nhận được cái buồn man mác len lỏi trong từng câu chữ được gợi ra từ sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tiếng trống văng vẳng không quá gần mà lại nghe thấy cái nhịp “dồn” vội vàng, gấp gáp… Bởi, đó là tiếng trống gợi sự bước đi của thời gian, gợi sự tàn phá và nó được nghe bằng tâm trạng của người phụ nữ mang tâm thức cô đơn, ám ảnh trước thời gian.
Không gian và thời gian đã được mở ra như thế, rất tài tình và tinh tế. Nhà thơ đã cảm nhận sự bẽ bàng của duyên phận qua câu thơ “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Từ “trơ” được đảo lên đầu câu gây ấn tượng mạnh mẽ. “Trơ” là tủi hổ, là bẽ bàng. Thêm vào đó là hai từ “hồng nhan” là để chỉ sắc đẹp của người con gái, mà lại đi với từ “cái” thì thật rẻ rúng, mỉa mai. Cái hồng nhan “trơ” ra với nước non, với không gian, thời gian. Câu thơ đã gợi lên sự hồng nhan bạc phận. Vì vậy, nỗi xót xa càng thấm thía, đau xót.
Nhịp điệu 1/3/3 cũng là để nhấn mạnh sự bẽ bàng. Trong văn cảnh này, chữ “trơ” không chỉ là tủi hổ, bẽ bàng mà còn là thách thức. “Từ “trơ” kết hợp với nước non thể hiện sự bền gan, thách đố. Như vậy ở đây ta thấy được bên cạnh nỗi đau Xuân Hương là bản lĩnh Xuân Hương.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Ở hai câu đề, nữ thi sĩ đã tái hiện cho chúng ta thấy một không gian vắng lặng lúc đêm khuya. Trong thời khắc ấy, khi chủ thể trữ tình vẫn còn thao thức chưa ngủ ắt hẳn có điều gì trăn trở. Như thách thức số phận, nhà thơ mượn rượu để quên đi nỗi sầu.
Cụm từ “say lại tỉnh” như là một vòng luẩn quẩn lặp đi lặp lại, tình duyên như trở thành trò đùa, càng say lại càng tỉnh, càng cảm nhận nỗi đau thân phận. Mong muốn chút niềm an ủi từ thiên nhiên, cảnh vật, tác giả dùng câu thơ tả cảnh ngụ tình. Câu thơ là ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh, tạo nên sự đồng nhất giữa ánh trăng và con người.
Cảnh tình của Xuân Hương được thể hiện qua hình ảnh thơ chứa đựng sự éo le: Trăng sắp tàn mà vẫn “khuyết chưa tròn”. Tuổi xuân đã trôi qua mà tình duyên còn chưa trọn vẹn. Hương rượu để lại vị đắng chát, hương tình thoảng qua để chỉ còn “phận hẩm duyên ôi”. Sự đối lập giữa “say” – “tỉnh”, “khuyết” – “tròn” đã gợi lên cho người đọc cảm giác chông chênh, không xác định được ranh giới giữa không và có, say và tỉnh. Cặp từ trái nghĩa đã giúp ta nhận ra được điều đó giữa hi vọng mong manh về hạnh phúc và hiện thực phũ phàng.
Từ hình ảnh “vầng trăng” nhà thơ bắt đầu chuyển sang mượn thiên nhiên để miêu tả tâm trạng:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.”
Hai câu thơ tả cảnh được cảm nhận qua tâm trạng cũng như mang theo nỗi niềm phẫn uất của con người. Những sinh vật bé nhỏ như đám rêu kia cũng không chịu mềm yếu, khuất phục mà phải xiên ngang mặt đất trỗi dậy mạnh mẽ. Đá đã rắn chắc lại phải cứng cáp hơn để “đâm toạc chân mây”. Biện pháp đảo ngữ trong hai câu luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của cỏ cây, cũng như sự phẫn uất trong tâm trạng.
Không chỉ vậy những động từ mạnh “xiên, đâm” cũng được kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo thể hiện sự bướng bỉnh, ngang trái. Điều đó đã thể hiện một phong cách Xuân Hương, không chỉ phẫn uất mà còn phản kháng, không khuất phục trước số phận đau khổ, muốn vươn lên bằng chính sức sống mãnh liệt của mình. Với tài năng sử dụng từ ngữ, hình ảnh mạnh mẽ, táo bạo, lấy cảnh ngụ tình, hai câu thơ đã gợi lên cảnh vật sinh động, đầy sức sống. Đó cũng chính là tâm hồn đầy sức sống, cõi lòng nhiều khao khát của Xuân Hương.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Đến hai câu kết, Hồ Xuân Hương đã bộc bạch hết nỗi cay đắng của đời người. “Ngán” là ngán ngẩm với nỗi đời éo le, với vòng xoáy của số phận. Từ “xuân” nay mang hai nghĩa, vừa là mùa xuân, vừa là tuổi xuân. Mùa xuân qua đi rồi lại trở lại với thiên nhiên, với muôn nghìn cây cỏ, hoa lá. Nhưng, với con người thì tuổi xuân qua là không bao giờ quay trở lại.
Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng mang hai ý nghĩa khác nhau. Từ “lại” thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, từ “lại” thứ hai nghĩa là trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến, nhấn mạnh vào sự nhỏ bé dần, làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn.
“Mảnh tình” đã bé lại phải “san sẻ” thành ra ít ỏi, chỉ còn “tí con con” nên càng xót xa, tội nghiệp. Câu thơ kết thúc trong nỗi xót xa, mỉa mai đến tội nghiệp của “cái hồng nhan” trong xã hội phong kiến xưa. Câu thơ là nỗi lòng của người phụ nữ vừa đau buồn vừa thách thức duyên phận, gắng gượng nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Vì vậy, ý nghĩa nhân văn của bài thơ càng sâu sắc, thấm thía hơn.
Trái tim Xuân Hương đã thức giấc để đập nhịp cùng những tâm hồn của người phụ nữ. Hồ Xuân Hương đối với văn học là quá khứ, nhưng bài học và những cảm xúc mà bà mang lại cho thế hệ ngày nay vẫn tồn tại, hiện hữu. Đó là bài học về sự vượt qua khó khăn, chiến thắng đau khổ. Cuộc đời nữ sĩ Xuân Hương đã hai lần chồng và đều thất bại, nhưng trong tim bà vẫn giữ nguyên nhịp đập hy vọng về hạnh phúc và tình yêu.
Tự tình II là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự bày tỏ nỗi lòng của người phụ nữ lận đận tình duyên nhưng luôn khao khát có được một tình yêu trọn vẹn, xứng đáng với tấm chân tình của mình. Đặc sắc trong bút pháp của nữ sĩ cho thấy tài năng thi ca của tâm hồn, với việc sử dụng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, thủ pháp tả cảnh ngụ tình, dùng động từ mạnh kết hợp với đảo ngữ và các từ láy càng làm cho bài thơ trở nên sâu sắc, thấm đẫm cái ý cái tình của người phụ nữ.
Những hình ảnh giản dị với tâm trạng uất ức, xót xa cho số phận hẩm hiu và cũng là bi kịch, khát vọng hạnh phúc của Xuân Hương nói riêng hay chính người phụ nữ phong kiến nói chung. Bài thơ đã truyền tải ý nghĩa nhân văn sâu sắc: Dù sống trong hoàn cảnh cay nghiệt nhưng con người vẫn cố gắng vươn lên, thay đổi số phận, mong muốn một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tự tình II mà Hồ Xuân Hương để lại sẽ vẫn có giá trị đến muôn đời.
Quả thật, Xuân Hương rất xứng đáng với danh xưng “Bà chúa thơ Nôm” khi đã để lại cho đời những áng văn bất hủ.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình 2 Học Sinh Giỏi – Mẫu 3
Tài liệu văn cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 học sinh giỏi sẽ mang đến những cảm nhận và phân tích chuyên sâu các tầng nghĩa trong tác phẩm. Tham khảo bài văn cảm nhận về bài thơ Tự tình đặc sắc dưới đây:
Văn học trung đại Việt Nam đánh dấu sự thành công của các nhà thơ nổi tiếng với những tác phẩm để lại dấu ấn vô cùng mạnh mẽ. Nguyễn Du có Đoạn trường tân thanh, Tú Xương có Thương vợ, Nguyễn Khuyến có chùm thơ về thu.
Và có một nữ thi sĩ nổi bật lên giữa những chùm quả ngọt ấy đó là Hồ Xuân Hương – bà chúa thơ Nôm của nền văn học nước nhà. Bà đã để lại cho người đời sau những bài thơ nói lên tiếng nói của người phụ nữ, cất lên tiếng thơ tố cáo, đấu tranh cho quyền phụ nữ vô cùng sâu sắc. Đặc biệt, Tự tình II là một tác phẩm vô cùng xuất sắc thể hiện được tài năng và tư tưởng của bà.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Cũng như bao người phụ nữ trong xã hội cũ, Hồ Xuân Hương cũng phải chịu kiếp chồng chung. Bà từng cất lên tiếng thơ ai oán:
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.”
Có lẽ vì vậy mà bà hiểu hơn những nỗi lòng của người phụ nữ chung số phận. Giữa đêm khuya tĩnh mịch, khi mà mọi vật, mọi người đang chìm trong giấc ngủ thì người phụ nữ kia vẫn chưa thể nhắm mắt vì nỗi lòng thổn thức của chính mình. Tiếng trống điểm canh vẫn vang vọng giữa cảnh khuya, khiến lòng người khôn nguôi nghĩ về cuộc đời, về số phận trái ngang.
Từng khoảng khắc thời gian trôi qua dường như chỉ là bao nỗi trằn trọc của kẻ ” hồng nhan”. Người phụ nữ ấy một mình trơ trọi giữa khoảng không, đang mong đợi chút gì như thứ hạnh phúc nhỏ bé lên lỏi vào trong tâm khảm. Nỗi cô cô đơn, tủi hổ tràn ngập, bao vây quanh thân người con gái, dòng tâm trạng bẽ bàng, chịu đựng, chán chường trước cuộc đời.
Chao ơi! Sao đời người phụ nữ khổ cực đến vậy, một mình chịu đựng, một mình thôi. Duyên phận hẩm hiu, tình người nông cạn, ai hiểu nỗi lòng lúc này. Càng khát khao hạnh phúc bao nhiêu thì nỗi cô đơn càng tràn ngập bấy nhiêu. Nỗi lòng đành mượn rượu tâm tình để quên đi hết tất thảy những khổ đau ngập tràn:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Nhưng rượu có làm quên đi được nỗi sầu dằng dặc đang bủa vây tâm hồn người phụ nữ uống, càng tỉnh lại càng đau. Hương rượu càng khiến lòng người thêm đau khổ, càng gợi nỗi niềm muôn thuở chia xa. Làm sao để quên đi niềm đau ấy, làm sao để với lấy chút bình yên trong trái tim mình. Chẳng thể nào quên được nỗi tuyệt vọng vô bờ bến, nhìn lên vầng trăng mong tìm chút đồng cảm, mong vẻ đẹp tròn đầy của ánh trăng mang chút hy vọng cho niềm hạnh phúc.
Vậy mà vầng trăng cũng vô tình khuyết đi như hạnh phúc chẳng thể cập bờ viên mãn. Vầng trăng bao giờ mới tròn vẹn, hạnh phúc đôi ta bao giờ mới tuyệt diệu và bình yên, bao giờ mới thôi khao khát đợi chờ, bao giờ mới ngừng đau khổ , cô đơn. Nỗi buồn không thể ngừng, càng ngập trong men rượu nỗi buồn càng tàn toả, cảnh vật cũng mang vẻ sầu tư.
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” chứ, thiên nhiên mang nỗi buồn nhân thế:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Nhưng dù buồn trong nó vẫn mang sức mạnh ngang tàn. Có nhỏ bé, có yếu ớt những vẫn mạnh mẽ vươn lên. Đó là một sức sống mãnh liệt của thiên nhiến ẩn dụ cho sự đấu tranh giành lấy hạnh phúc của người phụ nữ. Họ không cam chịu, không khuất phục trước số phận. Tình duyên lận đận nhưng không vì thế mà chấp nhận nỗi cô đơn, vẫn muốn đấu tranh để giành lấy hạnh phúc của mình.
Trong lòng những người phụ nữ vẫn ngập tràn hy vọng, ngập tràn niềm tin ở tương lai về hạnh phúc và tình yêu, mong chờ nhưng tháng ngày bình yên. Nhưng đời vốn trớ trêu, chút hy vọng ấy lại bị nghịch cảnh quấn lấy một lần nữa. Thực tại phũ phàng, cuộc đời lại bế tắc, chán nản:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Xuân thì vẫn cứ thế tuần hoàn, vòng xoay của số phận cũng cứ tuần hoàn như thế. Mà tình yêu, hạnh phúc vẫn cứ dở dang, chật hẹp. Duyên đôi lứa đã ít ỏi, nhỏ bé, từng mảnh vụn vỡ nhỏ nhoi mà vẫn đành chấp nhận san sẻ, chia xớt cho người.
Từng lời thơ thốt ra chứa chan niềm xót xa, cay đắng. Có chua xót, có đăng cay, có niềm tin, có quyết liệt, có cô đơn, có thất vọng và cả tủi hờn. Tiếng thơ đượm buồn và chứa chan khát khao mãnh liệt niềm hạnh phúc trong xã hội đầy rẫy bất công. Lối biểu cảm tinh tế theo từng dòng tâm trạng đã khiến người đọc thổn thức theo từng lời chữ thốt ra, qua đó ta thêm yêu thương và trân trọng vẻ đẹp, tấm lòng của những người phụ nữ, thêm yêu, thêm quý hồn thơ của nữ sĩ tài ba Hồ Xuân Hương.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Bánh Trôi Nước 🌹 15 Bài Hay

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình 2 4 Câu Đầu – Mẫu 4
Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 4 câu đầu là một dạng đề nghị luận văn học phổ biến đối với tác phẩm này. Dưới đây là bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tự tình để các em học sinh cùng tham khảo.
Giai đoạn vào giữ thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 là khoảng thời gian phát triển rực rỡ nhất của văn học trung đại Việt Nam. Thời điểm đó xuất hiện những câu bút rất nổi tiếng và người ta hay nhắc đến nhất là đại thi hào Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều, cùng bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu của nữ sĩ Hồ Xuân Hương đó là bài thơ Tự tình 2. Qua bài thơ, ta mới hiểu tại sao Hồ Xuân Hương lại được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm, là nhà thơ của phụ nữ, chuyên viết về phụ nữ.
Hồ Xuân Hương sống vào giai đoạn lịch sử đất nước có nhiều biến động. Quê gốc ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, nhưng bà chủ yếu sống ở kinh thành Thăng Long. Cuộc đời của Xuân Hương rất truân chuyên, là con vợ lẽ, bản thân cũng đi làm lẽ cho người ta, rồi sớm góa chồng, thậm chí bà góa chồng tận 2 lần.
Bà là người có tài lại có sắc, vừa thông minh vừa bản lĩnh. Về sự nghiệp sáng tác, đến nay chỉ còn lưu lại được 40 bài thơ Nôm, và một số bài thơ chữ Hán chép chung trong tập Lưu Hương ký. Nội dung nổi bật là thể hiện sự cảm thông thương xót đối với thân phận éo le, thiệt thòi của những người phụ nữ trong xã hội xưa.
Đồng thời trân trọng, khẳng định, đề cao, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn cùng ngoại hình, thể hiện cái khát khao được vươn lên trong cuộc sống, được hạnh phúc sâu sắc của người phụ nữ. Về nghệ thuật, bà luôn tìm cách Việt hóa thơ Đường trong các khía cạnh đề tài, hình ảnh, ngôn ngữ.
Tự tình 2 nằm trong chùm thơ Tự tình, với âm điệu gần giống những câu ca dao than thân xưa. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật nên gồm 4 phần, đề, thực, luận, kết. Nội dung chính là mạch tâm trạng của người phụ nữ khi giãi bày tâm tư tình cảm của mình. Trong đó, hai câu đề là nỗi buồn tủi, chán chường số phận, hai câu thực là sự cố gắng trốn chạy, cố quên nhưng lại phải đối mặt với thực cảnh và thực tình của mình để thấm thía hơn.
Hai câu thơ đề đã gợi ra nỗi chán chường, buồn tủi của nhân vật trữ tình bằng việc tái hiện lại bối cảnh thời gian và không gian trong câu khai đề:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”.
Thời gian vào lúc “đêm khuya” khi vạn vật đã chìm vào nghỉ ngơi, con người còn thức đến khuya thì có nghĩa đây là khoảng thời gian để đối diện với chính mình, chìm đắm vào nỗi suy tư, nỗi buồn tẻ, thao thức. Tiếng “trống canh dồn” gợi ra bước đi rất vội vã gấp gáp của thời gian.
Từ đó, ta có thể đọc được tâm trạng con người trong bối cảnh thời gian ấy, đang chất chứa nhiều nỗi niềm, đó là sự bất an, lo lắng, rối bời, hoảng hốt. Bút pháp lấy động tả tĩnh trong từ “văng vẳng”, cho ta cảm nhận được âm thanh từ rất xa vọng lại, chính tỏ đây là một không gian rộng lớn, tĩnh vắng đến lạ thường. Trong không gian ấy, con người trở nên nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng, trơ trọi.
Nỗi niềm buồn tủi chán chường không chỉ được gợi ra trong không gian và thời gian, mà còn được diễn tả một cách rất trực tiếp trong câu thừa đề bằng cách sử dụng những từ ngữ gây ấn tượng mạnh.
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Tác giả nhấn mạnh từ “Trơ” bằng hai biện pháp nghệ thuật kết hợp, đó là nghệ thuật đảo cấu trúc phối hợp với cái nhịp ngắt đầy phá cách 1/3/3. Thông qua đó, tác giả diễn tả nỗi đau và bản lĩnh của Hồ Xuân Hương. “Trơ” có nghĩa là trơ trọi, lạc lõng, tủi hổ, bẽ bàng. “Trơ” cũng còn có nghĩa là trơ lì, chai sạn, ngẩng cao đầu thách thức. Cuối cùng, bà nhấn mạnh khắc sâu hai vế đối lập “cái hồng nhan/nước non”, là cá nhân người phụ nữ với xã hội phong kiến rộng lớn.
Từ đó, ta thấy rõ hơn cái bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa, nhỏ bé, yếu đuối thế mà phải đối mặt với cái xã hội to lớn, đầy rẫy bất công, tưởng chẳng thể ngóc đầu lên được. Cụm từ “cái hồng nhan” là một kết hợp từ rất độc đáo, “hồng nhan” vốn là từ hán việt mang sắc thái trang trọng, thể hiện sự trân trọng với vẻ đẹp của người phụ nữ thế mà lại kết hợp với từ “cái”, một lượng từ thường kết hợp với những từ chỉ đồ vật bé nhỏ, vô tri, vô giác, tầm thường. Gợi ra sự rẻ rúng, coi thường với giá trị của người phụ nữ, thật xót xa, buồn tủi.
Hồ Xuân Hương đã cất lên tiếng than cho những thân phận má đào ở xã hội xưa, góp thêm một tiếng nói trong trào lưu nhân đạo của văn học cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Đến hai câu thực đó là nỗi đau thân phận nổi trôi giữa say và tỉnh, dường như Hồ Xuân Hương đã ngồi nhẫn tàn canh, ngồi một mình trong nỗi cô đơn, để làm bạn với chén rượu cay nồng, để đối mặt với đêm khuya lẻ bóng với vầng trăng lạnh đang soi.
“Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn”
Câu thơ chứa đựng biết bao nỗi niềm ngao ngán, nhà thơ uống rượu để cho say, cho quên đi nỗi sầu khổ nhân thế, nhưng trái ngang sao cứ “say lại tỉnh”, gợi cái vòng luẩn quẩn, bế tắc, lặp đi lặp lại. Bà muốn say nhưng rượu cũng chẳng khiến bà say mãi, rồi cũng có lúc phải tỉnh lại. Bà lại phải đối mặt với nỗi cô đơn, với cái nỗi lẻ loi, phải đối diện với đêm khuya mịt mù, thứ mà bà muốn say để trốn tránh. Và khi tỉnh ra rồi lại càng thấm thía hơn cái nỗi cô đơn, trơ trọi mà mình phải gánh chịu.
Câu “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn” trước hết là ngoại cảnh, sau cũng tâm cảnh. Bởi nó bộc lộ được cảm xúc của nhà thơ, tạo nên cái sự đồng nhất giữa trăng và người. Ta nhận thấy hình ảnh “Vầng trăng bóng xế” có nghĩa là trăng đêm đã sắp tàn, tuổi xuân đã sắp trôi qua hết, nhưng trái ngang sao vẫn “khuyết chưa tròn”, tình duyên của nhà thơ vẫn chưa trọn vẹn, còn lắm lận đận, truân chuyên nhiều bề.
Hai câu thơ thực mang dáng dấp của một lời than vãn, nghe đâu đây có tiếng thở dài. Nhà thơ như than cho số phận éo le và cũng là than thay cho những người phụ nữ khác có cùng chung cảnh ngộ với bà. Lời than ấy vừa đau đớn, vừa xót xa, như châm kim vào lòng người đọc, một nỗi đau thấu tâm can.
Như vậy chỉ qua hai câu thơ đề và hai câu thơ luận của Tự tình 2 ta đã thấy được phần nào nỗi cô đơn, lẻ loi, nỗi xót xa, đau đớn trước cái số phận nghiệt ngã lắm truân chuyên của Hồ Xuân Hương, đồng thời cũng là của những người phụ nữ thời bấy giờ. Những dòng thơ ngắn ngủi còn cho thấy cái bản lĩnh mạnh mẽ của một người phụ nữ tuy cuộc đời lắm nhiêu khê, nhưng vẫn dám thách thức với xã hội, đồng thời còn thể hiện cái tài năng thơ văn tuyệt diệu, thâm sâu của mình.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Cảm Nhận Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng 🌼 15 Bài Biểu Cảm Hay

Bài Văn Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình Hay Nhất – Mẫu 5
Đón đọc dưới đây bài văn cảm nhận về bài thơ Tự tình hay nhất được chọn lọc, đây sẽ là gợi ý làm bài giúp các em học sinh đạt kết quả cao cho đề văn cảm nhận về bài thơ Tự Tình của Hồ Xuân Hương.
Được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”, Hồ Xuân Hương đã để lại cho chúng ta những tác phẩm thơ Nôm thật sự xuất sắc, trong đó đa số là các bài thơ nói về thân phận người phụ nữ, cùng với nỗi niềm đồng cảm, thương cảm sâu sắc và khao khát được hạnh phúc.
Trong các tác phẩm ấy có chùm thơ ba bài thơ Tự tình, được lấy cảm hứng từ chính cuộc đời của bà. Mỗi bài thơ đều mang những nỗi niềm cảm xúc riêng nhưng tựu chung lại là nỗi buồn, nỗi cô đơn của một người phụ nữ khao khát yêu đương nhưng lại gặp phải những bất hạnh, đau đớn. Tự tình 2 được sinh ra trong niềm cảm hứng chung ấy.
Hồ Xuân Hương được sinh ra vào giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, khi mà xã hội đang chuyển mình đầy sóng gió. Cả xã hội khi ấy đều sục sôi cái tư tưởng đòi quyền sống, tự do và hạnh phúc. Và cái không khí ấy đã tác động mạnh mẽ tới tâm trí và hồn thơ của bà. Ngẫm lại số phận mình, hai lần lấy chồng, hai lần làm lẽ, hai lần chồng chết, cuộc đời bà là một chuỗi dài những tháng năm đau khổ, là những giọt nước mắt cho phận “hồng nhan”.
Có lẽ chính thế mà khi viết Tự tình 2, bà đã gợi mở ra không gian vắng lặng giữa đêm khuya thanh vắng, chỉ còn xao xác tiếng trống canh khuya:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Một không gian bao la mở ra trước mắt chúng ta, thế nhưng không gian ấy lại vắng lặng, đìu hiu, cô quạnh đến vô cùng, chỉ còn tiếng trống canh lặng lẽ gióng lên từng hồi lạnh lẽo. Người ta cũng phải ngạc nhiên tự hỏi tại sao nhân vật trữ tình lại mở lời giữa lúc đêm khuya vắng thế này? Liệu còn điều gì khiến bà suy tư mà giật mình thức giấc hay vì cả đêm qua, bà chưa hề chợp mắt một phút nào chăng?
Tiếng trống canh “dồn” dập, gấp gáp báo hiệu sự trôi chảy của thời gian, mỗi khắc trôi qua là tuổi xuân của bà lại trôi qua một chút. Đêm khuya là lúc người ta nghỉ ngơi, vậy tại sao bà còn ngồi đây với đầy nỗi niềm tâm sự?
Có lẽ là bởi vì sự cô đơn, sự buồn tủi, thao thức cho số kiếp của mình đang xâm chiếm lấy tâm hồn nhạy cảm của bà. Ở đây, Hồ Xuân Hương đã sử dụng từ láy “văng vẳng” – một từ láy tượng thanh miêu tả cái âm thanh vang vọng của tiếng trống canh trong đêm, và nó cũng là từ láy diễn tả cái không khí vắng lặng đến vô cùng của một con người đang thao thức giữa canh khuya.
Đến câu thơ thứ hai, người ta nhận thấy đằng sau nỗi thao thức ấy là một bầu tâm sự đang cần trút bỏ:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
“Hồng nhan” là một từ ngữ vốn dùng để chỉ những người phụ nữ xinh đẹp, ấy thế mà người phụ nữ ấy giữa canh khuya lại phải chịu cảnh “trơ” trọi một mình. Ấn tượng nhất trong câu thơ là từ “trơ”. Có lẽ chưa từng có một nhà thơ nào lại bạo gan trong cách sử dụng từ ngữ như thế! “Trơ” ở đây có lẽ Hồ Xuân Hương muốn nhắc tới sự cô đơn, lẻ loi, trơ trọi – một nỗi buồn bao trùm lấy cả không gian. Hồ Xuân Hương đã đặt ở câu thơ một từ ngữ định lượng “cái” để chỉ “hồng nhan”.
Đây là một sự cụ thể hóa cho cái nỗi buồn cho kiếp má hồng, giọng thơ chùng xuống thể hiện một sự não nề trong khung cảnh. Đặt chữ “trơ” lên đầu câu, bà muốn nhấn mạnh sự trơ trọi, đơn độc, cái buồn tủi của mình trong đêm vắng. Và cái buồn ấy càng cụ thể hơn khi nó được đặt bên cạnh một cái to lớn như “nước non”. Đến đây, ta chợt cảm khái rằng có phải chăng đây Hồ Xuân Hương đang muốn gợi đến hình ảnh của một người vợ lẽ đang mòn mỏi chờ chồng mình trong canh khuya của kiếp chung chồng cay đắng, tủi phận chăng?
Cái buồn rất dễ thấm vào tâm can con người, như Nguyễn Du đã nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, nó cũng thấm sang cả cảnh vật trong đêm vắng lặng này. Vậy nên ta mới cảm thấy cái bóng đêm kia quá lạnh lẽo, quá cô quạnh. Và khi cái buồn đang đè nặng, chi phối tâm trạng con người thì có lẽ chén rượu là phương tiện để giải sầu hiệu quả nhất. Thế nên, Hồ Xuân Hương cũng học theo người xưa “nâng chén để tiêu sầu”, nhưng có lẽ điều đó chỉ làm cho nỗi buồn càng thêm nặng nề, nỗi bi kịch vẫn là bi kịch không lối thoát:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Như một quy luật của tạo hóa, trăng tròn rồi lại khuyết, lặp lại theo một chu kì nhất định. Vầng trăng – vốn là tượng trưng cho cuộc đời, cho tuổi xuân của người con gái, vầng trăng “tròn” tức là đã đến tuổi gả chồng, cái tuổi đẹp nhất của người con gái. Thế nhưng, trăng trong thơ Hồ Xuân Hương lại chỉ khuyết chẳng tròn, và đã “xế” bóng, gợi lên tuổi xuân đang dần trôi đi của người con gái – nhân vật trữ tình trong bài thơ.
Trăng đã xế, tuổi xuân đã qua, ấy vậy mà vẫn chưa có được hạnh phúc trọn vẹn. Phải chăng hình ảnh trăng chưa tròn là vì hạnh phúc của bà còn chưa viên mãn hay cũng là cuộc đời của bà, đã có tuổi mà hạnh phúc vẫn chẳng tròn đầy?
Những câu thơ nối tiếp vẫn nói lên nỗi đơn côi, lẻ bóng của nhân vật trữ tình thế nhưng lại với một sự chuyển biến khác:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn’
Nếu như bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh vắng lặng, đìu hiu của canh khuya cô quạnh, lời thơ dìu dặt, đượm buồn diễn tả cái tâm trạng chờ đợi mòn mỏi thì hai câu thơ này lại đột ngột chuyển mình mạnh mẽ. Hồ Xuân Hương đã dùng ở đây nghệ thuật đảo ngữ với tiết tấu nhanh, mạnh mẽ tạo nên một khung cảnh sinh động, chân thực và đầy sức sống.
Những đám rêu trên mặt đất được bóng trăng xiên ngang mà soi tỏ, những hòn đá vô tri còn được ánh trăng đâm xuyên qua những đám mây mà chiếu tới. Cảnh thực nhưng lại gợi cảm nhiều hơn gợi tả. Đến những thứ vô tri vô năng mà còn được ánh trăng soi tỏ, có đôi có cặp, cớ sao một kiếp hồng nhan lại phải chịu cảnh cô đơn một mình?
Hai câu thơ thôi mà toàn là những động từ mạnh “đâm toạc, xiên ngang” phải chăng nó đang bày tỏ cái nỗi lòng chất chứa sắp bùng nổ của nhà thơ? Lời thơ như là một sự phản ứng dữ dội cho kiếp sống cô độc của người phụ nữ ấy, nhân vật trữ tình không còn dịu dàng được nữa, bà muốn được giải thoát khỏi tâm trạng bức bối đang bủa vây lấy thân mình. Nghệ thuật đảo ngữ đã làm cho lời thơ thêm phần mạnh mẽ dứt khoát, táo bạo giống hệt tính cách của “bà chúa thơ Nôm”.
Thế nhưng, cái bộc phát tức giận đó chỉ dường như bùng lên trong giây lát để rồi bà lại trở về với cái nỗi buồn mênh mang trong lòng. Một sự chấp nhận, một sự bất lực, cam chịu mà bà phải thốt lên trong sự đau đớn:
“Ngán nỗi xuân qua xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Một câu thơ nhưng lại khiến người đọc cảm thấy một khoảng thời gian dài đằng đằng khi mà tuổi xuân của bà cứ trôi đi trong lặng lẽ, trong sự ngao ngán về cuộc đời. Mùa xuân đến trong mừng vui rộn rã thì tuổi xuân của bà cũng dần chảy trôi đi, ấy vậy mà hạnh phúc, tình yêu vẫn chỉ được hưởng một chút “con con”.
“Mảnh tình” – chỉ là mảnh tình chứ chẳng được trọn vẹn, ấy vậy mà còn phải “san sẻ” thì còn đáng bao nhiêu nữa đây? Có lẽ đây là lời thở than đầy cay đắng của Hồ Xuân Hương cho cái kiếp vợ lẽ của mình, sự san sẻ yêu thương là một điều không ai muốn, vậy mà bà phải chịu:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
Hai câu thơ cuối khép lại như một lời than thầm kín của người phụ nữ trong phận làm lẽ của xã hội xưa. Bởi một kiếp làm lẽ sẽ chẳng bao giờ được hưởng trọn tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của mình.
Bài thơ được Hồ Xuân Hương viết lên để thể hiện tâm trạng và thái độ của mình trước duyên phận hẩm hiu, bà vừa uất ức, vừa đau xót muốn gắng gượng vươn lên nhưng bi kịch cứ nối dài bi kịch. Nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ là thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với những từ ngữ sinh động gây ấn tượng mạnh mẽ.
Mặc dù sử dụng thể thơ Đường nhưng những ngôn từ của bà đều hết sức thuần việt. Ngôn từ khi dịu dàng, đằm thắm, gợi tả nỗi buồn, khi phá cách với nhịp điệu mãnh liệt, tất cả đều được sử dụng để miêu tả những cảm nhận của bà về nỗi buồn sự đời. Nghệ thuật đặc tả được bà sử dụng hết sức tinh tế cùng với nghệ thuật đảo ngữ tạo nên một Tự tình cực kỳ thành công về mặt cảm xúc và xây dựng hình tượng.
Tự tình 2 là bài thơ thể hiện tâm tư, tình cảm của Hồ Xuân Hương trước duyên phận của mình; vừa uất ức, tức giận, buồn tủi, lẻ loi, muốn vượt lên nhưng lại rơi vào bi kịch. Bài thơ là minh chứng cho khát vọng hạnh phúc mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương đồng thời khẳng định tài năng của bà, xứng đáng với danh xưng “bà chúa thơ Nôm”.
Gợi ý cho bạn 🌹 Cảm Nhận Về Bài Thơ Quê Hương 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình Ngắn Gọn – Mẫu 6
Bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tự tình ngắn gọn sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập để chuẩn bị cho bài viết trên lớp.
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hương được biết đến là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ với tiếng nói cảm thương, tiếng nói khẳng định, tiếng nói tự ý thức về bản thân đầy bản lĩnh. “Bà chúa thơ Nôm” có chùm thơ “Tự tình” bao gồm ba bài, là tiếng nói của thân phận, là những khát khao, đau buồn của kiếp người. Trong đó, bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện rõ tâm trạng, thái độ của nữ sĩ: vừa buồn đau, vừa phẫn uất trước nghịch cảnh éo le cùng khát vọng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch.
Bốn câu thơ mở đầu bài thơ đã cho thấy hoàn cảnh và tâm trạng của nữ sĩ:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Câu thơ gợi nên sự vắng lặng, tĩnh mịch của đêm khuya trong âm điệu buồn thương. Tiếng trống canh giữa đêm khuya cho thấy cảm nhận về bước đi dồn dập của thời gian. Trong thời gian và không gian đó, tác giả cay đắng nhận ra sự bẽ bàng của thân phận, được thể hiện qua nghệ thuật sử dụng ngôn từ tinh tế, độc đáo.
Những từ ngữ giàu giá trị biểu cảm đã được sử dụng để thể hiện tâm trạng: “Trơ” được đặt đầu câu kết hợp với biện pháp đảo nhấn mạnh cảm giác tủi hổ, chai lì. Hai chữ “hồng nhan” lại đi với từ “cái” đặc trưng cho phong cách nghệ thuật vừa trữu tình vừa trào phúng của tác giả, gợi lên ý thức về sự rẻ rúng, mỉa mai của thân phận. Bi kịch về tâm trạng càng được xoáy sâu thêm.
Câu thơ: “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” vừa miêu tả ngoại cảnh vừa diễn tả tâm cảnh, thể hiện sự thống nhất giữa thiên nhiên và con người. “Vầng trăng bóng xế” (trăng sắp tàn) mà vẫn “khuyết chưa tròn” trở thành hình ảnh ẩn dụ, nhấn mạnh hai lần bi kịch của cuộc đời nữ sĩ: tuổi xuân trôi qua mà nhân duyên vẫn không trọn vẹn, thậm chí chỉ là sự dang dở.
Ý thức sâu sắc về bi kịch tình duyên, tác giả không chỉ cảm thấy bẽ bàng, tủi hổ mà còn phẫn uất:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn”
Bức tranh thiên nhiên hiện lên với những nét chấm phá về rêu và đá. “Rêu” và “đá” là những sinh vật vô tri vô giác, bé nhỏ nhưng vẫn không chịu khuất phục mà vẫn hiên ngang tồn tại một cách mạnh mẽ: “xiên ngang mặt đất”, “đâm toạc chân mây”. Biện pháp đảo ngữ đưa những động từ mạnh lên đầu câu đã làm nổi bật sức sống mãnh liệt của cỏ cây, cũng chính là ẩn dụ cho tâm trạng phẫn uất muốn vượt lên trên nghịch cảnh éo le của tác giả.
Nữ sĩ tuy nhận ra sự ngang trái, éo le của phận mình nhưng không hề cam chịu mà luôn muốn vùng vẫy, vượt lên trên hoàn cảnh bằng những hành động phản kháng. Bài thơ mở đầu bằng cảm thức về thời gian: “Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”, và kết thúc cũng bằng cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng chán chường, buồn tủi:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Hai câu thơ tiếp tục thể hiện tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ của tác giả. “Ngán” mang sắc thái chỉ sự chán ngán, ngán ngẩm. Từ “xuân” được điệp lại hai lần mang những sắc thái ngữ nghĩa khác nhau: vừa chỉ mùa xuân, vừa chỉ tuổi xuân. Mùa xuân của đất trời luôn lặp đi lặp lại theo quy luật tuần hoàn: xuân, hạ, thu, đông nhưng với con người thì tuổi xuân chỉ đến một lần duy nhất, và không bao giờ trở lại.
Hai từ “lại” trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng được sử dụng với hai sắc thái ý nghĩa khác nhau: từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, trong khi đó, từ “lại” thứ hai có nghĩa là quay trở lại, gợi lên sự tuần hoàn, lặp lại. Tất cả đã làm nổi bật ý thức sâu sắc về bi kịch của bản thân và nỗi chán chường khi phải sống trong cuộc sống eo le, ngang trái.
Tác giả đã sử dụng nghệ thuật tăng tiến ở câu thơ “Mảnh tình- san sẻ- tí- con con” nhấn mạnh bi kịch tình duyên éo le của nhân vật trữ tình. Mảnh tình vốn nhỏ bé lại còn không trọn vẹn, thậm chí là phải “san sẻ”. Câu thơ đã gợi lên hoàn cảnh đầy ngang trái của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa khi phải sống trong cảnh chung chồng, và mang thân đi làm lẽ.
Bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện một cách sâu sắc, mãnh liệt khát vọng sống, khát vọng tự do và khát vọng hạnh phúc của tâm hồn một người phụ nữ vừa dịu dàng, đằm thắm vừa mạnh mẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua tài năng trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng của “Bà Chúa thơ Nôm”.
Chia sẻ thêm 🍀 Thuyết Minh Về Bài Thơ Ông Đồ 🍀 12 Bài Văn Hay Nhất

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Tự Tình Ngắn Hay – Mẫu 7
Bài văn cảm nhận của em về bài thơ Tự tình ngắn hay sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích mà giàu hình ảnh và ý nghĩa biểu đạt.
Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ xuất sắc của Việt Nam, số lượng tác phẩm bà để lại khá nhiều, và phong cách sáng tác thơ chủ yếu của Hồ Xuân Hương chính là tả cảnh ngụ tình. Bà còn được biết đến với hình ảnh của một nữ nhà thơ viết nhiều về thân phận người phụ nữ, là người dũng cảm đề cao vẻ đẹp, sự hi sinh và đức hạnh của người phụ nữ, đồng thời lên tiếng bênh vực cho họ và phê phán lên án gay gắt chế độ xã hội cũ.
Tự tình là một trong những bài thơ hay, chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc của chính tác giả và cũng là của người phụ nữ nói chung. Bài thơ Tự tình mở đầu với 2 câu thơ vừa tả cảnh nhưng cũng tả hình ảnh của một người phụ nữ – hay có thể gọi là hồng nhan. Nhưng tiếc thay, hồng nhan đó lại rơi vào hoàn cảnh cô đơn trống vắng, giữa đêm khuya u tịch.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Những cơn sóng cảm xúc đang cuộn xoáy trong lòng khiến nữ sĩ suy tư trăn trở, thao thức thâu đêm. Tiếng trống cầm canh lâu lâu lại điểm, báo thời gian đang trôi qua. Bước chân của đêm tối mới nặng nề càng làm in sâu nỗi đau đời âm ỉ, dai dẳng thiêu đốt tâm can nữ sĩ bấy lâu nay bật thốt thành lời chua chát, đắng cay.
Hồng nhan là gương mặt đẹp, thường được dùng để chỉ phụ nữ nói chung và những người con gái đẹp nói riêng. Là một người phụ nữ có nhan sắc, nhưng lại được miêu tả “trơ với nước non”. Trước cuộc đời rộng lớn, người phụ nữ đó nhận ra thân phận của mình lẻ loi đơn chiếc, và âm thanh của trống cầm canh lại càng điểm thêm một nỗi buồn, trống vắng khó tả. Người phụ nữ ấy đã tìm đến rượu để giải sầu:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Những tưởng như nỗi bất hạnh đã khiến tâm hồn hoá thành gỗ đá nhưng không phải. Trái tim còn đập nên ý thức vẫn còn, nữ sĩ đành say cho quên vậy. Mỗi khi có chuyện gì đó sầu muộn, người xưa thường tìm đến trăng đến rượu để ngỏ cùng bầu tâm sự. Chỉ muốn uống thật say, hương rượu thật nồng để quên đi tất cả, nhưng nghịch lí thay, chén rượu đưa lên mũi, hương nồng vào mũi nhưng người muốn say nhưng tâm và suy nghĩ vẫn đang rất tỉnh.
Không có nỗi buồn nào biến mất ở đây, mà càng làm hiện hữu rõ nỗi lòng của người phụ nữ lúc này. Hình ảnh vầng trăng xuất hiện nhưng khuyết chưa tròn. Phải chăng, ngụ ý cho thân phận cho hạnh phúc của chính tác giả. Là người tài giỏi nhưng duyên phận hẩm hiu, chưa một lần trọn ven. Tuổi xuân dần đi qua mà hạnh phúc vẫn chưa tới bến đỗ.
Tỉnh thì đau khổ nhưng mình vẫn còn được là mình không đến nỗi tuyệt vọng. Lời dạy của trời đất sâu kín mà rành rành trước mắt, ngụ ở ngay trong rêu đá. Hình ảnh rêu được đưa ra đây nhưng mang những dụ ý sâu xa của tác giả Hồ Xuân Hương, rêu là loài mỏng manh nhỏ bé nhưng lại có sức sống vô cùng mạnh mẽ, không dừng lại đó, ở bất cứ một điều kiện nào thì nó vẫn có thể tươi tốt, dù là điều kiện sống như thế nào đi chăng nữa.
Hình ảnh rêu từng đám đâm xuyên ngang mặt đất gợi ra cho chúng ta những liên tưởng mạnh mẽ về sự phản kháng mạnh mẽ cũng như sự chống đối của nó với thứ có thể mạnh hơn nó. Hình ảnh đá cũng vậy, đối lập với sự nhỏ bé của những viên đá với sự rộng lớn của trời đất, nó lại càng làm nổi bật sức mạnh của những viên đá, quả thực nó không tầm thường một tí nào. Sự đồng điệu của người và thiên nhiên, luôn đối mặt với khó khăn thách thức nhưng chưa bao giờ đi đến thành công.
Kiếp làm vợ lẽ, dù cố thoát ra nhưng vẫn không được. Cho nên mới có 2 câu cuối:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Thiên nhiên thuận theo đất trời, xuân đi rồi xuân lại tới, nhưng con người lại khác, với người phụ nữ tuổi xuân trôi đi nhưng chẳng bao giờ quay lại thêm một lần nào nữa. Lại càng đáng buồn hơn cho nhưng số phận hẩm hưu, chờ mong cả tuổi xuân, chờ có một niềm hạnh phúc trọng vẹn nhưng nào đâu có được.
Trước sự lẻ loi, chán chường mà Hồ Xuân Hương đã sử dụng” ngán” phần nào nói lên được nỗi lòng của thi sĩ bây giờ. Mảnh tình đã bé lại còn phải san sẻ, chia nhỏ ra. Không được hưởng một tình yêu một hạnh phúc trọn vẹn, tới khi tìm đến với hạnh phúc lại phải san sẻ, thật quả là đáng thương. Qua đây cũng ngầm ẩn ý về những số phận của người phụ nữ, chịu cảnh thê thiếp, dưới chế độ cũ không được coi trọng và không có quyền lên tiếng.
Tự tình là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách cũng như tư tưởng của Hồ Xuân Hương đặc biệt là những vấn đề xoay quanh người phụ nữ. Bài thơ trĩu nặng một nỗi buồn nhưng không hề bi lụy bởi nổi bật lên trên hết là cốt cách cứng cỏi, tâm hồn nhạy cảm và mạnh mẽ đã giúp nữ sĩ vượt qua bao bất hạnh của cuộc đời.
Bài thơ vừa là tiếng lòng riêng của nữ sĩ, vừa là tiếng lòng chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thuở ấy. Qua đây chúng ta cũng thấy được một Hồ Xuân Hương vừa yếu mềm nhưng cũng thật ngang tàng mạnh mẽ khi dám bộc lộ những suy nghĩ của chính mình.
Giới thiệu tuyển tập 🌳 Thuyết Minh Về Bài Thơ Đập Đá Ở Côn Lôn 🌳 11 Mẫu Hay

Cảm Nhận Bài Thơ Tự Tình Đặc Sắc – Mẫu 8
Bài văn cảm nhận về bài thơ Tự tình đặc sắc sẽ giúp các em học sinh trau dồi thêm cho mình những ý văn hay. Đồng thời củng cố kỹ năng cảm thụ, cảm nhận văn học và những kiến thức về bài thơ Tự tình.
Hồ Xuân Hương là nữ sĩ tài ba ở nước ta vào cuối thế kỉ XVIII — đầu thế kỉ XIX. Ngoài tập “Lưu Hương kí” bà còn để lại khoảng 50 bài thơ Nôm, phần lớn là thơ đa nghĩa, vừa có nghĩa thanh vừa có nghĩa tục. Một số bài thơ trữ tình đằm thắm, thiết tha, buồn tủi… thể hiện sâu sắc thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, với bao khao khát sống và hạnh phúc tình duyên.
Chùm thơ “Tự tình” phản ánh tâm tư tình cảm của Hồ Xuân Hương, của một người phụ nữ lỡ thì quá lứa, duyên phận hẩm hiu, … Bài thơ này là bài thứ hai trong chùm thơ “Tự tình” ba bài.
Thi sĩ Xuân Diêu trong bài “Hồ Xuân Hương bà chúa thơ Nôm” đã viết: “Bộ ba bài thơ trữ tình này cùng với bài “Khóc vua Quang Trung” của công chúa Ngọc Hân làmị một khóm riêng biệt, làm tiếng lòng chân thật của người đàn bà tự nói về tình cảm bản thân của đời mình trong văn học cổ điển Việt Nam…” Ông lại nhận xét thêm về đỉệ thơ, giọng thơ: “…trong bộ ba bài thơ tâm tình này, bên cạnh bài thơ vẩn “ênh hẻ nênh và bài thơ vần “om” oán hận, thì bài thơ vần “on” này mong đợi, chon von”.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,
Vầng trăng bống xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”.
Hai trong ba bài thơ, nữ sĩ đều nói về đêm khuya, canh khuya. “Tự tình” bà vi “Tiếng gà vãng vẳng gáy trên bom – Oán hận trông ra khắp mọi chòm”. Ở bài thơ này cũng vậy, bà tỉnh dậy lúc canh khuya, hay thao thức suốt đêm khuya, tâm trạng ngổn gang phiền muộn.
Âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống từ một chòi canh xa đưa lại như thúc giục thời gian trôi nhanh, tuổi đời người đàn bà trôi nhanh: “Canh khuya văng vẳng trống canh dồn”. “Hồng nhan” là sắc mặt hồng, chỉ người phụ nữ. “Trơ” nghĩa là lì ra, trơ ra, chai đi, mất hết cảm giác. “Nước non”: chỉ cả thế giới tự nhiên và xã hội.
Câu thơ: “Trơ cái hồng nhan với nước non” nói lên một tâm trạng: con người đau buồn nhiều nỗi, nay nét mặt thành ra trơ đi trước cảnh vật, trước cuộc đời, tựa như gỗ đá, mất hết cảm giác. Nỗi đau buồn đã đến cực độ. Từ “cái” gắn liền với chữ “hồng nhan” làm cho giọng thơ trĩu xuống, làm nổi bật cái thân phận, cái duyên phận, cái duyên số đã quá hẩm hiu rồi. Ta có cảm giác tiếng trống dồn canh khuya, thời gian như cơn gió lướt qua cuộc đời, lướt qua số phận và thân xác nhà thơ.
Con người đang than thân trách phận ấy đã có một thời son trẻ tự hào: “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”, có phẩm hạnh một “tấm lòng son” trọn vẹn, lại tài năng, thế mà nay đang trải qua những đêm dài cay đắng. Qua đó, ta thấy cái xã hội phong kiến buổi ấy chính là tác nhân đã làm xơ xác, khô héo phận hồng nhan.
Đằng sau hai câu đề là những tiếng thở dài ngao ngán. Cố vẫy vùng để thoát ra, bươn ra khỏi cái nghịch cảnh nhưng đâu dễ! Tiếp theo là hai câu thực:
“Chén rượu hương đưa say lợi tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Nghệ thuật đối rất thần tình: “Chén rượu” với “vầng trăng”, trên thì “hương đưa”, dưới lại có “bóng xế”, đặc biệt ba chữ “say lại tỉnh” vời “khuyết chưa tròn” đăng đối, hô ứng nhau làm nổi bật bi kịch về thân phận người đàn bà dang dở, cô đơn. Muốn mượn chén rượu để khuây khoả lòng mình, nhưng vừa nâng chén rượu lên môi mùi hương phả vào mặt, đưa vào mũi.
Tưởng uống rượu cho say để quên đi bao nỗi buồn, nhưng càng uống càng tỉnh. “Say lại tỉnh” để rồi tỉnh lại say, cái vòng luẩn quẩn ấy về duyên phận của nhiều phụ nữ đương thời, trong đó có Hồ Xuân Hương như một oan trái. Buồn tủi cho thân phận, bao đêm dài thao thức đợi chờ, nhưng tuổi đời ngày một “bóng xể”.
Bao hi vọng đợi chờ. Đến bao giờ vầng trăng mới “tròn”? Đến bao giờ hạnh phúc đến trong tám tay, được trọn vẹn, đầy đủ? Sự chờ mong gắn liển với nỗi niềm khao khát. Càng cô đơn càng chờ mong, càng chờ mong càng đau buồn, đó là bi kịch của những người đàn bà quá lứa lỡ thì, tình duyên ngang trái, trong đó có Hồ Xuân Hương.
Hai câu trong phần luận, tác giả lấy cảnh để ngụ tình. Đây là hai câu thơ tả cảnh “lạ lùng” được viết ra giữa đêm khuya trong một tâm trạng chán ngán, buồn tủi:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.
Ý thơ cấu trúc tương phản để làm nổi bật cái dữ dội, cái quyết liệt của sự phản kháng. Từng đám rêu mềm yếu thế mà cũng “xiên ngang mặt đất” được! Chỉ có rải rác “đá mấy hòn” mà cũng có thể “đâm toạc chân mây” thì thật kì lạ! Hai câu thơ, trước hết cho ta thấy thiên nhiên tiềm ẩn một sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên mạnh mẽ vô cùng.
Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ mang màu sắc, đường nét, hình khối mà còn có gương mạt, có thái độ, có hành động, cũng “xiên ngang…”, cũng “đâm toạc”… mọi trở ngại, thế lực. Xuân Hương vốn tự tin và yêu đời. Con người ấy đang trải qua nhiều bi kịch vẫn cố gắng gượng với đời. Phản ứng mạnh mẽ, dữ dội nhưng thực tại vẫn chua xót.
Đêm đã về khuya, giữa cái thiên nhiên dào dạt, bốn bề mịt mùng bao la ấy, người đàn bà hẩm hiu càng cảm thấy cô đơn hơn bao giờ hết. Chẳng thế mà trong bài “Tự tình I”, nữ sĩ đã buồn tủi viết:
“Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”.
Cả nỗi đau trần thế như dồn tụ lại đáy lòng một người đàn bà cô đơn. Khao khát được sống trong hạnh phúc, được làm vợ, làm mẹ như mọi người đàn bà khác. Nhưng “hồng nhan bạc mệnh”! Đêm càng về khuya, người đàn bà không thể nào chợp mắt được, trằn trọc, buồn tủi, thân đơn chiếc, thiếu thốn yêu thương, xuân đi rồi xuân trở về, mà tình yêu chỉ được “san sẻ tí con con”, phải cam chịu cảnh ngộ:
“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
Xuân đi qua, xuân trở lại, nhưng với người phụ nữ thì “mỗi năm mỗi tuổi như đuổi xuân đi”… Chữ “ngán” nói lên nỗi đau, nỗi buồn tủi của người đàn bà lỡ thì quá lứa, đang trải qua sự mòn mỏi, đợi chờ. Tình duyên, tình yêu như bị tan vỡ, tan nát thành nhiều “mảnh”, thế mà chua chát thay chỉ được “san sẻ tí con con”.
Câu thơ là tiếng than thân trách phận. Phải chăng đây là lần thứ hai Hồ Xuân Hương chịu cảnh làm lẽ? Tinh đã vỡ ra thành “mảnh” lại còn bị “san sẻ”, đã “tí” lại “con con”. Mỗi chữ như rưng rưng những giọt khóc. Câu thơ này, tâm trạng này được nữ sĩ nói rõ thêm trọng bài “Lấy chồng chung”:
“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Năm thì mười hoạ hay chăng chớ,
Môt tháng đôi lẩn có cũng không!”.
Tóm lại, “Tự tình” là lời tự than, tự thương xót, buồn tủi cho duyên số, duyên phận hẩm hiu của mình. Càng thao thức cô đơn, càng buồn tủi. Càng buồn tủi, càng khao khát được sống trong hạnh phúc trọn vẹn, đầy đủ. Thực tại nặng nề, cay đắng bủa vây, khiến cái hồng nhan phơi ra, “trơ” ra với nước non, với cuộc đời. Người đọc vô cùng cảm thông với nỗi lòng khao khát sống, khao khát hạnh phúc của nữ sĩ và người phụ nữ trong xã hội cũ. Giá trị nhân bản là nội dung sâu sắc nhất của chùm thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương.
Cách dùng từ rất đặc sắc, độc đáo thể hiện phong cách nghệ thuật Hồ Xuân Hương: “trơ cái hồng nhan”, “say lại tỉnh”, “khuyết chưa tròn”, “xiên ngang”, “đâm toạc”, “ngán nỗi”, “lại lại”, “tí con con”, … Chữ dùng sắc nhọn, cảnh ngụ tinh, diễn tả mọi đau khổ bi kịch về duyên số. Qua bài thơ này, ta càng thấy rõ Hồ Xuân Hương đã đưa ngôn ngữ dân gian, tiếng nói đời thường vào lời ca, bình dị hoá và Việt hoá thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bà xứng đáng là “Bà chúa thơ Nôm” của nền thi ca dân tộc.
Mời bạn tham khảo 🌠 Cảm Nhận Về Bài Thơ Qua Đèo Ngang 🌠 15 Bài Biểu Cảm Hay

Văn Mẫu Cảm Nhận Bài Thơ Tự Tình Chọn Lọc – Mẫu 9
Bài văn mẫu cảm nhận bài thơ Tự tình chọn lọc sẽ là một trong những tư liệu hay không thể bỏ qua cần thiết cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
“Bà Chúa Thơ Nôm” – Hồ Xuân Hương là một nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, thơ của bà chính là tiếng nói thương cảm đối với số phận người phụ nữ, tiếng thơ của bà còn thấm đượm tinh thần nhân đạo khi trân trọng, đề cao vẻ đẹp và những khát vọng chính đáng của người phụ nữ. Bài thơ “Tự tình” (bài II) nằm trong chùm thơ “Tự tình” của bà là một trong những sáng tác mà ở đó ta cảm nhận được tâm trạng buồn tủi, phẫn uất trước duyên phận éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc ở Hồ Xuân Hương.
Mở đầu bài thơ nữ thi sĩ gợi ra một khung cảnh cũng như tâm cảnh mang nặng sự cô đơn, vắng vẻ quạnh hiu:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Thời gian được nhắc đến đã là đêm khuya, là khoảng thời gian khá nhạy cảm, nhạy cảm bởi đó là lúc con người ta đối diện với chính bản thân mình, những suy nghĩ, trăn trở bắt đầu bủa vây xung quanh. Thêm vào đó, giữa không gian tĩnh mịch, vắng vẻ của đêm khuya lại có thêm tiếng trống canh dồn, âm thanh “văng vẳng” càng làm tăng sự vắng lặng và quạnh hiu của không gian, tiếng trống dồn dập giống như đang thúc giục dồn dập bước đi thời gian.
Tiếng trống hay cũng là tiếng lòng của nữ thi sĩ, sự rối bời quẩn quanh khi nhận ra sự trôi chảy của thời gian của đời người, mà ta – phận hồng nhan vẫn còn trơ trơ, chỉ có mình ta với nước non, đó là sự cô đơn, lẻ bóng, trơ trọi. Có thể đó là sự tủi hổ trong nhận thức về hoàn cảnh của nhà thơ nhưng cũng có thể đó chính là sự kiên cường, bền bỉ trong con người nhà thơ.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
“Say lại tỉnh” giống như một vòng luẩn quẩn, bế tắc của cuộc đời cũng như của tình duyên, muốn say cho quên sầu muộn và nỗi xót xa số phận nhưng càng say lại càng tỉnh, càng thấu hơn nỗi khổ của thân phận.
Hình ảnh vầng trăng “bóng xế” nghĩa là trăng sắp tàn, trời sắp sáng lại thêm “khuyết chưa tròn” ấy là sự tương quan với số phận của người nữ sĩ, trăng sắp tàn giống như tuổi xuân đã sắp trôi qua thế nhưng trăng vẫn khuyết chưa tròn ấy là tình duyên vẫn chưa được trọn vẹn như ý. Ta cảm nhận được nỗi lòng cay đắng, xót xa cho duyên phận lỡ làng của nhà thơ.
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”
Trong hai câu thơ trên, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ làm tăng sức hấp dẫn của câu thơ, đặc biệt việc đặt các động từ mạnh ở đầu mỗi câu thơ như “xiên ngang, đâm toạc” đã làm tăng sự sinh động của câu thơ. Bức tranh thiên nhiên có mặt đất, chân mây, rêu từng đám mọc xiên ngang mặt đất, những hòn đá dựng đứng như đâm vào toạc cả chân mây.
Việc sử dụng hình ảnh và từ ngữ đã gợi nên một thiên nhiên tràn đầy sức sống và ẩn chứa trong đó là tâm trạng, thái độ của nữ nhà thơ. “Xiên ngang, đâm toạc” là sự phẫn uất và phản kháng của nhà thơ đối với cuộc đời, số phận của mình. Từng lời thơ nghe có vẻ đầy căm phẫn nhưng sâu xa ta lại thấy sự chua chát, cam chịu và chấp nhận của nhà thơ.
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Nhắc đến mùa xuân là nhớ về tuổi xuân của mình, nữ thi sĩ ngán ngẩm bởi mùa xuân qua đi rồi mùa xuân lại đến nhưng tuổi xuân mà qua thì là hết hẳn, chẳng còn lấy lại được nữa. Mà cứ mỗi mùa xuân trở lại lại là sự ra đi của tuổi xuân, nhìn bao mùa xuân qua là bấy nhiêu năm tuổi xuân dần vơi đi, tuổi xuân đã ít cứ theo đà trôi chảy của thời gian vẫn éo le, hẩm hiu và dở dang lỡ làng.
Giống như “mảnh tình” của nàng thi sĩ, đã nhỏ bé chỉ gọi là “mảnh” nhưng lại còn “san sẻ” thành ra chỉ còn một “tí con con” dường như không còn đáng là bao nữa. Những lời thơ như lời tâm sự của nhà thơ về chính tình duyên và số phận của mình, nỗi lòng của nhà thơ thể hiện sự khát khao có được hạnh phúc, nhưng hy vọng bao nhiêu lại phải thất vọng bấy nhiêu, chỉ trách sao số phận của nữ thi sĩ lận đận, phũ phàng.
Ta có thể cảm nhận được sự nỗ lực, sự gắng gượng vươn lên số phận của Hồ Xuân Hương, nhưng dù có cố gắng, dù có kiên cường nhà thơ vẫn phải đối mặt với những trớ trêu, thực tại phũ phàng của số phận. Những ước mơ và khát khao sống, hạnh phúc của nhà thơ là một thái độ sống rất tích cực mà chúng ta phải học tập, dù hoàn cảnh và số phận có phũ phàng với ta nhưng ta vẫn phải sống một cuộc đời thật ý nghĩa.
SCR.VN tặng bạn 💧 Nghị Luận Chiều Tối 💧 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Bài Viết Cảm Nhận Bài Thơ Tự Tình Chi Tiết – Mẫu 10
Đón đọc bài viết cảm nhận bài thơ Tự tình chi tiết sẽ mang đến cho các em học sinh những ý văn hay và phong phú khi cảm thụ tác phẩm.
Thân phận lẽ mọn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến là một đề tài khá phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết thời hiện đại. Tình yêu và hanh phúc gia đình là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Nó góp phần thế hiện rõ tinh thần nhân đạo trong văn học. Chùm thơ Tự tình là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ trong vàn học Việt Nam – Hồ Xuân Hương.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
Người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng nghe tiếng trống cầm canh báo thời khắc đi qua. Canh khuya là thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Nàng cảm thấy tiếng trống canh báo hiệu thời gian khắc khoải mong ngóng một điều gì. Nhưng càng mong lại càng không thấy. Tiếng trống canh đang dồn dập kia chính là thông báo về thời gian tâm trạng của nàng. Nó thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải, thảng thốt thiếu tự tin, đầy lo âu và tuyệt vọng của người đàn bà.
Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng bẽ bàng của người vợ cô đơn chờ mong chồng mà chồng không đến bằng một chữ trơ – trơ trọi, trơ cái hồng nhan, cái thân phận phụ nữ với nước non, với đời, với tình yêu.
Hai câu tiếp theo, Hồ Xuân Hương diễn tả tâm trạng tuyệt vọng của người vợ chờ chồng.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”
Câu thơ ẩn chủ từ, chỉ thây hành động và trạng thái diễn ra. Chén rượu hương đưa nghĩa là uống rượu giải sầu cho quên sự đời, nhưng say rồi lại tỉnh, tức là uống rượu vẫn không quên được mối sầu! Vầng trăng bóng xế trong câu bốn có nghĩa là đêm đã gần tàn, nhưng trăng chưa tròn mà đã xế, thể hiện cảm xúc về hạnh phúc chưa tròn đầy. Vầng trăng bóng xế cũng có thể có hàm ý chỉ tuổi người đã luống mà hạnh phúc chưa đầy.
Nếu như bốn câu thơ đầu tiên diễn tả cái tâm trạng chờ đợi mòn mỏi có phần tuyệt vọng, buông xuôi, thì ở hai câu năm và sáu, Hồ Xuân Hương đã bất ngờ vẽ ra hình ảnh một sự cảm khái. Cái đám rêu kia còn được bóng trăng xế xiên ngang mặt đất soi chiếu tới. Ta có thể tưởng tượng: mấy hòn đá kia còn được ánh trăng đâm toạc chân mây để soi đến. Hoá ra thân phận mình cô đơn không bằng được như mấy thứ vô tri vô giác kia!
Đây không nhất thiết phải là cảnh thực, mà có thể chỉ là hình ảnh trong tâm tưởng. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc có ý tiếp cái mạch văn trũng bóng xế ở câu trên. Nhưng các sự vật, hình ảnh thiên nhiên ở đây diễn ra trong dáng vẻ khác thường, do việc tác giả sử dụng những từ ngữ chỉ hành động có tính chất mạnh mẽ, dữ dội:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hon.
Hai câu thơ này cũng có thể hiểu là đảo ngữ: rêu từng đám xiên ngang mặt đất, còn đá mấy hòn vươn lên đâm toạc chân mây. Và đó không phải là hình ảnh của ngoại cảnh, mà là hình ảnh của tâm trạng, một tâm trạng bị dồn nén, bức bối muốn đập phá, muốn làm loạn, muôn được giải thoát khỏi sự cô đơn, chán chường. Nó thể hiện cá tính manh mẽ, táo bạo của chính Hồ Xuân Hương.
Những dồn nén, bức bôi, đập phá của tâm trạng nhà thơ bất ngờ bộc phát, và cũng bất ngờ lắng dịu, nhường chỗ cho sự trở lại của nỗi buồn chán và bất lực, chấp nhận và cam chịu. Càu thơ Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại chứa đựng biết bao nhiêu là thời gian và sự chán ngán kéo dài. Cuộc đời cứ trôi đi, thời gian cứ trôi đi, tình yêu và hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút.
Tác giả đã đi, tình yêu mà hạnh phúc thì chỉ được hưởng tí chút. Tác giả đã dùng từ mảnh tinh để nói cái tình bé như mảnh vỡ. Lại nói san sẻ – Chắc là san sẻ với chồng, san sẻ với vợ cả chăng? Hai câu thơ cuối khép lại bài thơ, như một tổng kết, như một lời than thở thầm kín của người phụ nữ có số phận lẽ mọn về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn trong xã hội xưa.
Bài thơ là lời than thở cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn, thể hiện thái độ bi quan, chán nản cùa tác giả và thân kiếp thiệt thòi của con người.
Đặc sắc nhất về nghệ thuật của bài thơ là sử dụng những từ ngữ và hình ảnh gây ấn tượng mạnh. Tác giả chủ yếu sử dụng các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với sắc thái đặc tả mạnh, bằng những động từ chỉ tình thái: dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc, đi, lại lại, san. sẻ, … và tính từ chỉ trạng thái: say, tỉnh, khuyết, tròn… để miêu tả những cảm nhận về sự đời và số phận.
Hình ảnh trong bài thơ gây ấn tượng rất mạnh bởi nghệ thuật đặc tả. Nhà thơ thường đẩy đối tượng miêu tả tới độ cùng cực của tình trạng mang tính tạo hình cao. Nói về sự cô đơn, trơ trọi đến vô duyên của người phụ nữ thì: Trơ cái hồng nhan với nước non. Mấy chữ xiên ngang, đâm toạc đều là những hành động mạnh mẽ như muốn tung phá, đầy sức sông thể hiện những cảm xúc trẻ trung.
Tác phẩm trình bày một cách nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống trong cô đơn, mòn mỏi mà họ phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống trong hạnh phúc vợ chồng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem lại.
Bài thơ bày tỏ sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nỗi bất hạnh của người phụ nữ, phê phán gay gắt chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện rõ sự bất lực và cam chịu của con người trước cuộc sống hiện tại.
Bài thơ diễn tả một tình cảm đáng thương, một số phận đáng cảm thông, một khát vọng đáng trân trọng, một tâm trạng đáng được chia sẻ của người phụ nữ trong xã hội xưa. Những mơ ước hạnh phúc đó là hoàn toàn chính đáng nhưng không thể thực hiện được trong điều kiện xã hội lúc bấy giờ, đó là bi kịch không thể giải toả. Vì thế giọng điệu của bài thơ vừa ngậm ngùi vừa ai oán. Yêu cầu giải phóng con người, giải phóng tình cảm chỉ có thể tìm được lời giải đáp dựa trên cơ sở của những điều kiện lịch sử – xã hội mới mà thôi.
Đón đọc tuyển tập 💕 Nghị Luận Tràng Giang 💕 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Tự Tình Luyện Viết – Mẫu 11
Cảm nhận bài thơ Tự tình luyện viết sẽ giúp các em học sinh luyện tập nâng cao kỹ năng viết cũng như khả năng cảm nhận, phân tích tác phẩm văn học.
Xã hội phong kiến xưa đầy rẫy những bất công, những sự đàn áp khiến cho đời sống của nhân dân cực khổ. Và đặc biệt, những người phụ nữ xưa, thân phận “như trái bần trôi” bị vùi dập, chà đạp, ngay cả quyền tự do yêu đương, quyền được hưởng hạnh phúc cũng bị tước đoạt.
Bởi vậy, biết bao bài thơ cất lên tiếng nói thương cảm cho cuộc đời “hồng nhan bạc phận” của họ như nàng Kiều tài năng mà số phận truân chuyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người chinh phụ với nỗi lòng nhớ thương chồng nơi biên ải xa xôi trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn,…
Và có một nhà thơ nữ bản lĩnh tài ba, đã dùng chính ngòi bút của mình nói lên tiếng nói phẫn uất trước cuộc đời đầy đau thương của mình, cũng là tiếng lòng thổn thức của bao kiếp đàn bà bạc mệnh, đó là nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương. Tự tình 2 là bài thơ vô cùng tiêu biểu và thành công của bà.
“Canh khuya văng vẳng trống canh dồn.
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Tình yêu khiến con người ta hạnh phúc cũng khiến người ta đau khổ, tình yêu luôn chất chứa những cung bậc cảm xúc khó tả, ai cũng khao khát yêu và được yêu nhưng không phải tình yêu tất cả đều được như ý nguyện. Bởi vậy, giữa màn đêm tĩnh mịch ấy, người con gái cô đơn đến tội nghiệp, một mình lẻ loi, tiếng trống điểm canh vẫn dồn dập không ngăn trở được bước đi của thời gian, cứ “văng vẳng” bên tai kẻ cô đơn, sầu muộn.
Màn đêm giá lạnh, u buồn, văng vẳng tiếng trống khiến trái tim đã lạnh giá lại càng đơn côi, đau khổ đến tội nghiệp. Tiếng thơ “Cái hồng nhan” cất lên nghe sao mà chua chát, ngậm ngùi đến thế. Phận hồng nhận trơ trọi giữa khoảng không của non nước bao la, chẳng ai thấu, chẳng chốn nào hay. Giọng thơ da diết, trĩu nặng nỗi lòng, lòng bẽ bàng, tủi phận biết bao.
” Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Xót xa cho phần ngang trái của mình, nhà thơ tìm đến chén rượu cho vơi đi nỗi lòng, tìm đến ánh trăng bầu bạn, tâm tình. Nhưng càng uống lại càng tỉnh, nỗi sầu chẳng thể quên mà càng rợn ngợp, bủa vây ” say lại tỉnh”, hương rượu nồng nàn ấy không thể xoá tan đi nỗi lòng thương nhớ, đớn đau này. Nỗi sầu thân phận cứ quẩn quanh, vừa quên lại chợt nhớ. Ánh trăng kia đã xế bóng mà vẫn chẳng thể viên mãn tròn đầy.
Vầng trăng khuyết như chính cuộc tình của nhà thơ với người thương chẳng thể nào trọn vẹn, đong đầy, mãi mãi chỉ có khổ đau, hối tiếc, xót xa mà thôi. Cho đến bao giờ, ánh trăng kia mới có thể đong đầy mang đến hạnh phúc thực sự đây khi thực tại quá phũ phàng, chua xót. Nỗi lòng tuyệt vọng khôn thấu, trái tim nghẹn ngào chẳng thể thốt nên lời, lòng trĩu nặng ai oán mà cũng khát khao hạnh phúc, khát khao tình yêu viên mãn. Thiên nhiên cùng với lòng người dường như hoà hợp, chất chứa nỗi tâm trạng của nhà thơ:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Thiên nhiên có buồn, có mệt mỏi đấy thôi nhưng cũng đầy nội lực, đầy khát khao, mang sức sống vô cùng mãnh liệt. Những đám rêu xiên ngang mặt đất để trường tồn, để tìm lấy sự sống cho chính mình. Những hòn đá vốn nằm yên một chỗ cũng “đâm toạc” chân mây đấy thôi. Sự vật dù có nhỏ bé, có giản đơn nhưng rất phi thường, mạnh mẽ.
Phải chăng đó cũng chính là hình ảnh của một Hồ Xuân Hương phản kháng trước số phận của mình. Nỗi niềm đè nén bấy lâu bỗng vực dậy, vươn lên, thân phận rêu đá phẫn uất trước thời cuộc, quyết liệt đứng dậy đấu tranh vươn lên mọi khổ đau tủi nhục của số phận để nắm bắt lấy nguồn hạnh phúc bé nhỏ xứng đáng có được bấy lâu.
Dù trong bần cùng, khó khăn, đớn đau vẫn có những tia hy vọng len lói, vẫn có nghị lực để vượt qua. Trong nghịch cảnh vẫn ánh lên những phẩm chất vô cùng sáng ngời và tốt đẹp. Nhưng phải làm sao đây khi thực tại đớn đau, phũ phàng đến chán chường, bất công xã hội, cuộc đời ngang trái lại khiến một lần nữa nhân vật trữ tình rơi vào bi kịch:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Một nỗi ngao ngán với đời, với thời gian lại dâng lên trong lòng. Mùa xuân đi rồi lại đến, thời gian dẫu trôi nhưng vẫn cứ xoay vòng đấy thôi. Tuổi xuân cũng thế, qua đi không níu kéo được mà nỗi buồn thì trĩu nặng. Tình yêu thì dang dở, hạnh phúc bé nhỏ, mong manh làm sao không khỏi ngán ngẩm, quạnh hiu cho được.
Cuộc tình đã không được đong đầy, nhặt nhạnh từng “mảnh” vụn vỡ mà phải chia sớt, san sẻ, có đau nào bằng nỗi đau ấy. Trong tình yêu, ai mà chẳng muốn có được trọn vẹn nhất tình cảm của người mình thương, không một ai cao thượng để chia sẻ mối tình của mình cho người khác. Bởi vậy mà Hồ Xuân Hương cũng đã từng viết:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
“Tí con con” trong tình yêu phải san sẻ cho kẻ khác. Biết làm sao được khi đời sống tàn nhẫn như thế, đành cam chịu cho phận khổ duyên mỏng của mình mà thôi.
Bằng ngôn ngữ giản dị, lời thơ chân thành, cảm xúc tự nhiên, Hồ Xuân Hương đã cho thấy được tài năng trong ngòi bút của mình qua việc diễn tả những cảm xúc đa dạng sâu kín của tâm hồn. Đọc bài thơ, em càng cảm phục trước tấm lòng và nghị lực sống của người phụ nữ xưa.
Tham khảo văn mẫu 🍀 Nghị Luận Đây Thôn Vĩ Dạ 🍀 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình Đơn Giản – Mẫu 12
Bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tự tình đơn giản sẽ giúp các em học sinh ôn tập hiệu quả với những ý văn ngắn gọn và luận điểm rõ ràng.
Hồ Xuân Hương được mệnh danh là Bà Chúa Thơ Nôm. Trong văn học Việt Nam, bà được coi là một hiện tượng độc đáo bởi nhà thơ là phụ nữ nhưng viết về phụ nữ rất đặc sắc. Trong dòng thơ Nôm của bà, hình ảnh người phụ nữ hiện lên mang vẻ đẹp và khát vọng hạnh phúc. Bài thơ Tự tình II – một bài thơ trong chùm thơ ba bài của Hồ Xuân Hương thể hiện tâm trạng vừa buồn tủi, phẫn uất trước thân phận éo le, bất hạnh, qua đó thể hiện khát khao được hạnh phúc.
Mở đầu bài ” Tự tình II” là nỗi buồn tủi tác giả trong khoảng thời gian đêm khuya:
” Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Trong khoảng thời gian khuya, tối lẽ ra con người sẽ cảm thấy cô đơn, bé nhỏ. Xuân Hương cảm thấy cô đơn trước thời gian đang chảy trôi đó. Tác giả sử dụng lại mô tip “văng vẳng”, nếu ở Tự tình I là câu thơ ” Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom” thì ở đây là “văng vẳng trống canh dồn”. Nó gợi lên sự gấp gáp liên tiếp của tiếng trống, nó gợi sự dồn dập của thời gian làm cho tâm trạng của con người thêm rối bời.
trong lúc đó thì tác giả cảm thấy ” trơ cái hồng nhan” đó là tâm trạng tủi hổ, bẽ bàng. Nó giống như cảnh Kiều bị bỏ rơi một mình ở lầu Ngưng Bích vậy. Còn “hồng nhan” lại chỉ vẻ đẹp của người thiếu nữ đi với ” cái” lại mang nghĩa rẻ rúng, khỉnh bỉ nhiều hơn. Câu thơ thể hiện tâm trạng bẽ bàng của tác giả trước không gian và thời gian đêm khuya.
Trong tâm trạng ấy, người phụ nữ tìm đến chén rượu:
” Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Mảnh trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Một bi kịch xảy ra khi trăng sắp tàn “bóng xế” mà lại “khuyết chưa tròn” để cho ta thấy rằng tuổi xuân của người phụ nữ sắp qua đi, sắp hết mà sao nhân duyên lại không trọn vẹn. Người phụ nữ ấy tìm đến chén rượu đê giải sầu để quên đi thực tại bẽ bàng này mà sao đắng cay quá “chén rượu hương đưa” hương rượu có vị đắng chát mà hương tình vẫn còn đó. ” say lại tỉnh” là hình ảnh gợi vòng luẩn quẩn tuần hoàn để họ càng thấy đau đớn hơn. Đọc câu thơ, ta lại nhớ đến tâm trạng của Kiều trong ” Nỗi thương mình”
” Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Xuân Hương đau đớn, ê trề hơn khi tình rượu là lúc bóng xế trăng tàn.
Sau đó, tác giả thểhiện nỗi phẫn uất của mình tan tỏa khắp trời đất ” Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám, Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn” Hình ảnh thiên nhiên trong hai câu thơ trên vô cùng đặc biệt. Chúng là những sinh vật nhỏ bé như đám rêu xanh kia mà cũng vô cùng cứng cỏi. Nó mọc xiên ngang mặt đất. Đá thì rắn chắc để ” đâm toạc chân mây”.
Biện pháp đảo ngữ đảo động từ lên trước “Xiên” ” đâm toạc” để thấy sự phẫn uất của thân phận đất đá, cỏ co nhỏ bé mà cũng rất ngang bướng, rắn rỏi. Chính câu thơ này đã thể hiện bản lĩnh của Xuân Hương rất mạnh mẽ. Nhưng rồi bà vẫn không thể thoát khỏi quy luật của trời đất:
” Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Bà cảm thấy chán ngán, ngán ngẩm trước nỗi đời bạc bẽo, éo le này. Bởi “xuân đi xuân lại lại” một vòng quy luật của tạo hoa. Từ ” xuân” ở đây mang hai nghĩa, nó không phải chỉ mùa xuân mà nó còn chỉ tuổi xuân. Mùa xuân thì cứ tuần hoàn trôi mỗi năm thì tuổi xuân của người phụ nữ cũng vậy.
Hai từ “lại lại” cũng rất đặc biệt, ” lại” đầu tiên chỉ thêm một lần nữa, còn ” lại” thứ hai lại là trở lại. Nghịch cảnh ấy lại đối lập với ” mảnh tình san sẻ” đã mảnh tình rồi lại phải phải san sẻ thành ít ỏi, chỉ còn lại ” tí con con”. Câu thơ đã thể hiện nỗi đau đớn vô cùng của thân phận làm lẽ. Nó thể hiện nỗi đau của người phụ nữ xưa khi có số phận éo le như vậy
Tự tình II là một bài thơ đặc sắc trong chùm thơ ba bài của Hồ Xuân Hương. Bài thơ mang nỗi buồn của người phụ nữ nhưng nó cũng mang sự cứng cỏi, mạnh mẽ đấm chất Bà Chúa Thơ Nôm. Bài thơ cũng thể hiện niềm khát khao hạnh phúc, khát vọng sống của người phụ nữ xưa.
Tiếp theo đón đọc 🌟 Nghị Luận Về Bài Thơ Nói Với Con 🌟 15 Bài Văn Ngắn Hay

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình Lớp 11 – Mẫu 13
Để hoàn thành tốt đề văn cảm nhận về bài thơ Tự tình lớp 11, dưới đây là bài văn mẫu đặc sắc cảm nhận về bài thơ Tự tình 11 để các em học sinh tham khảo.
Có những tác phẩm luôn được gắn liền với tên tuổi của người làm ra nó, chẳng hạn như nhắc đến Nguyễn Khuyến người ta nhớ ngay đến chìm thơ thu nổi tiếng của ông, nhắc đến Nguyễn Du người ta không thể nào không nói đến Truyện Kiều. Và Hồ Xuân Hương cũng thế, nhắc đến nữ thi sĩ này người ta nhớ nhất là chùm thơ Tự tình. Đặc biệt trong đó có bài thơ Tự tình II được nhiều người yêu mến và thích đọc nó. Phải chăng do nó nói lên chính tấm lòng của người phụ nữ kia nên được sự ưu ái của bạn đọc như thế ?
Bài thơ Tự tình II được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, viết theo ngôn ngữ môn thuần việt chính vì thế cấu trúc bài thơ cũng được chia thành bốn phần đề, thực, luận, kết. Mỗi phần gồm hai câu nói lên những tâm tư tình cảm của nhà thơ hay cũng chính là sự đồng cảm với số phận người phụ nữ bấy giờ.
Trong xã hội trọng nam khinh nữ ấy đã có lần Xuân Hương mạnh bạo nói lên câu: “Không chồng có chửa mới ngoan – Có chồng mà chửa thế gian có đầy”. Câu nói ấy không phải lăng loàn mà nó thể hiện sự bênh vực của Xuân Hương với những phụ nữ bị cưỡng hiếp nhục nhã khi bị người ta chê cười chửa hoang. Vì thế bài thơ Tự tình này cũng như đang nói lên tâm trạng của người phụ nữ thời xưa.
Hai câu thơ đầu mở ra một không gian của đêm buông tĩnh mịch, và trước cái đêm tĩnh lặng ấy cái tình của người phụ nữ mới bắt đầu chiếm lấy không gian ấy để mà thổn thức một mình:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Thời gian đêm khuya thường là lúc mọi cảnh vật chìm vào bóng tối và giấc ngủ thì người phụ nữ kia lại không thể ngủ được. Và chính không gian ấy đã góp phần làm cho tâm trạng tình cảm của người phụ nữ được bộc lộ ra rõ nét hơn. Hai chữ “văng vẳng” thể hiện tiếng động nơi xa xa vọng lại, đó là tiếng trống cầm canh, tiếng trống ấy không làm cho không gian nơi đây thêm phần huyên náo mà nó càng nhấn mạnh sự tịch mịch của đêm tối mà thôi.
Tiếng trống cầm canh thúc giục buổi sáng mai thức dậy còn người phụ nữ của chúng ta thì vẫn còn chưa ngủ được. Có lẽ nàng thao thức với những tâm tư chất chứa trong lòng mà không thể nói với ai, chỉ là những đêm khuya nàng nhớ lại chúng nên không thể nào nhắm mắt nổi. Động từ “trơ” thật hay khi nói lên trạng thái của hồng nhan kia.
Biện pháp tu từ đảo trật tự cú pháp trong câu như nhấn mạnh trạng thái ấy. Trơ có nghĩa là trơ trẽn hay trơ lì, dù hiểu thế nào đi nữa thì đó cũng là trạng thái cô đơn của nhà thơ khi đêm đến. Hồng nhan trơ mình với nước non, người phụ nữ lẻ loi cô đơn khi chịu cảnh làm vợ lẽ. Chẳng thế mà Xuân Hương từng có câu thơ về phận làm lẽ:
“Chém cha cái cảnh lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.”
Sang hai câu thực, nhà thơ tiếp tục thể hiện những suy tư chồng chất của mình. Làm sao có ai hiểu được tâm trạng ấy. Liệu rằng chúng ta có thể thấy được một cảnh tươi đẹp hơn nhưng than ôi không hề có, lại những câu thơ buồn được cất lên:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Trong sự cô đơn chua cay nghiệt ngã của thân phận làm vợ lẽ nhà thơ đã tìm đến rượu. Người ta tìm đến rượu khi vui để chúc tụng để cho hơi men làm cho nó thêm phần vui vẻ hơn, đương nhiên khi buồn người ta cũng tìm đến rượu để giải sầu. Từ xưa đến nay vẫn thế, Hồ Xuân Hương cũng vậy, bà quyết định tìm đến rượu để giải sầu.
Thế nhưng chính hơi men nồng ấm ấy lại không thể làm nguôi đi sự cô đơn, buồn bã của nhà thơ. Càng uống lại càng tỉnh, say nhưng rồi lại tỉnh, như vậy nỗi lòng, nỗi sầu đau của nhà thơ lớn đến mức rượu kia cũng không thể có tác dụng cho bà quên đi. Hình ảnh vầng trăng tượng trưng cho nhan sắc của người thiếu nữ ấy, đó là một vẻ đẹp lung linh huyền ảo, đằm thắm mà dịu dàng.
Thế nhưng vầng trăng kia lại xế bóng khuyết chưa tròn phải chăng đó là sự tương đồng với nhan sắc của nhà thơ. Xuân Hương nghĩ nhan sắc mình ngày càng một tàn đi giống như vầng trăng kia cũng xế bóng thế mà chưa tìm được một tình yêu đôi lứa thật sự. Buồn lại càng thêm buồn.
Tiếp đến hai câu luận, nhà thơ thể hiện nỗi đau của phái đẹp trong xã hội phong kiến mục nát lúc bấy giờ:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Nghệ thuật đảo trật tự cú pháp một lần nữa lại được nhà thơ sử dụng một cách triệt để và hiệu quả. Nào là “xiên ngang” rồi lại “đâm toạc” đó là những động từ mạnh mẽ thể hiện sức sống của những cây rêu, hòn đá kia. Đó là khả năng sinh tồn của những sinh vật nhỏ bé, dường như trong không gian u mịch và thời gian đêm khuya ấy nhà thơ đang ngắm nghía phát hiện những sự vật hiện tượng trong bóng đêm đó.
Tuy nhiên chẳng có lẽ nhà thơ chỉ ngắm nhìn nó thôi sao, tác giả còn gửi thân phận của mình vào từng cảnh vật. Đám rêu kia hay chính là thân liễu đào tơ yếu ớt của phái nữ, hòn đá kia như thể hiện sự nhỏ bé của người phụ nữ trong xã hội lạc hậu lỗi thời. Những động từ mạnh kia giống như sự phá phách của Xuân Hương nó mãnh liệt như khát vọng đi tìm hạnh phúc vậy.
Hai câu thơ cuối bài nhà thơ nêu lên quy luật của tự nhiên vĩnh hằng cái vô hạn đối lập cái hữu hạn trong chính thiên nhiên và con người:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Nếu Xuân Diệu có câu thơ “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn – Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” thì Xuân Hương cũng có hai câu thơ trên nói về sự việc này, quy luật này. Động từ ngán thể hiện sự buồn bã chán nản của Hồ Xuân Hương khi mỗi mùa xuân trôi đi mang theo tuổi tác và vẻ đẹp của người phụ nữ. Nhà thơ Xuân Diệu thật đúng khi viết:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian”
Tuổi trẻ tuổi thanh xuân là vô cùng hiếm hoi và quý giá vì thế cho nên Xuân Diệu, Xuân Hương hay chính chúng ta đều giữ gìn nó muốn nó mãi mãi tồn tại với mình. Thế nhưng quy luật tự nhiên không thể như thế được, ở đây Xuân Hương cũng vậy, tuổi trẻ của bà chưa tìm được một tình yêu đôi lứa hạnh phúc vậy mà thời gian thì cứ trôi nhanh mang theo những nhan sắc vẻ đẹp của mình.
Xuân này qua đi xuân khác lại đến mỗi một mùa xuân qua đi rồi lại một mùa xuân khác quay lại nó cứ tuần hoàn chảy trôi như thế mặc cho những dự định của con người còn dang dở chưa hoàn thành, mặc cho tuổi trẻ kia không thắm lại thêm lần nữa. Nhà thơ đã khéo sổ cái vô hạn với cái hữu hạn là như vậy. Mùa xuân cứ trôi còn người phụ nữ kia ngày càng thêm già mặc cho nàng chưa tìm được bến bờ hạnh phúc. Thời gian có đợi chờ ai bao giờ và Hồ Xuân Hương của chúng ta vẫn ngậm ngùi san sẻ một mối tình.
Theo quy luật thông thường tình yêu là của hai người nhưng trong xã hội cũ những mảnh tình ấy được san sẻ thành nhiều mảnh, đó là những mảnh ghép tình mà khiến cho người phụ nữ buồn bã. Mảnh tình vốn con con mà lại phải san sẻ cho người khác qua đó ta thấy được xã hội cũ đã chà đạp lên hạnh phúc và tinh thần người phụ nữ như thế nào, trai thì năm thê bảy thiếp con gái thì chỉ vẻn vẹn chung thủy một người chồng.
Như vậy qua đây ta thấy yêu mến Hồ Xuân Hương cũng như quý trọng những người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ phải chịu đựng những niềm đau nỗi buồn của cảnh lấy chồng chung, bị hắt hủi một mình trong đêm dài quạnh quẽ. Qua đó nhà thơ cũng nói về chính bản thân mình, có thể thấy bà đã góp một phần nói lên tiếng nói chua chát đau khổ của người phụ nữ trong xã hội xưa và chính vì thế Xuân Hương là cái tên mà mọi người vô cùng yêu mến vì những vần thơ hay bênh vực người phụ nữ.
Xuân Hương đại diện cho tất cả những người phụ nữ thời trung đại nói lên những điều thầm kín trong lòng mình. Phải chăng đã góp phần làm nên tên tuổi của bà trong nền văn học trung đại Việt Nam? Xuân Hương là cái tên người ta nhớ đến nhiều nhất khi nhắc đến những thi sĩ nữ của văn học trung đại.
SCR.VN tặng bạn 💧 Bình Giảng Đất Nước 💧 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình 1 – Mẫu 14
Bài thơ Tự tình I cũng là tác phẩm đã làm nên tên tuổi của Hồ Xuân Hương. Đón đọc dưới đây văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tự tình 1 với những ý văn hay.
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nữ nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc. Đối với người Việt Nam, tên tuổi của Hồ Xuân Hương quen thuộc không kém bất cứ một nhà thơ nào. Bà là “Chúa thơ Nôm” là con của Hồ Phi Diễn (1706-1783), quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và một người thiếp quê ở Hải Dương”.
Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng. Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục.
Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam, “là nhà thơ độc đáo có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc”. Chùm thơ “Tự tình” gồm 3 bài có thể nói là một trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của Hồ Xuân Hương. Trong đó bài Tự tình 1 thể hiện sâu sắc nỗi buồn, là lời tâm sự của nhà thơ về số phận lẻ loi và niềm khát khao được hạnh phúc, được người quân tử yêu thương.
Mở đầu bài thơ, hai cậu đề gợi ra một không gian bao la, mờ mịt từ bom thuyền ở nơi dòng sông đến khắp mọi chòm xóm, thôn làng. Người phụ nữ thao thức suốt những canh dài. Tiếng gà gáy “văng vẳng” trên bom thuyền từ xa đưa tới. Đêm dài chuyển canh, mịt mùng vắng lặng mới nghe thấy tiếng gà gáy “văng vẳng” như thế.
Nghệ thuật lấy động (tiếng gà gáy) để diễn tả cái tĩnh lặng vắng vẻ của đêm dài nơi làng quê đã góp phần làm nổi bật tâm trạng “oán hận” của người phụ nữ thao thức suốt những canh trường. Nàng ngồi dậy, lắng tai nghe tiếng gà gáy sang canh, rồi “trông ra” màn đêm mịt mùng. Màn đêm như bủa vây người phụ nữ trong nỗi buồn cô đơn, oán hận:
“Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom,
Oán hận trông xa khắp mọi chòm”.
Hai câu 3, 4 trong phần thực, tác giả tạo ra hai hình ảnh “mõ thảm” và “chuông sầu” đốì nhau, hô ứng nhau, cực tả nỗi đau khổ, sầu tủi của riêng mình đang sống trong cảnh ngộ quá lứa lỡ thì, trắc trở trong tình duyên, vần thơ đầy ám ảnh. Phủ định để khẳng định tiếng “cốc” của “mõ thảm”, tiếng “om” của “chuông sầu”. Nữ sĩ đã và đang trải qua những đêm dài thao thức và cô đơn, đau cho nỗi đau của đời mình cô đơn như “mõ thảm”, chẳng ai khua “mà cũng cốc”, tủi cho nỗi tủi của riêng mình lẻ bóng chăn đơn như “chuông sầu” chẳng đánh “cớ sao om”.
Nỗi oán hận, đau buồn sầu tủi như thấm vào đáy dạ, tê tái xót xa, như đang toả rộng trong không gian “khắp mọi chòm”, như kéo dài theo thời gian của những đêm dài. “Om” là tiếng tượng thanh, tiếng chuông sầu, cũng là gợi tả nỗi thảm sầu tê tái, đau đớn đến cực độ. Câu hỏi tu từ đã làm cho giọng thơ thảm thiết, xoáy sâu vào lòng người như một lời than, như một tiếng thở dài tự thương mình trong nỗi buồn ngao ngán:
“Mõ thảm không khua mà cũng cốc,
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om?”
Có biết thời con gái, Hồ Xuân Hương đã có những vần thơ tươi xinh, phơi phới như “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” (Bánh trôi nước), “Hai hàng chân ngọc duỗi song song” (Đánh đu),… ta mới thấy hết nỗi thảm sầu về bi kịch cô đơn của nữ sĩ được diễn tả tê tái trong hai câu trong phần thực này.
Lời than tự tình trong cô đơn được khơi sâu trong phần luận, để mà “rầu rĩ” thêm, giận hờn thêm cho duyên phận hẩm hiu:
“Trước nghe” đối với “sau giận”; “tiếng” hô ứng với “duyên”-, “rầu rĩ” là tâm trạng đối với “mõm mòm” là trạng thái. “Trước nghe nhưng tiếng…”, là những tiếng gì? – Tiếng của miệng thế? Hay tiếng gà văng vẳng gáy, tiếng “chuông sầu”, tiếng “mõ thảm” đáng “cốc”, đang “om” trong lòng mình?
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ,
Sau giận vì duyên để mõm mòm.
Giữa cảnh khuya thao thức, càng nghe càng thêm “rầu rĩ”, buồn tủi. Giữa lúc tàn canh thao thức, càng nghe càng “giận”, càng hờn về tình duyên bẽ bàng. Tình duyên của mình được ví với trái cây, không còn “má hây hây gió” (Xuân Diệu) nữa mà đã chín “mõm mòm”, nghĩa là quá chín, đã nẫu đi! “Duyên mõm mòm” là duyên phận hẩm hiu, quá lứa lỡ thì!
Trong câu thơ như có nhiều lệ, nhiều tiếng thở dài, vừa than thân trách phận, vừa buồn tủi về con đường tình duyên. Tiếng thơ tự tình của Hồ Xuân Hương là lời than tự thương mình, đồng thời thương cho những người đàn bà cùng cảnh ngộ đã luống tuổi mà vẫn cô đơn lẻ bóng: “Giật mình mình lại thương mình xót xa” (Truyện Kiều)
Phần kết xuất hiện một tứ thơ rất lạ. Như một sự thách đố với số phận, với duyên số. Nữ sĩ vẫn bướng bỉnh trước bi kịch cô đơn của mình khi “duyên để mõm mòm” rồi:
“Tài tử văn nhân ai đó tá!
Thân này đâu đã chịu già tom!”
Vừa nghi vấn, vừa cảm thán, hai câu kết đầy nghịch lí. Nữ sĩ như vẫn còn tin vào tài năng của mình có thể làm xoay chuyển được duyên phận, vẫn hi vọng tìm được bạn đời trăm năm trong đám tài tử văn nhân. Câu 6 nữ sĩ viết: “Sau giận vì duyên để mõm mòm”, câu 8 bà lại viết: “Thân này đâu đã chịu già tom!”. “Già tom” nghĩa là rất già, già hẳn! Đó là một cách “nói cứng” thể hiện một thái độ “bướng bỉnh”, một bản lĩnh cứng cỏi trước ngang trái cuộc đời.
Đọc chùm thơ “Tự tình” cũng như tìm hiểu cuộc đời của nữ sĩ, về mặt tình duyên, ta thấy hạnh phúc tình yêu chưa một lần mỉm cười với Xuân Hương. Bài thơ “Cảm cựu kiêm trình cần chánh học sĩ Nguyên Hầu” (Nhớ người cũ, viết gửi cần chánh học sĩ Nguyễn Du – tước hầu) như một bóng quang âm soi tỏ một “mảnh tình riêng” của “bà chúa thơ Nôm”, giúp ta cảm nhận bài thơ “Tự tình” này:
“Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gởi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son cùng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu mấy,
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong”
Bài thơ “Tự tình” gieo vần “om”, 5 vần thơ, vần nào cũng hóc hiểm, tài tình: “bom-chòm-tìm-mòm-tom”. Những vần thơ hóc hiểm ấy, một mặt thể hiện bút pháp điêu luyện, mặt khác đã tạo nên nhạc điệu, âm điệu như thắt, như nén lại cái “oán”, cái “hận”, cái “ngang bướng” của một tâm trạng; một cá tính rất Xuân Hương.
Duyên số và hạnh phúc tình yêu của người phụ nữ là nội dung đầy ám ảnh đối với mỗi chúng ta khi đọc bài thơ “Tự tình” này của Xuân Hương. “Tự tình” là tiếng than thân trách phận cho nỗi buồn cô đơn, về bi kịch tình yêu, là niềm khao khát hạnh phúc của người phụ nữ. Vì lẽ đó, “Tự tình” mang giá trị nhân bản sâu sắc.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Bình Giảng Câu Cá Mùa Thu 🔥 Bình Giảng Thu Điếu

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tự Tình 3 – Mẫu 15
Đón đọc văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tự tình 3 sẽ giúp các em học sinh trau dồi cho mình cách diễn đạt hay và những cảm thụ văn học sâu sắc.
Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của xã hội trung đại xưa. Người đời tôn vinh bà là “Bà Chúa thơ Nôm”. Trong những vần thơ của bà, tất cả thể hiện tiếng nói và sự đồng cảm với thân phận người phụ nữ. Trong đó, tác phẩm “Tự tình” của Hồ Xuân Hương được coi là bài thơ bộc lộ những nổi tủi hờn, cay đắng của người phụ nữ. Đồng thời, bài thơ cũng nói lên nỗi niềm của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Đặc biệt Tự tình 3 là bài thơ nổi tiếng nói lên nỗi lòng “khắc khoải” của người phụ nữ.
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Nếu ở bài Tự tình I mở đầu bằng âm thanh văng vẳng tiếng gà gáy, thì bài tự tình III lại mượn hình thượng một chiếc bách đầy tâm trạng. Chiếc bách chính là biểu tượng của tâm trạng buồn về thân phận nổi lênh đênh. Chiếc bánh chính là người con gái giữa dòng đời, lênh đênh xô đẩy giữa cuộc đời buồn thay của chính mình “giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”.
Theo dòng suy tưởng, ý thơ giữa dòng sông lênh đênh là hình ảnh chiếc bách nổi chìm không biết trôi về đâu, mà đó chính là hình tượng của dòng đời rộng lớn, hình ảnh người phụ nữ góa trẻ cũng không biết nương tựa vào đâu.
Hai câu thơ tiếp theo cũng diễn tả nỗi truân chuyên của người phụ nữ góa trẻ trong thời phong kiến:
Lưng khoang tình nghĩa đường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Tình và nghĩa vẫn dạt dào. Tuy nhiên, sóng gió cứ ập đến và đe dọa đánh vào mạn thuyền. Hai câu thơ trên mang nỗi buồn, sự chán chường về thân phận người phụ nữ. Lòng người muốn bình yên, nhưng gió không khi nào lặng. Đời người đàn bà trong xã hội xưa ít khi được hạnh phúc. Hạnh phúc dường như đã từng nằm trong tầm tay của họ, nhưng nó cũng tan vỡ. Thế là bỗng dưng đứt gánh giữa đường.
Bốn câu là tâm trạng đau buồn của người đàn bà góa bụa còn xuân sắc, hai câu tiếp theo thể hiện sự buông xuôi cho số phận của người phụ nữ:
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến.
Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
Trong ý thơ, người phụ nữ không quan tâm đến việc ai đó cầm lái đưa con tàu vào bến. Dù có để cánh buồm lướt qua thác ghềnh, họ cũng không quan tâm. Động từ “mặc” có thể chỉ ra sự buông xuôi thực sự ở đây. Cuộc sống của người phụ trẻ quá bụa giờ đây giống như con tàu lênh đênh trên biển khơi, ai muốn chèo lái chèo cũng không còn là vấn đề.
Cả câu thơ nói lên sự bất lực của người phụ nữ trong xã hội cổ đại. Ngay cả khi cầu mong mình may mắn, họ cũng không thể thay đổi hoàn cảnh hay số phận của mình. Họ không thể thay đổi sự thật trần trụi của xã hội rằng dòng nước biển khơi lênh đênh quyết định thân phận của người phụ nữ mà không cưỡng lại được.
Hai câu thơ cuối khép lại với những chán chường:
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.
Nhiều động từ thể hiện sự chấp nhận, chẳng hạn như “cam lòng”, “ôm nỗi”. Tác giả tự hỏi liệu có ai sẽ đến với mình? Và nếu có ai đó đến họ cũng sẽ chấp nhận mà không thể cưỡng lại được… Người phụ nữ trong xã hội xưa còn nhỏ bé, bị áp bức, hà khắc thì thân phận của một người góa phụ trẻ còn đáng buồn hơn. Các góa phụ trẻ không còn lựa chọn nào khác, ai muốn đẩy thuyền thì đẩy. Tức là ôm nỗi đau vào lòng.
Hồ Xuân Hương thấu hiểu nỗi đau, nỗi oan, sự bất công của người phụ nữ nên đã dùng thơ để nói lên nỗi lòng của mình. Bà là đại diện cho những người phụ nữ mạnh mẽ, kêu gọi quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và lên án sự bất công, khắc nghiệt của xã hội. Tự tình 3 khắc hoạ hiện thực xã hội phong kiến. Bất công, hà khắc với phụ nữ. Qua đây chúng ta hiểu và thông cảm hơn với những người phụ nữ của xã hội cũ.
Tham khảo văn mẫu ☀️ Nghị Luận Bài Ca Ngất Ngưởng ☀️ 15 Bài Văn Hay Nhất

Hôm nay Kiến Guru gửi đến các bạn nội dung bài viết Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 của “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương! Qua bài soạn do Kiên Guru hướng dẫn, mong rằng các em sẽ phần nào cảm nhận được nỗi xót xa, phẫn uất trước sự xoay vần của số phận và khát vọng được sống, được hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Cùng tham khảo bài viết của Ki nhé!
I. Vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
Trước hết, đăng Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 Xin dành vài dòng giới thiệu về tác giả Hồ Xuân Hương. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn chưa đưa ra tài liệu chính xác về năm sinh và năm mất của Hồ Xuân Hương – một nữ sĩ tài sắc vẹn toàn quê Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Tuy quê ở Nghệ An nhưng bà lại sống gắn bó với mảnh đất Thăng Long ngàn năm văn hiến. Hồ Xuân Hương may mắn có cơ hội được đi nhiều nơi, kết bạn với nhiều nghệ sĩ nổi tiếng nhưng có một điều không may mắn đối với bà là cuộc sống và tình yêu có nhiều mâu thuẫn, tréo ngoe.
Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm” vì đã đóng góp cho đời những bài thơ Nôm có giá trị (Hồ Xuân Hương sáng gồm thơ chữ Hán và thơ Nôm, nhưng thơ Nôm có phần nổi bật hơn). Theo các tài liệu truyền thống, tên tuổi Hồ Xuân Hương vang danh với hơn 40 bài thơ Nôm. Ngoài ra, Hồ Xuân Hương còn có tập “Lưu Hương ký” gồm 24 bài chữ Hán và 26 bài chữ Nôm. Hồ Xuân Hương để lại ấn tượng trong lòng người đọc với phong cách trào phúng mà trữ tình, giàu chất dân gian. Với phong cách đó, chị thường chọn nội dung về phụ nữ để thể hiện tiếng nói đồng cảm, đồng thời khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.
Nguồn: Internet
2. Tình Thơ 2
Khi cảm thấy Bài thơ tự tình 2, chúng ta cũng cần giới thiệu vài nét về tác phẩm. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, nằm trong chùm thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Chùm thơ nói chung và khổ thơ này nói riêng là dịp để nhà thơ bộc lộ cảm xúc trước số phận của mình.
II. Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2
1. Hai câu chủ đề
Hai nhan đề đã nói lên nỗi niềm của thi nhân trước cảnh vắng lặng về đêm. Khoảnh khắc ấy được gợi lên rất rõ qua các từ “đêm khuya”, “lãng phí” và càng trở nên dữ dội hơn khi “tiếng trống canh” giục giã không ngừng. Nhịp đập của thời gian cũng là nhịp trống của tâm trạng. Chính tiếng trống ấy đã phần nào gợi lên sức tàn phá của thời gian bởi nó được cảm nhận bởi cảm giác cô đơn, khắc khoải trước thời gian trôi.
Từ khung cảnh ấy, nhà thơ gửi gắm chút ý nghĩa về nỗi tủi nhục của số phận. Nếu từ “trơ” có tác dụng nhấn mạnh thì sự kết hợp giữa “mặt đỏ” với từ “
cái” ở phía sau hàm ý cay đắng, ngậm ngùi. Nhưng bên cạnh đó, “trơ” còn được hiểu là sự thử thách, bản lĩnh của người phụ nữ cá tính như nhân vật trữ tình.
Nguồn: Internet
2. Hai câu thực
Hai câu tiếp theo tả rõ hơn cảnh và tình nhân vật. Trong những giờ khuya chủ thể trữ tình đã thức, ít nhiều cũng phải có tâm sự. Hình ảnh “chén hương trao” là sự khẳng định điều đó bởi chén rượu nhâm nhi trong đêm là chén rượu chất chứa vô vàn tâm tư. Cụm từ “say cho tỉnh” như gợi lên một sự luẩn quẩn, rối rắm không sao giải quyết được.
Hình ảnh “vầng trăng” lúc “bóng xế” với bản chất “khuyết chưa tròn” dường như thấp thoáng trong thân phận người con gái. Với cô, tuổi trẻ dường như đã dần trôi qua nhưng tình yêu thì vẫn còn dang dở.
3. Hai bài luận
Cặp câu thứ ba của bài đã nói lên khát vọng mãnh liệt của con người. Những sinh vật nhỏ bé như “rêu”, “đá” phải lớn lên “xẻo ngang mặt đất” và “đè mây” như một cách để chống lại ngoại cảnh và tồn tại. Tác giả dường như đã mượn hình ảnh ấy để nói hộ tâm trạng của mình.
Cặp câu sử dụng hình ảnh mạnh mẽ, từ ngữ độc đáo đã gián tiếp thể hiện một tâm hồn tràn đầy sức sống và khát vọng mãnh liệt của nữ sĩ họ Hồ. Ngay trong nghịch cảnh, dù bị đàn áp, đánh đập nhưng vẫn kiên cường, dũng cảm.
4. Hai câu kết
“Mệt mỏi của mùa xuân và mùa xuân trở lại,
Một mảnh tình sẻ chia con nhỏ!”
Nguồn: Internet
Hai câu thơ cuối là điểm nhấn của truyện cảm nhận bài thơ Tự tình biểu hiện rõ nét của sự chán chường, buồn bã trước cuộc đời. Trong khi “xuân đi” và “xuân về”, thiên nhiên vẫn xoay vần như ngàn đời, nhưng tuổi trẻ một thời đã qua với con người thì không bao giờ trở lại.
Câu thơ cuối giúp người đọc dễ hình dung là một bài thơ mang tâm trạng của một trạng nguyên. Nói vậy vì “tình yêu bé nhỏ” phải “sẻ chia” để rồi trở thành “đứa nhỏ” thật chua xót và đáng thương. Câu thơ khép lại khiến người đọc chạnh lòng thương cho những “hồng nhan” trong xã hội phong kiến xưa khi phải chịu cảnh lấy phải người chồng chung. Với họ, có lẽ hạnh phúc trong gang tấc, người này no đủ, kẻ khác lạc lõng, bơ vơ.
Với cách tổ chức bài học Cảm nhận về bài thơ Tự tình 2 Trên đây nhóm biên tập Blog mong muốn mang đến cho các em học sinh cái nhìn tổng quan về tác phẩm để có thêm một kênh tham khảo cho việc soạn bài văn của mình một cách đầy đủ và hoàn hảo nhất. . Chúc các em có những bài văn ưng ý và học tốt!
Nhằm giúp các bạn học sinh có nhiều kiến thức và nắm vững nội dung bài học, bài viết dưới đây chúng minh gửi đến bạn đọc bài viết Cảm nhận bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương hay nhất. Cùng tham khảo nhé.
1. Dàn ý Cảm nhận bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương hay nhất:
1.1. Mở bài:
– Giới thiệu về bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương: “Bà chúa thơ Nôm” có chùm thơ “Tự tình” gồm ba bài thơ, là tiếng nói của số phận con người, là những khát khao, nỗi niềm của kiếp người. . . Đặc biệt, bài thơ “Tự tình II” thể hiện rõ tâm trạng, thái độ của nữ sĩ: vừa xót xa, chán nản trước nghịch cảnh vừa khát khao vươn lên nhưng rồi vẫn rơi vào bi kịch.
1.2. Thân bài:
– Bốn dòng mở đầu bài thơ thể hiện hoàn cảnh, tâm trạng của nữ sĩ
Trường hợp:
Thời gian nghệ thuật: đêm khuya.
Tiếng trống giữa đêm báo hiệu bước chuẩn bị của thời gian
+ Tâm trạng buồn của nữ sĩ:
Những từ ngữ có giá trị biểu cảm đã được dùng để bộc lộ tâm trạng: “Trơ” đặt ở đầu câu kết hợp đảo ngữ nhằm nhấn mạnh cảm giác hổ thẹn, chai sạn. Hai từ “đỏm dáng” đi ngược lại với từ “sự” gợi cảm giác rẻ rúng, bóng bẩy của thân xác.
“Vầng trăng khuyết” (trăng sắp tàn) nhưng vẫn còn “đầy” trở thành một ẩn dụ, nhấn mạnh hai lần bi kịch của cuộc đời nữ sĩ: tuổi trẻ đã qua nhưng nhân duyên vẫn chưa trọn vẹn.
– Nhận thức sâu sắc bi kịch tình yêu, tác giả không chỉ xấu hổ, hổ thẹn mà còn phẫn uất.
+ Những bức tranh thiên nhiên hiện lên với những nét nổi bật của thạch cao và đá tồn tại mạnh mẽ: “vượt mặt đất”, “đâm đến chân mây”.
+ Phương pháp đảo ngữ đặt động từ mạnh ở đầu câu:
Làm nổi bật sức sống đáng sợ của cây cỏ
Ẩn dụ cho tâm trạng mãn nguyện vượt qua nghịch cảnh của tác giả.
– Đoạn thơ kết thúc với cảm giác về thời gian, thể hiện sự chán chường, buồn bã.
+ “Chán” mang sắc thái chán chường, buồn chán.
+ Từ “xuân” được lặp lại hai lần mang sắc thái ngữ nghĩa khác nhau: vừa xuân vừa xuân.
+ Hai từ “lại” trong câu “xuân đi xuân lại” cũng được dùng với hai sắc thái ý nghĩa khác nhau: từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa, còn từ “lại” thứ hai là hai nghĩa trở lại, gợi lên một sự kiện tuần hoàn, để lặp lại
1.3. Kết luận:
Đánh giá đúng giá trị của bài thơ: Bài thơ “Tự tình II” đã thể hiện sâu sắc niềm khao khát sống, tự do, hạnh phúc của tâm hồn người phụ nữ dịu dàng, đằm thắm. ôm mạnh. Tất cả đã được thể hiện qua sự tài hoa trong kỹ thuật dùng từ và xây dựng hình tượng “Bà Chúa Thơ Nôm”.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương hay nhất
2. Cảm nhận bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương hay nhất:
Niculin, người Nga, nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, phát hiện ra rằng văn học dân gian trung đại Việt Nam không được thừa nhận trong lĩnh vực thơ ca cao cấp.
Trong thực tế, lịch sử văn học trung đại Việt Nam vẫn có quy luật này: hai bộ phận văn học dân gian và văn học viết tồn tại và phát triển, nhưng xuyên suốt các trường đoạn lịch sử, luôn có sự tác động qua lại. Khi tinh hoa của hai bộ phận này hội tụ trong những cá tính sáng tạo nhất định, trong những điều kiện lịch sử nhất định, đất nước lại xuất hiện những thiên tài văn chương bằng thơ văn. bất tử. Đó là trường hợp của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,…
Tuy nhiên, ở Hồ Xuân Hương, quy luật này vẫn có một khía cạnh đặc biệt khác thường. Đây là trường hợp tư tưởng dân gian chiếm ưu thế. Chắc chắn tư tưởng chính thống mà các tác giả Nho giáo, kể cả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du cũng không thể phủ nhận hoàn toàn. Một tinh thần nổi loạn quyết san bằng mọi đẳng cấp trong xã hội, khát khao được sống và hưởng hạnh phúc theo nghĩa thiết thực nhất, nhân bản nhất, trần tục nhất, chống lại mọi ràng buộc của lễ xuất gia. Kiến và tất cả những gì trái với tự nhiên – hệ tư tưởng đặc biệt tôn vinh phụ nữ là đối tượng bị coi thường nhất trong xã hội phong kiến – và lấy Quy luật tạo hóa làm chuẩn mực, đề cao cuộc sống tự nhiên như trời. đất đai hòa hợp, âm dương giao hòa. Một thứ tư tưởng bắt nguồn trực tiếp từ nghi lễ thờ cúng sinh khí, từ những lễ hội trọng nam khinh nữ tồn tại mãi ở nhiều làng quê Việt Nam, từ những bức tranh Đông Hồ như bắt dừa, đánh ghen hay tranh khắc gỗ Thiếu nữ tắm gội. ao còn đó ở đình Thổ Tang, Vĩnh Phúc, từ những câu chuyện cổ tích, Trạng Quỳnh, Trạng Lớn hay những câu ca dao rất nên thơ:
– Không chồng mà chửa mới ngoan,
Có chồng mà chửa thế gian đã nhiều.
– Có chồng càng dễ chơi ngang,
Đẻ ra con thiếp còn chàng con ai.
– Lẳng lơ cũng chẳng có mòn,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ.
Tư tưởng ấy đã tạo cho Hồ Xuân Hương một nhãn quan độc đáo về thế giới: nhìn đâu cũng thấy Tạo hóa sinh sôi, âm dương hòa hợp, một thế giới trẻ trung, sinh động, tươi mới và hưng thịnh. , đầy tình dục…
Sự tấn công mạnh mẽ và chiếm lĩnh nội dung chủ yếu của văn chương bác học như vậy chỉ có thể xuất hiện trong thời đại mà chế độ phong kiến đang khủng hoảng sâu sắc, thời đại dân ấm. Đó là thời đại từ Nam chí Bắc, các cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra mà đỉnh cao là phong trào Tây Sơn phế truất vua Lê, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, lật đổ chúa Nguyễn ở Đàng Trong, đứng lên khởi nghĩa. cách mạng. thẳng đến nhà vua. Anh hùng nông dân Vị “vua áo vải” này với tinh thần quần chúng như nước thủy triều dâng, đã tàn sát quân Xiêm ở phương Nam và đánh tan hàng vạn quân Thanh ở phương Bắc.
Phải coi thơ Xuân Hương là sự bùng nổ trực tiếp của tinh thần ấy thì mới hiểu được tinh thần rất bình dân của người nữ trí thức này. Tất nhiên, Hồ Xuân Hương không phải là một hiện tượng cá biệt mà là một bộ phận của cả một trào lưu văn học đầy tính nhân văn cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Nhưng phải nói rằng, ở nhà thơ này, sự “xâm lấn” của tinh thần dân gian vào văn học viết vẫn là nổi bật nhất. Nếu các bạn còn nhớ, cho đến đầu thế kỷ XX, các nhà Nho cấp tiến như Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng vẫn coi Truyện Kiều là phản văn, Cổ Kiều là tờ thì có thể hình dung đến thế kỷ XVIII này. , giới Nho sĩ đã phản ứng dữ dội thế nào trước những vần thơ đi trước thời đại của Hồ Xuân Hương.
Nhưng làm sao khát vọng giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ của Xuân Hương có thể thành hiện thực trong thời điểm này? Cũng như triều đại Tây Sơn cuối cùng rơi vào khủng hoảng để Nguyễn Ánh quay trở lại khôi phục nền chuyên quyền nặng nề. Vì vậy, khuôn khổ của chế độ phong kiến trở nên quá khó đối với sức sống và tư tưởng phóng khoáng của Xuân Hương; nhưng ngược lại, dù có phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt đến đâu thì cuối cùng Xuân Hương cũng không thể thoát khỏi sự cho phép của chế độ. Có thể nói, Xuân Hương là nỗi thất vọng, tức tối của các sử gia Việt Nam cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 muốn tìm lối thoát mà không tìm được. Bi kịch lịch sử này trùng với bi kịch cá nhân của người phụ nữ họ Hồ, một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, có ý thức về cá nhân, quyền sống, quyền hạnh phúc của con cái. một người phụ nữ, vậy mà suốt đời chịu nhiều bất hạnh: một lần làm điều phải, hai lần lấy chồng!
Nỗi bức bối, nỗi ấm ức vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính lịch sử đã tạo nên một nội dung riêng và một giọng điệu riêng của thơ Hồ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương sáng tác chùm ba bài Tự Tình (Kiến Tâm) đánh số I, II, III.
Căn cứ vào ý thơ và giọng thơ, các nhà nghiên cứu cho rằng ba bài Tình ca đều được làm khi nhà thơ đã có tài nên phải khao khát hương vị chua cay của phận côi goá. . Nghĩ lại những ngày đã qua, thiếu vắng người phụ nữ – nhà thơ “Giật mình thấy thương mình”. Nhưng khác với Thúy Kiều, cái tôi của Xuân Hương dù bế tắc vẫn không hoàn toàn buông xuôi, dù bất lực nàng vẫn không chịu buông xuôi.
Bài thứ nhất (Tự tình) lấy cảm hứng từ lúc gà trống báo trời sáng (“Tiếng gà gáy trên bom”); Bài hát thứ hai (Tự Tình II) lấy cảm hứng từ đêm khuya (“Đêm khuya hứa thu hồi trống tan”). Đó là giây phút của hạnh phúc lứa đôi, của vợ chồng sum họp, nên cũng là giây phút người vợ yếu đuối hay người đi cùng cảm nhận đầy đủ nhất, sâu nhất, rộng mở nhất nỗi cô đơn, bất hạnh. hạnh phúc của bản sắc của một người:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Đêm đã khuya mà nhà thơ vẫn thao thức – vì không ngủ được hay không muốn ngủ? – ngồi nghe tiếng trống canh nơi pháo đài vang lên, bâng khuâng nhớ lại thời gian như đuổi nhau đi, trôi qua một cách uổng phí và vô nghĩa trên khuôn mặt phơi nắng của người phụ nữ còn khao khát hạnh phúc nhưng lại đau khổ. chăn đơn, gối, chăn, v.v.
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Ngôn từ của Xuân Hương luôn trần trụi một cách tàn nhẫn như vậy
Khi nhà thơ dùng hai từ “hồng nhan” có nghĩa là ở người thiếu nữ ấy sắc xuân vẫn còn, tình xuân chưa khát khao mà đành “buông ra” không tiếc nuối. Có người hiểu từ “trơ” theo nghĩa trơ ra, không còn cảm giác: “Đau thương xót dần, ăn sâu vào xương, biến con người thành vật vô tri vô giác”. Đây là cách hiểu chữ độc trong thơ Bà Huyện Thanh Quan: “Đá độc thải gan trăng”. Tôi cho rằng hiểu thơ như thế là trái với tư tưởng của tác giả trong bài Tự tình (Điều II) này. Người phụ nữ này tuy đã trải qua nhiều bất hạnh nhưng tâm hồn luôn hừng hực, luôn sục sôi, một tâm trạng bồn chồn tắm rửa, có thể diễn tả bằng hai câu thực tế:
Chén rượu hương đưa say lại tĩnh,
Vầng trâng bóng xế khuyết chưa tròn.
Uống rượu để quên đời nhưng không thể quên: “say đến tỉnh”, khao khát được phơi phới nhưng nhìn trời chỉ thấy trăng khuyết đêm khuya.
Nhưng đây mới là tính cách và ngôn ngữ thật của Xuân Hương:
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Thế giới biểu tượng của thơ Xuân Hương luôn sôi động và ồn ào như thế. Đó là không gian và thời gian trần tục, trần tục nên luôn năng động, sôi sục, đối lập với không khí tĩnh lặng, phi thời gian của thơ cổ (“Thảm không kêu mà cũng kêu – Chuông chẳng buồn phiền om. ?”; “Đặt cành đưa cành cho thông gió – Lá liễu gieo sương”; “Gió hiu hiu triền non – Sóng dạt dào mặt nước” v.v… Ngay cả màu sắc trong thơ Xuân Hương cũng có lúc muốn hét lên, muốn hét lên: “Cửa đỏ son ậm ừ mái nhà – Đá xanh xùy cày”; “Trăng chín thu mõm đốt – Đọt đỏ, chồi đỏ”,…).
Tuy nhiên, âm thanh hay màu sắc, dù sao cũng tự nó phát ra âm thanh hoặc hiện ra xanh, vàng, trắng, đỏ, v.v… Nhà thơ chỉ cần phóng to, tô đậm để trở thành âm thanh và màu sắc. Sắc riêng của Xuân Hương. Nhưng dưới ngòi bút của nữ thi sĩ họ Hồ, ngay cả những vật hoàn toàn đứng yên, hoàn toàn bất động cũng tự động trở thành những vật có thể tung hoành, mò mẫm, va đập: “Xiên ngang đất từng nổ – Đập chân mây đá .Thủ pháp đảo ngữ được sử dụng ở đây càng nhấn mạnh thêm hoạt động mạnh mẽ, mãnh liệt trong thế giới nghệ thuật của Hồ Xuân Hương.
Vì thế, cái tôi tràn đầy sức sống nhưng bị đè nén của Xuân Hương, từ câu hỏi, qua hai câu thực, đến luận, dần dần hiện ra: thoạt đầu là ngao ngán, ngao ngán “Trưa trưa mặt đỏ như nước bằng không”. , tiếp theo là tâm trạng Dọc, tắm, muốn nói mà không nói được, đêm đã tàn mà trăng còn khuyết: “Chén hương đưa ta về thức – Bóng trăng xế xế là mất tích”. Cuối cùng, sự thất vọng và phẫn uất muốn trỗi dậy. Khát vọng sống của con người này, đòi hỏi phải phá bỏ hoàn toàn nhân cách, nhân cách của người phụ nữ đặc biệt này, giả như chế độ phong kiến không làm được. có thể chịu đựng được, nhưng ngay cả trời và đất cũng trở nên khó khăn.
Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Hương thường đặt nhân vật của mình đối diện với thiên nhiên rộng lớn, sánh vai với vũ trụ mông lung (“Thân em vừa trắng vừa tròn – Bảy nổi ba chìm với nước”; “Gan Nghĩa” Ngủ với trăng và vầng trăng – Một mối tình êm dịu với sông núi”; “Tiếng khóc chồng vang bên tai – Nín đi kẻo làm bạn với sông”; “Tình trong đêm, Trống canh thăng hoa – Trùm của khuôn mặt, non sông”… Đó là con người có tầm vóc đặc biệt, không chỉ của bản thân, của gia đình, làng xã mà còn là của nhân dân, của đất nước, của Tạo hóa, của vũ trụ. Với suy nghĩ đó, ta mới hiểu Xuân Hương có thể đặt mình từ một địa vị rất cao với một phong thái, nhịp điệu rất cao quý khi đối thoại với đời, cho dù họ là hiền nhân, quân tử, là thái thú Sầm Nghi Đống, là những anh hùng hào kiệt (“Mát mặt anh hùng khi tắt gió”) thậm chí là vua, là chúa (“Chúa dấu, vua yêu một cái này” – Vịnh cái quạt).
Còn Xuân Hương, dù tưởng mình có thể đi trước thời đại, nhưng trong cuộc sống hiện thực vẫn không vượt qua được thân phận của mình. Vì vậy, những hành vi phá phách, nổi loạn dù mơ mộng đến đâu cũng chỉ là vùng chạm đến giới hạn của ngôn từ. Nhà thơ chấp nhận số phận của mình với một tiếng thở dài:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mánh tình san sẻ tí con con!
Nhưng Xuân Hương đích thực là nhà thơ của mùa xuân, của tuổi trẻ và tình yêu cuộc sống trong sáng, của sự lạc quan yêu đời. Đó cũng chính là chất dân gian đậm đặc của hồn thơ này. Đọc thơ Xuân Hương, ta thấy có đủ buồn vui, cay đắng, chán chường, uất hận, đủ cả những hận thù, đau buồn, thậm chí muốn vứt bỏ tất cả, hận thù tất cả…, nhưng không bao giờ mất hết niềm vui. niềm tin yêu vào cuộc sống, vào cuộc sống. Có thể cảm nhận rất rõ điều này trong thế giới nghệ thuật vô cùng sống động của nữ nghệ sĩ, một thế giới không bao giờ hoàn toàn tĩnh lặng: không có tiếng chuông, tiếng trống, tiếng mõ, tiếng đàn hạc. Khi quan sát, còn có tiếng “gà gáy trên bom”, “sóng trên mặt nước”, “gió giật xương sườn non”, hay “cành cây gió thổi” v.v… Và nếu lắng nghe, bạn cũng có thể nghe thấy “Chuột cha quắt queo”. vo ve – Mẹ mặc định là ong bầu”,… Một thế giới hình ảnh sống động, luôn khuấy động, luôn vận động: “Cỏ non leo lét – Chuột nhảy lội bì bõm giữa dòng”; “Xiên ngang đất cụm – Đập chân đá bể”; “Trăng cùng trời trăng – Khối tình mãi cùng sông núi”,… Một thế giới Tràn ngập sắc màu tươi trẻ, hồng hào, ngập tràn xuân sắc, xuân tình,… Tất cả được khám phá và Đánh giá về điểm nhìn mù quáng độc đáo của Xuân Hương: lấy vẻ đẹp thanh xuân, hư ảo, tự nhiên của cơ thể người phụ nữ ở tuổi thanh xuân làm tiêu chuẩn. Trong thế giới nghệ thuật ấy, tiếng kêu oan khuất là lời tuyệt vọng và cái chết không muốn chặn đường sống.
Đúng là Tự tình (bài II) đã kết thúc bằng một lời chua chát: “Buồn xuân đi xuân về – Nét tình chung đôi con thơ”. Nhưng như thế thì xuân chưa hết, xuân tình vẫn còn đong đầy.
Xưa có câu: “Chữ ấy xuân đi không trở lại”. Nhưng Xuân Hương lại nói “xuân đi xuân lại” có nghĩa là người phụ nữ vẫn còn điều gì đó để chờ đợi, để mong ước, mặc dù niềm hạnh phúc mong chờ chưa bao giờ được hưởng trọn vẹn: “Rằm có khuyết không tròn”.
Có một câu hỏi rất quan trọng đối với thơ Hồ Xuân Hương nói chung: Tại sao tư tưởng dân gian gần như trong sáng thuần túy ở Xuân Hương không được thể hiện ở các thể thơ dân gian như lục bát, song thất lục bát, song thất lục bát? lục bát mà tự ép mình vào khuôn khổ thơ Đường, một thể thơ bác học du nhập từ nước ngoài, luật lệ rất khắt khe? Một nét phá cách, độc đáo nữa của thơ Xuân Hương? Nhưng nghĩ lại thì lựa chọn của nữ ca sĩ rất hợp lý, có thể nói là rất tự nhiên.
Song thất lục bát ngâm, thích hợp thở nhẹ nhàng. Lục bát về khả năng tự sự và thiên về bộc lộ cảm xúc nồng nàn. Nhưng thơ Xuân Hương không chỉ là tình cảm mà còn là trí tuệ, tư tưởng, đồng thời có nhu cầu tạo ra nhiều nghĩa trên từng dòng thơ, từ từng hình ảnh, từng ngôn ngữ: nghĩa trưng, nghĩa hàm ẩn, nghĩa trần trụi, ừm. nghĩa, nghĩa từ vựng, nghĩa tâm lý xã hội, nghĩa phát âm, nghĩa thông tục, v.v.
Để đạt được những yêu cầu đó, Xuân Hương rất cần đến khả năng của thất ngôn bát cú, cấu trúc chặt chẽ, luật đối ngẫu và hàm mang khả năng biểu đạt đa nghĩa, tạo nghĩa phi ngôn từ. (Hết ngôn ngữ).
Nhưng Xuân Hương một mặt khai thác khả năng của thơ Đường, mặt khác cố ý gạn lọc, loại bỏ điển tích, điển tích, tản mạn để đạt ước lệ, biến tấu, dùng màu tao nhã, tái hiện hình tượng. Đó là sự khai thác triệt để ngôn ngữ thuần Việt và phép thuật dân gian, đặc biệt là nghệ thuật trào phúng, ngông cuồng, trào phúng của ca dao, dân ca, Tiều Lãm, Trạng Quỳnh, Trạng Trình. Lợn v.v… Và trên văn bản Việt hóa, văn hóa dân gian ấy luôn có ấn “Xuân Hương Hoa” đầy cá tính độc đáo và dấu tích của “nữ tài tử” họ Hồ.
Xem thêm: Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của Tự tình 2 hay nhất
3. Cảm nhận bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương ý nghĩa nhất:
Trong hệ thống những bài thơ mang tâm huyết của Hồ Xuân Hương, “Tự tình” là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, sự cô đơn của một người yêu cả đời, cuộc sống viên mãn nhưng gặp hoàn cảnh khó khăn, một người luôn khao khát yêu thương nhưng lại gặp toàn những bất hạnh dang dở. Đó là nỗi bất hạnh của một giấc mơ không thành.
Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động (từ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX), Hồ Xuân Hương là người chứng kiến và chịu ảnh hưởng một phần của khí thế sôi nổi của phong trào đấu tranh của quần chúng. lót họ đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Khí chất của anh ảnh hưởng đến tâm hồn thông minh và dịu dàng của cô. Bà Uy như bừng tỉnh, tìm về với cuộc đời mình, một cuộc đời đầy gian nan và bất hạnh, hai lần lấy chồng, hai lần đi làm thuê và cả hai lần chồng bà đều chết yểu. Điều đó, với cô, là những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của “hồng nhan bạc mệnh”.
Mở đầu bài thơ Tự tình, tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc ồn ào của tiếng gà. Đây không phải là lần thứ hai, lần áp dụng nghệ thuật để bộc lộ tâm trạng của tác giả: “cảnh khuya thanh vắng”. “Nhạn” là từ tượng thanh nhưng ở đây nó biểu thị tâm trạng, không khí, không khí buồn bã, cô đơn của một người thao thức giữa đêm thanh tĩnh. Câu thứ hai đan xen một tâm tình:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Phần hay nhất của câu thứ hai là từ “chè”. Trôi là lẻ loi, lẻ loi, lẻ loi. Nhà thơ cảm thấy buồn. Nỗi buồn của một cá nhân càng khủng khiếp hơn khi cọ xát với cả xã hội, cả một cuộc đời: “nước không người”. Một nỗi buồn đè nặng lên lòng chị, lên số phận người phụ nữ. Không chịu nổi, cô muốn giãy giụa, muốn trốn thoát. “Chén hương trao” là phương tiện. không phải là phương tiện nén quá mức duy nhất nhưng gần như cuối cùng. Tuy nhiên, bi kịch vẫn là bi kịch:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”
Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lý Bạch :
“Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt
Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu”.
Bất lực, câu thơ chuyển sang cảnh tình. Hồ Xuân Hương nói:
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Theo quan điểm thẩm mỹ xưa, ánh trăng tượng trưng cho cuộc đời và tuổi tác của người phụ nữ. Câu “trăng không tròn vành vạnh” là một hình ảnh vừa đẹp, vừa thực, nhưng cũng thật buồn. Nỗi buồn của một “vầng trăng khuyết”. Ví cảnh thơ xưa là tình, cảnh trăng khuyết là man mác, gợi nhớ đời nàng. Trong “mời trầu” bà hàm ý như vậy.
Câu 5 và 6 dường như đột ngột thay đổi. đặc biệt trong đoạn văn tả cảnh làm việc trở nên trống rỗng. Một cảnh thực sự hoàn chỉnh:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.
Nghệ thuật đảo ngữ và tương phản tạo nên sự sinh động và đầy sức sống. Nghị lực sống của cô ấy giống như một bước đệm, một sự phản ánh. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của “bà chúa thơ Nôm” chứ không phải của ai khác. Rõ ràng, thường xuyên rất buồn, rất cô đơn nhưng điều đó vẫn không làm giảm đi cái chất riêng của Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh, sức sống mãnh liệt, khát khao sống khiến trái tim cô tràn đầy sự biết ơn và cô vẫn nhìn cảnh vật bằng đôi mắt yêu thương, tha thiết, tràn đầy sức sống. Đó chính là sự lí giải về những lực cản, những mâu thuẫn trong bản chất của mụ, tạo nên những vần thơ trào phúng đối lập. Thứ vũ khí ấy còn hơn cả chén rượu “say rồi tỉnh”. Đó là phương tiện kỳ diệu đã nâng đỡ tâm hồn cô. Đến đây ta mới hiểu được tâm trạng của Hồ Xuân Hương và tiếng thở dài ở hai câu kết:
“Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”.
Đời yêu là thế, đời rạo rực là thế, nhưng đời tư vẫn là: “xuân đi xuân lại”, từ chỉ cái vòng luẩn quẩn đáng ghét, vô vị của ngày và đời. Điều này khiến cô không khỏi thở dài ngao ngán. Càng thấm thía hơn khi giữa dòng thời gian ấy lại là một “mảnh tình” đang được xếp lớp, sẻ chia… chia lìa. Đối với trái tim thiết tha với cuộc đời kia, nó như một vết thương, một vết sẹo.
Người ta nói thơ là một tâm trạng, một thông điệp thẩm mỹ. Đọc “tự tình”, ta hiểu ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn khao khát hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời và gặp những dang dở, bất hạnh khiến thơ chị đôi khi là một tiếng thở dài. Một hơi thở quý giá của một người đàn ông có tâm bão nhưng không thực hiện được, trách nhiệm thuộc về phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng tư đã đối lập hoàn toàn với cơ cấu chung, trong định hướng của mình. Tạ, “tự ái” là sự chống đối hạnh phúc của người mẹ, là sự phản kháng độc quyền bao hàm tiếng nói tiêu cực của người phụ nữ, tạo nên sự thấu hiểu và cảm thông cho những cảnh ngộ, sự thoái trào.
Bài viết được sgkphattriennangluc.vn tham khảo từ nguồn:
https://download.vn/cam-nhan-ve-bai-tho-tu-tinh-2-47744
https://hoatieu.vn/tai-lieu/cam-nhan-ve-bai-tho-tu-tinh-2-204222
https://vndoc.com/cam-nhan-ve-bai-tho-tu-tinh-ii-cua-ho-xuan-huong-166340
https://luatminhkhue.vn/cam-nhan-ve-bai-tho-tu-tinh-2.aspx
https://toploigiai.vn/cam-nhan-ve-bai-tho-tu-tinh-2-cua-ho-xuan-huong
https://vietjack.me/top-30-bai-cam-nhan-ve-bai-tho-tu-tinh-2022-75950.html
https://lopvancothu.com/cam-nhan-ve-bai-tho-tu-tinh-ii-cua-ho-xuan-huong-hoc-van-11/
https://scr.vn/cam-nhan-ve-bai-tho-tu-tinh.html
https://old.kienguru.vn/blog/cam-nhan-ve-bai-tho-tu-tinh-2