Chuyện người con gái Nam Xương – Wikipedia tiếng Việt mới nhất

bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Nữ tử Nam Xương truyện Đẹp Nam xương nữ tử lục (Nhân vật Trung Quốc: )[1]trình diễn bằng chữ Nôm Thanh Chuyện người con gái Nam Xương[2]là tên truyện thứ 16 trong số 20 truyện được ghi trong tác phẩm. Truyền Thuyết Mãn Lực được viết bằng chữ Hán của danh sĩ Nguyễn Du sống vào cuối thời Lê, cuối thế kỷ XVI, thời Lê sơ, đầu thời Mạc. Dựa trên một câu chuyện dân gian kể về nỗi oan của người thiếu nữ, Nguyễn Du đã viết về phẩm chất và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​trọng nam khinh nữ, lên án, lên án lễ giáo. Chế độ phong kiến ​​khắc nghiệt đã không cho phép phụ nữ tự bảo vệ mình. Truyện được đánh giá là một “bút thời cổ đại”, phản ánh một cách sinh động về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác phẩm đã được đưa vào làm nội dung chính Bài 4 SGK Ngữ văn lớp 9 (Tập 1) SGK Việt Nam chính thức của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Nguyễn Du – có sách phiên âm là Nguyễn Tử (không rõ năm sinh, năm mất), là một danh sĩ sống ở thế kỷ XVI, vào thời nhà Lê sơ suy, quê ở huyện Trường Tân, nay là huyện Trường Tân. Thanh Miện, ​​tỉnh Hải Dương. Ông là học trò của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm, là người học rộng, tài cao, am hiểu văn chương. Ông làm quan được một năm thì về sống ẩn dật ở Thanh Hóa.

Chuyện người con gái Nam Xương là truyện cổ tích thứ 16 trong tổng số 20 truyện của tác giả Truyền Thuyết Mãn Lực (Cùng với 11 trong số 20 truyện kể về phụ nữ.) Nguồn gốc của truyện bắt nguồn từ một truyện dân gian có tên là vợ anh Trường.

Câu chuyện lấy bối cảnh từ thời nhà Trần đến thời nhà Hồ. Truyện kể về cô gái Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương. Cô ấy là một người hạnh phúc trọn vẹn. Chồng nàng là Trương Sinh, công tử nhà giàu, ít học, hay ghen tuông, luôn đề phòng Vũ Nương. Vì ít học, Trương Sinh phải đi lính, bỏ lại mẹ già và Vũ Nương ở nhà. Một thời gian sau, cô sinh đứa con đầu lòng đặt tên là Đan. Ở nhà, Vũ Nương chăm sóc con và mẹ chồng rất chu đáo. Vì nhớ con, mẹ chồng ngày càng ốm yếu rồi qua đời, bà lo ma chay, ma chay, tế lễ, phụng dưỡng mình như cha mẹ ruột. Để không nhớ chồng và sợ con thiếu vắng tình cha, chị thường đùa với con bằng cách chỉ vào bóng anh trên tường và bảo đó là bố Đản. Chiến tranh kết thúc, Trương Sinh trở về. Biết mẹ mất, tôi mới tập nói. Anh thương tiếc về thăm mộ mẹ, dắt theo bé Đan, ra đồng, đứa bé vừa khóc vừa nói: “Trương Sinh không phải cha Đan, đêm nào cha Đan cũng đến, mẹ Đan đi, mẹ Đan ngồi mà ngồi. nhưng chưa bao giờ ôm Dan.” Vì ghen tuông, Trương Sinh đã đánh mắng Vũ Nương rất dã man rồi đuổi nàng đi mặc cho hàng xóm láng giềng đều rõ. Không thể thanh minh, Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử, lấy cái chết để thanh minh cho sự trong sạch của bản thân.[3] Cô được Linh Phi, vợ của Vua Nam Hải, cứu sống.

Một đêm buồng không người, chàng ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chợt người con chỉ vào bóng chàng nói đó là cha, Trương Sinh bừng tỉnh, hiểu ra nỗi oan của vợ nhưng sự việc đã trót lọt. qua. Phan Lang – người cùng làng với nàng – một đêm mơ thấy cô gái áo xanh đến xin tha mạng. Hôm sau có người mang đến một con rùa mai, anh ta mang ra thả. Lúc này, chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh bùng nổ, quân Minh tiến đến ải Chi Lăng, người trong nước sợ hãi, bỏ chạy ra biển, trong đó có Phan Lang, bị đắm thuyền chết đuối. Xác Phan Lang trôi vào hang rùa, Linh Phi thấy vậy liền cứu mạng để đền đáp ân xưa. Ở thủy cung chàng gặp lại Vũ Nương; Vũ Nương xin Phan Lang trở lại trần gian để nhắn nhủ Trương rằng nếu còn nhớ tình xưa thì nên lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang.

Trương làm theo, thấy Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa giữa dòng, cờ lọng, võng lọng rực rỡ giăng khắp một khúc sông, thoắt ẩn thoắt hiện. Cô nói lời cảm ơn và tạm biệt anh vì “Tôi không thể trở lại thế giới con người nữa“.

Đền Vũ Điện ở xã Chân Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam là nơi thờ vợ họ Trương, quê ở làng Trương Xá, cũng thuộc xã Chân Lý ngày nay. Theo truyền thuyết địa phương, ngôi đền này được xây dựng vào thế kỷ 15, ngay sau cái chết oan uổng của bà Vu. Ban đầu chỉ là một ngôi chùa nhỏ tranh tre, nứa lá do người dân địa phương dựng lên. Sau khi nhận sắc chỉ của vua Lê Thánh Tông, ngôi chùa mới được tu sửa thành một ngôi chùa to lớn khang trang. Ban đầu, đền được xây dựng bên bờ sông Hồng, trên mảnh đất rộng hàng chục mẫu, dân cư sống thành làng. Sau nước lũ xói lở, bãi bị sạt lở nên chùa phải dời về vị trí hiện nay.[4]


Ngữ văn 9: Tác giả-tác phẩm: Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ)

Đối với tác giả, tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương trong phần Ngữ văn lớp 9 trình bày đầy đủ những nội dung chính, quan trọng nhất về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương, bao gồm bố cục, tóm tắt, nội dung chính, giá trị. giá trị nội dung, nghệ thuật, dàn ý, phân tích,…. giúp học sinh dễ dàng nắm bắt ý chính của bài.

A. Đôi nét về tác giả

– Nguyễn Du – có sách phiên âm là Nguyễn Tử (không rõ năm sinh, năm mất)

– Quê quán: Ông quê ở huyện Trường Tân, nay là Thanh Miện, ​​tỉnh Hải Dương.

– Sự nghiệp sáng tác: Ông là một học giả tài cao song chỉ làm quan được một năm rồi về sống ẩn dật ở một vùng núi Thanh Hóa. Đó cũng là con đường phản kháng của nhiều trí thức đương thời.

B. Vài nét về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương-Nguyễn Dữ.

1. Hoàn cảnh sáng tác

“Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc tác phẩm Truyền kỳ Mạn Lục (Những chuyện kỳ ​​lạ ghi chép rải rác đến nay vẫn còn được lưu truyền), được viết vào thế kỷ XVI. Chuyện người con gái Nam Xương xuất phát từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”, là truyện thứ 16 trong 20 truyện Truyền Kỳ Mạn Lục.

2. Tóm tắt tác phẩm:

Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, là một cô gái hiền lành, nết na, lấy Trương Sinh là con nhà khá giả nhưng ít học và vũ phu. Cuộc sống vợ chồng chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải đi lính. Mẹ chồng vì thương nhớ con mà lâm bệnh nặng rồi qua đời, Vũ Nương một mình gánh vác mọi việc, một mình sinh ra đứa con đặt tên là Đản. Để bù đắp cho sự thiếu vắng tình cha, đêm đêm Vũ Nương chỉ bóng mình trên tường và nói đó là cha Đản. Khi Trương Sinh về, Đan không chịu nhận cha và nói rằng cha Đan thường chỉ đến vào buổi tối. Lúc này Trương Sinh đã nghi ngờ vợ, mắng nhiếc đuổi nàng đi, Vũ Nương hết lời giải thích để thanh minh nhưng chàng không tin bèn gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Ngay sau đó, bé Đản chỉ vào cái bóng của Trương Sinh trên tường và nói đó là cha của Đản, bấy giờ Trương Sinh mới hiểu nỗi oan của vợ. Cùng làng Trường Sinh có Phan Lang vì cứu rùa thần Linh Phi nên được trọng thưởng. Trong một bữa tiệc ở thủy cung, Phan Lang nhận ra Vũ Nương. Nghe Phan Lang kể chuyện gia đình, Vũ Nương nhớ thương chồng con, bèn nhờ Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng, nàng sẽ trở về. Khi Trương Sinh lập đàn giải oan, Vũ Nương có xuất hiện nhưng chỉ nói vài câu rồi biến mất.

3. Giá trị nội dung

– Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam

– Cảm thông sâu sắc với số phận bi thảm của họ, đồng thời lên án, tố cáo những lễ giáo phong kiến ​​vô nhân đạo, những hủ tục hà khắc trong bộ máy phong kiến ​​đương thời.

4. Giá trị nghệ thuật

– Truyện được viết bằng chữ Hán.

– Kết hợp yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo, hoang đường với cách kể chuyện, xây dựng nhân vật rất thành công.

C. Dàn ý phân tích chi tiết Chuyện người con gái Nam Xương-Nguyễn Dữ.

I. Giới thiệu

– Giới thiệu vài nét chung về tác giả Nguyễn Du: Một tác giả có kiến ​​thức sâu rộng nhưng không hề oán hận.

– Giới thiệu đôi nét về tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương: Một trong hai mươi truyện ngắn của Truyền kì mạn lục

II. Thân hình

1. Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm.

Một. Vẻ đẹp của nhân vật Vũ Nương

– Nhan sắc trước khi lấy chồng: là một cô gái “đằm thắm, dịu dàng và có chí tiến thủ” một vẻ đẹp rất chuẩn

– Trong đời sống vợ chồng:

+ Luôn giữ gìn nề nếp, không để vợ chồng bất hòa ⇒ Tạo dựng và giữ gìn hạnh phúc gia đình

– Khi đưa chồng đi lính:

+ Nàng không mong chồng về quê cùng “kín hầu, mặc áo gấm về cố hương” mà chỉ mong chồng luôn được yên bề gia thất → không màng danh lợi

– Khi chồng vắng nhà:

+ Can đảm: Là mẹ hiền, dâu ngoan.

+ Là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết: hằng đêm bà vẫn chỉ vào bóng con và nói với con đó là cha để nguôi ngoai nỗi nhớ chồng.

– Khi bị chồng vu khống:

+ Giải thích cho chồng hiểu lòng chung thủy của mình.

+ Tuyệt vọng, nàng chọn cái chết để bày tỏ nỗi lòng.

⇒ Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, thùy mị, hiếu thảo, thủy chung, hết lòng vun vén hạnh phúc gia đình.

b. Số phận bi thảm của nhân vật Vũ Nương

– Nguyên nhân dẫn đến cái chết oan uổng, bi thảm của nhân vật Vũ Nương.

+ Nghi chồng Trương Sinh

Với lời nói hồn nhiên của trẻ thơ.

– Nghĩa:

+ Tố cáo chiến tranh và xã hội phong kiến ​​trọng nam quyền, phú quý

+ Thể hiện sự đồng cảm của tác giả đối với người phụ nữ

2. Nhân vật Trương Sinh

– Một người con nhà giàu nhưng ít học

– Tính cách đa nghi, trở về rất đau buồn vì cái chết của mẹ.

⇒ Tác giả đã phê phán thói ghen tuông mù quáng, bày tỏ sự cảm thông và ca ngợi những người phụ nữ đức hạnh nhưng phải chịu nhiều đau khổ, bất hạnh.

III. Kết thúc

– Khái quát những nét nghệ thuật đặc sắc nhất của tác phẩm: Cách dẫn dắt: khéo léo, tăng tính bi kịch, đối thoại và tự sự khắc họa sâu sắc tính cách nhân vật, yếu tố kì ảo, kết hợp tự sự với trữ tình…

– Đây là một trong những tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc

Bạn đọc có thể tham khảo chi tiết tại:

—————————–
Bản đồ GMB
https://www.google.com/maps/d/edit?mid=1ggP41gW6iFHc8nsA5GKjyByE7mi6LO0&usp=sharing
Trang web Google
https://sites.google.com/view/soan-van-lop-9-hoc-mai/home/chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong
TÀI LIỆU GOOGLE:
https://docs.google.com/document/d/1P8LwoQ3iPhv4W-SCZnHFEnPxQLm4-4k0eddA9rTI40s/edit
BẢNG GOOGLE:
https://docs.google.com/spreadsheets/d/1aUjbcuG9zUc0oFbJ1wchKR9f1urWXYau7Uq1aAjPt14/edit#gid=0
GOOGLE SLIDE: (Bản trình bày)
https://docs.google.com/presentation/d/1cTuBqu75cLEGHtWDStwvPhxQvom7BNQH7_ZvQWZn1Ug/edit#slide=id.p
MẪU GOOGLE:
https://docs.google.com/forms/u/0/d/1709p0flQQFmaFAK9VezA1EOfeIUsBdW1hCudM8FX-pk/edit
GOOGLE VẼ:
https://docs.google.com/drawings/d/1a2_-lT4SPbro18We3fLtTmgcvbhj5ZHmlaOwrxRy5TQ/edit
Google Jamboard
https://jamboard.google.com/d/1FHnbvFBT2Bp0e0E-TZ52fuJ3V06UfN0Jb0tKa8lDF2Q/edit?usp=sharing
GOOGLEPDF:
https://drive.google.com/file/d/1pnEQ-sr5qJAy3oC4WTZhKgoTlhImXpal/view?usp=sharing
GOOGLE DOCS POD
https://docs.google.com/document/d/e/2PACX-1vQlfUOeML4h6QDhbhUVaEgP3-OrB1EeCSAytiE13EgaO5uxVDY69mUPVA0E65nV-g1m24CKHJ1pT39I/pub

TOP 6 bài Thuyết minh về tác giả Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất, đặc sắc nhất. Qua đó, cung cấp cho các em học sinh lớp 9 những kiến thức bổ ích, hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả Nguyễn Dữ.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương

Chuyện người con gái Nam Xương đã khắc họa thành công số phận oan nghiệt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, đồng thời thể hiện phẩm giá cao quý của họ. Chi tiết mời các e, cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 9:

Thuyết minh về Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương

Dàn ý Thuyết minh về Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương

1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề cần thuyết minh: tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. (Chuyện người con gái Nam Xương là một tác phẩm vô cùng tiêu biểu của tác giả Nguyễn Dữ, để hiểu hơn về tác phẩm hãy cùng nhau tìm hiểu chi tiết hơn nhé).

2. Thân bài

a. Thuyết minh khái quát chung

  • Chuyện người con gái Nam Xương là một trong hai mươi truyện của tập Truyền kì mạn lục – ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ được lưu truyền.
  • Là một câu chuyện nổi tiếng được nhiều người biết đến, giàu giá trị nội dung và nghệ thuật.
  • Nhân vật: Vũ Nương, Trương Sinh, Phan Lang, bé Đản,…

b. Thuyết minh chi tiết

  • Nhân vật chính: Vũ Nương – người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống bình yên, hạnh phúc nhưng bị xô đẩy vào oan khuất, bất hạnh.
  • Trương Sinh: chồng của Vũ Nương, người trực tiếp đẩy nàng đến bi kịch.
  • Bé Đản: con trai của Vũ Nương và Trương Sinh, nguyên nhân khiến Trương Sinh nghi ngờ vợ.
  • Phan Lang: cầu nối để Vũ Nương gặp lại Trương Sinh và để Trương Sinh hối lỗi với nàng.
  • Tiến trình: câu chuyện được kể theo trình tự thời gian.

c. Nội dung, nghệ thuật câu chuyện

  • Nội dung: số phận oan nghiệt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến đồng thời thể hiện phẩm giá cao quý của họ.
  • Nghệ thuật: kết hợp tự sự và trữ tình, nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật.

3. Kết bài

Câu chuyện góp phần không nhỏ vào việc làm phong phú kho tàng văn chương của nước ta.

Thuyết minh về Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 1

Nguyễn Dữ là 1 văn sĩ, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Ông là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Truyền kỳ mạn lục (in 1768).

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn.

Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài “ghi chép” để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm “thiên cổ kỳ bút” Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật… nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XV.

Theo Bùi Duy Tân và một số học giả viết lời tựa cho các bản dịch Truyền kỳ mạn lục lưu tới ngày nay có ghi lại:

“Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Truyền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các chuyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những chuyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép chuyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục… mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ… tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những chuyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái.

Bật mí:  Tuyển tập Bài thơ Hán Việt về Cuộc sống rất hay và ý nghĩa ⇒by tiếng Trung Chinese mới nhất

Thuyết minh về Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 2

Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Trước tác của ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.

“Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.

Vũ Thị Thiết – người con gái quê ở Nam Xương thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Chàng Trương Sinh mến vì đức hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Chẳng bao lâu Trương Sinh phải đi lính. Nàng đang có mang, xa chàng vừa đầy tuần thì sinh ra đứa con trai đặt tên là Đản, nửa năm sau, mẹ chàng vì già yếu và nhớ thương con mà lâm bệnh. Vũ Nương hết lòng săn sóc, cơm cháo thuốc men, mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ mình. Qua năm sau, giặc đã chịu lui, Trương Sinh trở về. Con trai đã vừa học nói nhưng chỉ vì câu nói ngây thơ của đứa con đã dẫn đến Trương Sinh hiểu lầm rằng vợ mình đã thay lòng đổi dạ. Trương Sinh nhiếc mắng, đuổi nàng đi. Nàng thanh minh cho mình, rồi hàng xóm bênh vực nhưng không được. Trước cảnh đau buồn đó Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Nàng chết rồi, một hôm Trương Sinh ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya chợt đứa con nói: “Cha Đản lại đến kìa” rồi chỉ cái bóng trên tường. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ, biết vợ mình chết oan. Lại nói về chuyện Phan Lang đã cứu Linh Phi, là vợ vua biển Nam Hải. Thế rồi Phan Lang không may đắm thuyền chết, được Linh Phi cứu giúp, chữa trị, đền ơn. Trong cuộc hành trình thăm động của Linh Phi, Phan Lang tình cờ gặp Vũ Nương. Nàng gửi về cho chồng một chiếc hoa vàng và dặn chồng con nhớ làm đàn giải oan… Phan Lang trở về kể chuyện cho Trương Sinh. Vũ Nương hiện lên đa tạ tình chàng nhưng nàng không thể trở về trần gian được.

Chuyện người con gái Nam Xương nói lên sự xót thương với những người phụ nữ tài sắc, đức hạnh mà chết oan trong bi kịch gia đình. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ già. Cái chết của Vũ Nương có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho hạnh phúc lứa đôi phải ly biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn, lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó, Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân bản sâu sắc.

Với nghệ thuật điêu luyện, bố cục chặt chẽ, chi tiết hoang đường, li kì, hấp dẫn, dùng chi tiết gợi mở, thắt nút cởi nút câu chuyện tài tình, giải quyết câu chuyện nhanh chóng, bất ngờ, kết thúc có hậu,… Chuyện người con gái Nam Xương đã khẳng định được nét đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện niềm cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và bi kịch. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng chuyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Qua “Truyền kì mạn lục”, người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ

Thuyết minh về Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 3

Nguyễn Dữ là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XVI. Đây là thời kì xã hội phong kiến Việt Nam có nhiều biến động và khủng hoảng. Giống như nhiều trí thức khác của thời đại mình, Nguyễn Dữ chán nản và bi phẫn trước thời cuộc. Vì thế, sau khi đỗ Hương Cống, ông chỉ làm quan một năm rồi cáo quan về ở ẩn.

Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyền kì ở Việt Nam. Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương là một trong 20 tác phẩm của Truyền kì mạn lục. Qua cuộc đời của Vũ Nương, Nguyễn Dữ tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm tan vỡ hạnh phúc lứa đôi, đồng thời thể hiện sự cảm thông sâu sắc với khát vọng hạnh phúc cũng như bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa. Tác phẩm cũng là sự suy ngẫm, day dứt trước sự mong manh của hạnh phúc trong kiếp người đầy bất trắc. Tác phẩm cho thấy nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật già dặn. Sự đan xen thực ảo một cách nghệ thuật, mang tính thẩm mĩ cao. Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện ngắn đặc sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Truyện đã thể hiện được sự phối hợp hài hòa giữa chất hiện thực (câu chuyện được lưu truyền trong dân gian) với những nét nghệ thuật đặc trưng của thể loại truyền kì (yếu tố kì lạ hoang đường).

Giá trị nội dung của tác phẩm được thể hiện ở hai khía cạnh: Hiện thực và nhân đạo. Hiện thực thứ nhất trong tác phẩm là số phận bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Vốn là người con gái xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng thùy mị, nết na; tư dung tốt đẹp. Khi chồng đi lính, Vũ Nương một mình vừa chăm sóc, thuốc thang ma chay cho mẹ chồng vừa nuôi con, đảm đang, tận tình, chu đáo. Để rồi khi chàng Trương trở về, chỉ vì câu nói ngây thơ của bé Đản mà Trương Sinh đã nghi ngờ lòng thủy chung của vợ. Từ chỗ nói bóng gió xa xôi, rồi mắng chửi, hắt hủi và cuối cùng là đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà, Trương Sinh đã đẩy Vũ Nương tới bước đường cùng, bế tắc, phải chọn cái chết để tự minh oan cho mình. Hiện thực thứ hai được phản ánh là xã hội phong kiến với những biểu hiện bất công vô lý. Đó là một xã hội dung túng cho quan niệm trọng nam khinh nữ, để cho Trương Sinh – một kẻ thất học, vũ phu ngang nhiên chà đạp lên giá trị nhân phẩm của người vợ hiền thục nết na. Hành động ghen tuông của Trương Sinh là hệ quả của một loại tính cách – sản phẩm của xã hội đương thời.

Giá trị nhân đạo thể hiện ở các khía cạnh: ngợi ca, tôn trọng vẻ đẹp của người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng ở Vũ Nương đã hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, theo quan điểm Nho giáo (tam tòng, tứ đức). Tác giả đã đặt nhân vật trong các mối quan hệ để làm toát lên vẻ đẹp ấy. Với chồng: nàng là người vợ hiền thục. Với con: nàng là người mẹ dịu dàng, giàu tình yêu thương. Với mẹ chồng: nàng đã làm tròn bổn phận của một người con dâu hiếu thảo. Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương còn được thể hiện ngay cả khi nàng sống cuộc sống của một cung nữ dưới thủy cung: Sẵn sàng tha thứ cho Trương Sinh, một mực thương nhớ chồng con nhưng không thể trở về vì đã nặng ơn nghĩa đối với Linh Phi… Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng, từ đó khắc họa thành công hình tượng nhân vật người phụ nữ với đầy đủ những phẩm chất đẹp. Câu chuyện còn đề cao triết lí nhân nghĩa ở hiền gặp lành qua phần kết thúc có hậu giống như rất nhiều những câu chuyện cổ tích Việt Nam. Với đặc trưng riêng của thể loại truyện truyền kì, Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm phần cuối của câu chuyện. Vũ Nương đã không chết, hay nói đúng hơn, nàng được sống ở cõi khác bình yên và tốt đẹp hơn đó là chốn thủy cung. Qua đó có thể thấy rõ ước mơ của người xưa (cũng là của tác giả) về một xã hội công bằng, tốt đẹp mà ở đó con người sống và đối xử với nhau bằng lòng nhân ái, ở đó nhân phẩm của con người được tôn trọng. Oan thì phải được giải, người hiền lành lương thiện như Vũ Nương phải được hưởng hạnh phúc.

Bên cạnh giá trị nội dung, tác phẩm còn được đánh giá cao ở phương diện nghệ thuật. Đây là một tác phẩm được viết theo lối truyện truyền kì, tính chất truyền kỳ được thể hiện qua kết cấu hai phần: Vũ Nương ở trần gian, Vũ Nương ở thủy cung. Với kết cấu hai phần này, tác giả đã khắc họa được một cách hoàn thiện vẻ đẹp hình tượng nhân vật Vũ Nương. Mặt khác, kết cấu hai phần ở “Chuyện người con gái Nam Xương” đã góp phần thể hiện khát vọng về lẽ công bằng trong cuộc đời (ở hiền gặp lành). Chất hoang đường kì ảo cuối truyện cũng làm tăng thêm ý nghĩa phê phán đối với hiện thực: dù oan đã được giải những người đã chết thì không thể sống lại được. Do đó, bài học giáo dục đối với những kẻ như Trương Sinh càng thêm sâu sắc hơn. Ngoài ra còn phải kể đến nghệ thuật xây dựng tình huống bất ngờ, độc đáo nhưng hợp lý tạo tính kịch trong câu chuyện mà yếu tố thắt nút và gỡ nút của tấm kịch ấy chỉ là câu nói của một đứa trẻ lên ba với chi tiết cái bóng.

Tác phẩm thực sự là áng văn mẫu mực tiêu biểu cho Truyền kì của Nguyễn Dữ, sống mãi trong lòng người đọc bởi chất hiện thực sinh động và tấm lòng nhân đạo tha thiết của tác giả.

Thuyết minh về Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 4

Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam.

“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm truyền kì mạn lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là vũ nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình.

Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI. Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ “miếu vợ chàng Trương”:

“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương… “

Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ nương – người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khiến ta xúc động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện.

Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nương và dễ dàng nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với mẹ chồng và chồng rất phải đạo và là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu đức khiêm tốn.

Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm một người vợ hiền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và cho dù Trường Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức.

Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của gia đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỷ ít học như chồng mình.

Nếu lấy sự kiện ngày Trường Sinh đi lính thú thì hạnh động và lời lẽ đưa tiễn chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng mong chàng áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi”…, “thư tính, nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa…”, ” là chi tiết cho cái “công-dung-ngôn-hạnh” mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành.

Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến chúng ta phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp của Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng của nàng.

Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua đời. Vũ nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ trọn tình nghĩa vợ chồng.

Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất là trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ Nương với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó còn được thể hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: “xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ… “

Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của Vũ Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt những tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm bọc, gắn bó. Cậu Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên tường gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra cái tội thật vô tình).

Nỗi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc đoán, phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng ghen tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà con, cô bác, trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư” , mối nghi ngờ càng ngày càng lún sâu không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ rồi “đánh đuổi nàng đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra. Không có cách nào để giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc – niềm vui “nghi gia nghi thất” không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày được với chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của chồng.

Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội tình gì. Mãi đến sau cái chết đó, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình. chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho giáo nuôi dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.

Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ nữ “Bảy nổi, ba chìm” đã phải sống trong cảnh đời như vậy:

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Thuyết minh về Nguyễn Dữ và Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 5

Nguyễn Dữ quê ở huyện Thanh Miện thuộc tỉnh Hải Dương là một trong những học trò giỏi của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sống trong xã hội loạn lạc, chế độ phong kiến thối nát, sau một năm làm quan, ông trở về quê nuôi mẹ già, đóng cửa viết sách.

Ông để lại một số thư và cuốn Truyền kì mạn lục viết bằng chữ Hán. Đây là cuốn văn xuôi cổ gồm 20 truyện, mang yếu tố hoang đường, cốt truyện lưu truyền trong dân gian. Phần lớn là nhân vật phụ nữ tài sắc mà bất hạnh, một ít là trí thức phong kiến sống gần gũi với nhân dân, 19 trong 20 truyện có lời bình. Truyền kì mạn lục là áng văn xuôi cổ giàu giá trị nhân đạo và có tính nhân dân, sâu sắc.

Bật mí:  Ông giáo có nghĩa là gì?Mọi người có ai biết ông giáo mà cộng đồng mạng hay nói có nghĩa là gì không? Và trong văn học, ông giáo là gì?Trả lời đầy đủ chính xác 2 câu hỏi trên sẽ được vote 5 sao nhé, ai trả lời ngắn quá mình báo cáo vi phạm là bị xoá bài đó! ^^ mới nhất

Về Chuyện người con gái Nam Xương rút trong tập Truyền kì mạn lục:

Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp. Chàng Trương Sinh mến vì dung hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Chẳng bao lâu sau Trương Sinh phải đi lính đánh giặc Chiêm. Vũ Nương rót chén rượu đầy, tiễn chồng mà rằng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên… .

Nàng đang có mang, xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra đứa con trai đặt tên là Đản. Nửa năm sau, mẹ chồng vì già yếu và nhớ thương con đi lính, rồi lâm bệnh. Vũ Nương hết lòng săn sóc, cơm cháo thuốc men. Mẹ chồng qua đời, nàng thương xót lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ mình.

Qua năm sau, giặc ngoan cố đã chịu trói, Trương Sinh được trở về. Con trai vừa học nói. Chàng bế con thơ đi thăm mồ mẹ. Đứa con quấy khóc, Trương Sinh hết sức dỗ dành. Con ngây thơ nói: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư. Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Chàng gặng hỏi, đứa con mới cho hay “có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Trương Sinh vốn tính hay ghen, đinh ninh là vợ hư, la um cho hả giận, nhiếc mắng đuổi đi. Nàng khóc lóc phân trần, họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, Trương Sinh cũng chẳng nghe. Trước cảnh bình rơi trâm gãy, Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang với lời nguyền: “nếu đoan trang” vào nước xin làm Ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ…”. Nàng chết rồi, một hôm Trương Sinh ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng: “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Bây giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ, biết vợ mình đã bị chết oan!

Lại nói về chuyện Phan Lang trước làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh, đến xin kêu tha mạng. Sáng dậy, có người phường chài đem biếu một con rùa mai xanh. Chợt nghĩ đến chuyện chiêm bao, Phan Lang bèn thả con rùa. Sau đó, Phan Lang chạy loạn, đắm thuyền, thấy dạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi nhìn thấy nói rằng: “Đây là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa” rồi lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ, Phan Lang được cứu sống. Linh Phi là vua biển Nam Hải mở tiệc thiết đãi ân nhân mình. Có vô số mỹ nhân quần áo thướt tha, mái tóc dài đến dự tiệc.

Trong số đó có một thiếu phụ xinh đẹp chỉ điểm một chút son phấn rất giống Vũ Nương. Tiệc xong, người đàn bà ấy nói với Phan Lang: “Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã quên nhau rồi ư?”- Nghe kể đến chuyện làng quê Vũ Nương khóc. Nàng gửi về một chiếc hoa vàng và dặn chồng con nhớ làm đàn giải oan, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước thì nàng sẽ trở về…

Linh Phi sai sứ giả Xích Hỗn đưa Phan Lang ra khỏi Cung nước, về đến nhà, Phan Lang kể lại chuyện gặp Vũ Nương và trao lại chiếc hoa vàng. Trương Sinh bèn lập đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện. Trương Sinh thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, nói vọng vào: “… Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa…” – Bóng nàng mờ nhạt dần mà biến mất.

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ và văn bản Chuyện người con gái Nam xương

Tác giả Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.

“Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.

Vũ Thị Thiết – người con gái quê ở Nam Xương thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Chàng Trương Sinh mến vì đức hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Chẳng bao lâu Trương Sinh phải đi lính. Nàng đang có mang, xa chàng vừa đầy tuần thì sinh ra đứa con trai đặt tên là Đản, nửa năm sau, mẹ chàng vì già yếu và nhớ thương con mà lâm bệnh. Vũ Nương hết lòng săn sóc, cơm cháo thuốc men, mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ mình. Qua năm sau, giặc đã chịu lui, Trương Sinh trở về. Con trai đã vừa học nói nhưng chỉ vì câu nói ngây thơ của đứa con đã dẫn đến Trương Sinh hiểu lầm rằng vợ mình đã thay lòng đổi dạ. Trương Sinh nhiếc mắng, đuổi nàng đi. Nàng thanh minh cho mình, rồi hàng xóm bênh vực nhưng không được. Trước cảnh đau buồn đó Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Nàng chết rồi, một hôm Trương Sinh ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya chợt đứa con nói: “Cha Đản lại đến kìa” rồi chỉ cái bóng trên tường. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ, biết vợ mình chết oan. Lại nói về chuyện Phan Lang đã cứu Linh Phi, là vợ vua biển Nam Hải. Thế rồi Phan Lang không may đắm thuyền chết, được Linh Phi cứu giúp, chữa trị, đền ơn. Trong cuộc hành trình thăm động của Linh Phi, Phan Lang tình cờ gặp Vũ Nương. Nàng gửi về cho chồng một chiếc hoa vàng và dặn chồng con nhớ làm đàn giải oan… Phan Lang trở về kể chuyện cho Trương Sinh. Vũ Nương hiện lên đa tạ tình chàng nhưng nàng không thể trở về trần gian được.

Chuyện người con gái Nam Xương nói lên sự xót thương với những người phụ nữ tài sắc, đức hạnh mà chết oan trong bi kịch gia đình. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ già. Cái chết của Vũ Nương có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho hạnh phúc lứa đôi phải li biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn, lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó, Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Với nghệ thuật điêu luyện, bố cục chặt chẽ, chi tiết hoang đường, li kỳ, hấp dẫn, dùng chi tiết gợi mở, thắt nút cởi nút câu chuyện tài tình, giải quyết câu chuyện nhanh chóng, bất ngờ, kết thúc có hậu,… Chuyện người con gái Nam Xương đã khẳng định được nét đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện niềm cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và bi kịch. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng chuyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Qua “Truyền kì mạn lục”, người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu tác giả tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất, gồm 8 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Chuyện người con gái Nam XươngNgữ văn lớp 9.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương Ngữ văn lớp 9:

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG

Bài giảng: Chuyện người con gái Nam Xương

(Nguyễn Dữ)

A. Nội dung tác phẩm

Chuyện người con gái Nam Xương kể về Vũ Nương (Vũ Thị Thiết), một người con gái nết na, đức hạnh lại thêm tư dung tốt đẹp. Trương sinh mến vẻ đẹp của Vũ Nương bèn mang trăm lạng vàng cưới về. Chẳng bao lâu, Trương Sinh đi lính, Vũ Nương ở nhà sinh một đứa con trai đặt tên là Đản. Mẹ Trương sinh cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm, mặc dù Vũ Nương hết sức thuốc thang, chăm sóc nhưng bà vẫn không qua khỏi. Trương Sinh đi lính về, bé Đản không nhận cha. Nghe con nói tối nào cha cũng đến, Trương Sinh cho rằng vợ mình mất nết bèn đánh đuổi Vũ Nương. Vũ Nương cố gắng thanh minh nhưng không được nên đành gieo mình xuống xông Hoàng Giang để giữ sự trong sạch. Vũ Nương được Linh Phi cứu và sống dưới thủy cung. Ở đây nàng đã gặp Phan Lang – người cùng làng. Nàng đã nhờ Phan Lang nhắn gửi với Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình. Nghe lời Phan Lang, Trương Sinh lập đàn giả oan, Vũ Nương hiện về nói lời tạ từ rồi biến mất.

Tác giả tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Ngữ văn lớp 9 (ảnh 1)

B. Đôi nét về tác phẩm

1. Tác giả

– Nguyễn Dữ:

– Quê: Thanh Miện, Hải Dương.

– Xuất thân trong một gia đình bình dân nghèo

– Nguyễn Dữ sống vào nửa đầu thế kỷ XVI, là thời kỳ Triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực, gây ra những cuộc nội chiến kéo dài.

– Ông học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở vùng núi Thanh Hoá. Đó là cách phản kháng của nhiều trí thức tâm huyết đương thời.

2. Tác phẩm

a, Xuất xứ

“Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của “thiên cổ tùy bút” Truyền kì mạn lục. Truyện có nguồn gốc từ một truyện cổ tích Việt Nam có tên là “Vợ chàng Trương”.

b, Thể loại

– Truyện truyền kì

c, Ý nghĩa nhan đề

– Truyền kỳ: thể loại văn viết bằng chữ Hán có nguồn gốc từ Trung Quốc, thịnh hành từ thời Đường. Các nhà văn nước ta về sau đã tiếp nhận thể loại này để viết những tác phẩm phản ánh cuốc sống và con người của đất nước mình.

– Mạn lục: ghi chép tản mạn những truyện kỳ lạ vẫn được lưu truyền

– Chuyện người con gái Nam Xương:

+ Câu chuyện kể về người phụ nữ ở Nam Xương

+ Đây không chỉ là câu chuyện của riêng Vũ Nương mà còn là câu chuyện chung của những người phụ nữ trong xã hội xưa.

4, Bố cục

Truyện gồm 3 phần:

   + Phần 1 (Từ đầu → như mẹ đẻ): Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương; sự xa các vì chiến tranh và phẩm hạnh của Vũ Nương.

   + Phần 2 (Từ qua năm sau → đã qua rồi): Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.

   + Phần 3 (còn lại): Cuộc gặp gỡ giữa Phan Lang và Vũ Nương trong động Linh Phi. Vũ Nương được giả oan.

5, Giá trị nội dung

– Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam

– Niềm cảm thương cho số phận bi kịch của người phụ nữ đồng thời lên án các lễ giáo phong kiến, các hủ tục hà khắc trong xã hội đương thời.

6, Giá trị nghệ thuật

– Xây dựng tình huống truyện độc đáo, đặc biệt là chi tiết chiếc bóng → tạo nên tính bất ngờ, tăng thêm tính bi kịch.

– Xây dựng nhân vật (qua lời nói, hành động)

– Sử dụng nhiều hình ảnh ước lệ; yếu tố kỳ ảo.

C. Đọc hiểu văn bản

1, Nhân vật Vũ Nương

a, Vẻ đẹp

*  Trước khi về làm dâu: 

– Lời giới thiệu “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” → vẻ đẹp ven toàn, kết hợp hài hòa giữa dung nhan và phẩm hạnh. 

* Trong khi về làm dâu: 

– Là người mẹ thương con: chỉ vào bóng mình trên vách, nói đó là cha Đản.

→ Am hiểu tâm lý trẻ thơ, yêu thương con.

– Là người con dâu hiếu thảo: 

+ Khi mẹ chồng ốm: thuốc thang, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.

+ Khi bà mất: lo ma chay chu đáo như mẹ đẻ của mình.

→ Mẹ chồng cảm động: “Xanh kia quyết chẳng phụ con …”.

– Là người vợ thủy chung:

+ Khi chồng ở nhà: Giữ gìn khuôn phép, không để xảy ra bất hòa.

Khi tiễn chồng đi lính: rót chén rượu đầy, nói lời tình nghĩa; không mong chức tước, chiến công, chỉ mong chồng được bình yên; thấu hiểu, cảm thông với nỗi vất vả gian lao của chồng; bày tỏ nỗi nhớ mong, khắc khoải.

Khi xa chồng: nhớ da diết “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn … không thể nào ngăn được”.

–   Khi bị chồng nghi oan: tìm mọi cách để xóa bỏ ngờ vực, cứu hạnh phúc gia đình. 

=> Vũ Nương là người mẹ thương con, nàng dâu hiếu thảo, người vợ thủy chung luôn trân trọng hạnh phúc gia đình.

* Sau khi chết (Khi sống dưới thủy cung)

– Là người nặng tình, nặng nghĩa, vị tha:

+ Sống đầy đủ, sung sướng dưới thủy cung → nhớ về quê hương, phần mộ tổ tiên.

+ Được Trương Sinh lập đàn giải oan → trở về: không oán trách, nói lời cảm tạ. 

– Là người trọng danh dự: khao khát được giải oan.

– Là người trọng ân nghĩa: hứa với Linh Phi sống chết không bỏ → không quay về dương thế.

=> Vũ Nương mang vẻ đẹp lý tưởng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

b, Số phận bất hạnh

* Khi về làm dâu

– Lấy chồng chưa được bao lâu thì chồng đi lính

→ sống cảnh cô đơn.

– Chồng đi lính: gánh vác toàn bộ công việc.

– Khi chồng trở về: bị hiểu lầm, mắng nhiếc, đánh đập, đuổi đi.

* Cái chết oan khuất

Nguyên nhân

– Trực tiếp: lời nói ngây thơ của bé Đản → Trương Sinh đinh ninh là vợ mình hư.

– Gián tiếp:

+ Trương Sinh đa nghi, hay ghen, cư xử hồ đồ, phũ phàng, thô bạo…

+ Cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối: Trương Sinh vốn “con nhà hào phú”, Vũ Nương “con kẻ khó → Tạo thế cho Trương Sinh: có tiền và có quyền.

+ Chiến tranh phong kiến gây nên cảnh sinh li tử biệt.

+ Chế độ nam quyền độc đoán, bất công.

Ý nghĩa

– Khẳng định phẩm hạnh của Vũ Nương.

– Thể hiện sự cảm thương trước số phận đầy bi kịch của nhân vật.

– Tố cáo chiến tranh phong kiến, chế độ nam quyền đã tước đoạt quyền sống, quyền hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ.

2. Nhân vật Trương Sinh

– Con nhà hào phú nhưng không có học.

– Đa nghi, hay ghen, cư xử hồ đồ, độc đoán:

+ Đối với vợ phòng ngừa quá mức.

+ Nghe lời con trẻ → cho rằng vợ mình thất tiết.

+ Bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ → mắng nhiếc, đánh đuổi vợ.

+ Không tin những lời bênh vực vợ.

+ Không nói duyên cớ để vợ có cơ hội minh oan.

→ cố chấp, bảo thủ. 

– Khi vỡ lẽ mọi chuyện, biết mình đã nghi oan cho vợ → vẫn không có ý hối lỗi.

– Khi Phan Lang đưa kỉ vật của Vũ Nương → nhớ lại chuyện năm xưa, lập đàn giải oan.

3. Những yếu tố kỷ ảo trong truyện

a, Các chi tiết kì ảo

– Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.

– Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi → gặp Vũ Nương → được đưa về dương thế.

– Vũ Nương tự tử → được tiên nữ cứu, sống dưới thủy cung.

– Trương Sinh lập đàn giải oan → Vũ Nương hiện về nói lời tạ từ rồi biến mất.

b, Cách đưa các yếu tố kì ảo vào truyện

– Yếu tố kì ảo xen kẽ, lồng ghép với những yếu tố có thật (về địa danh, thời điểm lịch sử, sự kiện lịch sử, về nhân vật, về tình cảnh nhà Vũ Nương) → tính chân thực, thuyết phục.

c, Ý nghĩa các chi tiết kì ảo

– Làm nên đặc trưng của thể lại truyện truyền kì

– Hoàn thiện nét đẹp vốn có của Vũ Nương.

– Tăng tính bi kịch của câu chuyện. 

– Tạo nên kết thúc phần nào có hậu, thể hiện ước mơ của nhân dân về lẽ công bằng. 

– Thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm

D.Sơ đồ tư duy

Tác giả tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương – Ngữ văn lớp 9 (ảnh 2)

Sơ đồ tư duy Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương

Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương năm 2021

Dàn ý chi tiết Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương

1. Mở bài:Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:

– Nguyễn Dữ: quê ở Ninh Thanh (Hải Dương), là người học rộng tài cao, có nhân cách sáng ngời. Ông sống trong xã hội loạn lạc, chế độ phong kiến thối nát, ông viết sách và để lại một số thơ và cuốn văn xuôi cổ Truỵền kì mạn lục viết bằng chữ Hán.

– Chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thương tâm về cái chết oan khuất của nhân vật Vũ Nương, tác giả thể hiện niềm thương cảm sâu sắc đối với thân phận người phụ nữ, đồng thời ca ngợi phẩm chất đáng quý của họ trong xã hội phong kiến.

2. Thân bài

a) Phân tích nhân vật Vũ Nương

* Những phẩm chất cao đẹp của nhân vật Vũ Nương

– Vũ Nương là người con gái tính tình đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp

– Vũ Nương lấy người chồng là Trương Sinh tính tình đa nghi, hay ghen nhưng chưa bao giờ nàng để vợ chồng bất hòa

– Khi chồng ra trận, nàng ở nhà hết mực thủy chung với chồng, phụng dưỡng, hiếu thảo với mẹ chồng và chăm sóc con cái

→ Nàng làm trọn bổn phận người phụ nữ tam tòng tứ đức một cách hoàn hảo

* Nỗi oan và cái chết của Vũ Nương

– Khi chồng trở về nghe lời đứa con nhỏ dại liền nghi oan và trách mắng Vũ Nương

– Nàng đau đớn, thất vọng trước sự đối xử bất công và tàn nhẫn của chồng

Bật mí:  Hình Jack Chibi Cute ❤️ 150 Anime Ảnh Jack Chibi Mới Nhất mới nhất

– Vũ Nương lựa chọn cái chết để rửa nỗi nhục → đây là hành động quyết liệt nhất chất chứa nỗi tuyệt vọng cay đắng, sự bất lực của thân phận

– Khi sống dưới thủy cung, nàng vẫn khôn nguôi nhớ về cuộc sống trần thế

– Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương:

+ Trực tiếp: lời nói ngây thơ của bé Đản

+ Gián tiếp: người chồng tính tình đa nghi, hay ghen đã cư xử hồ đồ, phũ phàng

+ Do ngay từ đầu cuộc hôn nhân không có sự bình đẳng

+ Do chiến tranh và lễ giáo phong kiến hà khắc

b) Giá trị nội dung và nghệ thuật

* Giá trị nội dung

– Giá trị hiện thực: phê phán tố cáo xã hội phong kiến bất công chà đạp lên số phận người phụ nữ, người phụ nữ chịu nhiều oan khuất, bế tắc nhưng không tự bảo vệ được mình

– Giá trị nhân đạo: ca ngợi phẩm chất tốt đẹp và thương cảm cho người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương

* Giá trị nghệ thuật

– Xây dựng tình huống truyện độc đáo đặc biệt chi tiết chiếc bóng, nhằm hoàn thiện thêm vẻ đẹp nhân cách cho nhân vật Vũ Nương nhưng cũng thể hiện rõ nét bi kịch số phận nhân vật

– Nghệ thuật dựng truyện: tình huống truyện éo le, dẫn tới nhiều bất ngờ thú vị, tăng tính bi kịch của truyện

– Xây dựng thành công nhân vật qua lời nói và hành động, kết hợp với các hình ảnh ước lệ tượng trưng.

3. Kết bài

– Chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm xuất sắc góp phần vào tiếng nói chung đòi sự bình đẳng cho người phụ nữ.

– Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Vũ Nương, thể hiện niềm xót thương thân phận người phụ nữ xưa và thông qua đó ca ngợi phẩm chất son sắc, thủy chung của họ.

 

Bài văn mẫu Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 1

Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia đúng như nhận định của Nguyễn Du. Người phụ nữ dù được sinh ra trong gia đình thuộc thành phần giai cấp nào, dù tốt đẹp nết na cũng đều cùng chung số phận “bạc mệnh” như nhau. Số phận hẩm hiu đáng thương ấy đã được các nhà văn phản ánh lại trong tác phẩm của mình. Có lẽ tiêu biểu nhất là Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, một tác phẩm nổi tiếng của thế kỉ XVI (Trong tập Truyền kì mạn lục). Đây là một tác phẩm có giá trị sâu sắc về nhiều mặt và đã gây được cảm xúc trong lòng người đọc ở mọi thế hệ.

Chuyện người con gái Nam Xương là một tác phẩm có giá trị hiện thực sâu sắc. Xã hội thời ấy là một xã hội loạn lạc, chiến tranh xảy ra liên miên đã làm cho cuộc sống của người dân thật điêu linh khốn khổ. Vì vậy mà họ rất chán ghét chiến tranh. Qua buổi tiễn đưa Trương Sinh ra trận, với những lời dặn dò của bà mẹ, lời tâm sự của Vũ Nương với chồng, ta cũng thấy được thái độ kinh sợ chiến tranh của người dân lúc bấy giờ. Chính chiến tranh đã làm cho vợ phải xa chồng, cha phải xa con… và nó còn là nguyên nhân gây ra bao nỗi bất hạnh cho người 1 vợ nữa. Trương Sinh đi lính, Vũ Thị Thiết ở nhà một mực thủy chung với chồng, thay chồng gánh vác hết mọi công việc gia đình: sinh con, chăm sóc mẹ chồng, lo toan mọi công việc trước sau. Mẹ chồng bệnh lo thuốc thang, mẹ mất lo ma chay, cúng tế đàng hoàng.

Top 12 bài Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất (ảnh 1)

Vậy mà khi chồng trở về, nàng chưa được vui sum họp lại gặp tai họa bất ngờ. Bởi anh chồng thất học lại có tính đa nghi, ghen tuông mù quáng chỉ nghe theo lời đứa trẻ ngây thơ không biết xét suy đã vội nghi oan cho vợ. Chỉ vì “cái bóng” vô hình mà Vũ Nương bị mắc oan. Nỗi oan động đất trời lại không thể giãi bày được cùng ai. Bởi cái lễ giáo phong kiến, cái thế lực nam quyền không cho phép người phụ nữ được lên tiếng minh oan. Họ không có một quyền hành gì cả, không được ai bênh vực hay chở che. Cuối cùng nàng phải mang mối oan tình xuống dòng nước bạc. Số phận của người phụ nừ trong xã hội phong kiến là như thế đó! Sợi dây lễ giáo trói buộc người phụ nữ, họ phải mang số phận “bạc mệnh” đến hết cuộc đời. Thậm chí khi được giải oan, dẫu Vũ Nương rất thương nhớ chồng con nhưng cũng không thể nào trở lại cõi trần được vì nơi đó luôn gieo tai họa cho người phụ nữ. Đây là một chi tiết mang giá trị tố cáo cao.

Nó khẳng định được bản chất xấu xa của xã hội phong kiến, một nhà tù giam hãm cuộc đời của người phụ nữ suốt bao thế kỉ. Cả tác phẩm là một bức tranh hiện thực sinh động phản ánh được thân phận đáng thương của người phụ nữ trong xã hội xưa kia. Đằng sau nỗi khổ của Vũ Nương, ta còn thấy tấm lòng nhân đạo đáng quý của nhà văn. Xuất phát từ tấm lòng yêu thương trân trọng người phụ nữ, Nguyễn Dữ tập trung ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người con gái Nam Xương: đảm đang, hiếu nghĩa, thủy chung. Khi chồng đi lính, nàng một mình làm hết cả vai trò của chồng lẫn vợ không một chút than vãn: nuôi dạy con thơ, chăm sóc mẹ già. Nàng luôn giữ trọn đạo hiếu đối với cha mẹ, phụng dưỡng mẹ chồng như mẹ ruột. Đối với chồng, trước sau nàng vẫn giữ trọn nghĩa tình. Biết chồng vốn tính đa nghi, “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa”. Khi bị chồng nghi oan, không thể giãi bày được, nàng đã lấy cái chết để chứng thực nghĩa tình của mình.

Lời nguyện thề của Vũ Nương trước khi chết cũng chứng tỏ được tấm lòng trong trắng, thủy chung của nàng. “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Vũ Nương tin ở tấm lòng thủy chung trong trắng của mình nên sau khi chết đã được như lời nguyền. Tiết nghĩa của người con gái Nam Xương như thế! Câu chuyện càng thương tâm, tấm lòng nàng lại càng sáng tỏ. Vũ Thị Thiết là hiện thân của tâm hồn cao đẹp. Trong lòng nàng như không hề gợn một mảy may vẩn đục nào ngoài lòng yêu thương chồng, thương con. Tinh thần nhân đạo của tác phẩm còn bộc lộ rõ rệt trong việc phản ánh nỗi oan của Vũ Nương. Trong khi chế độ phong kiến coi thường quyền sống của người phụ nữ, không hề quan tâm đến nỗi khổ của họ, nguyện vọng của họ, thì truyện ngắn này đã đề cập tới nỗi khổ ấy, xót thương đến nỗi oan ấy. Bên cạnh đó, Nguyễn Dữ còn đề cao một khát vọng của họ: được tôn trọng. Sau khi vợ chết không chỉ chàng Trương hiểu ra nỗi oan của nàng và lập đàn giải oan, mà tấm lòng trong sáng thủy chung ấy, nỗi khổ ấy còn cảm động đến thần linh. Hình ảnh “Vũ Nương ngồi kiệu hoa, theo sau đó có hơn năm mươi chiếc xe, cờ tán võng lọng rực rỡ” thật là đẹp đẽ. Đó là phần thưởng, là niềm an ủi cho nàng. Đồng thời nó cũng thể hiện được ước mơ của tác giả, của nhân dân ta ngày xưa.

Bên cạnh đó, truyện còn có nhiều thành công về mặt nghệ thuật. Đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện giàu kịch tính. Những chỗ thắt nút, mở nút, bất ngờ mà vẫn hợp lí. Người đọc bất ngờ vì những câu nói ngây thơ của đứa trẻ lần đầu gặp cha, sửng sốt và thương tâm trước cái chết của người vợ, càng bàng hoàng khi đọc đến chi tiết: đứa con chỉ bóng cha in trên vách mà nói: “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Thì ra nguyên nhân nỗi đau khổ, nỗi oan ức của một con người, sự tan nát của một gia đình chỉ vì một “cái bóng” qua lời nói của trẻ thơ. Chính chi tiết đó làm nỗi oan nổi rõ lên với tất cả cái bi thảm của nó. Các nhân vật trong truyện tuy chưa thật sự có cá tính rõ rệt nhưng cũng biểu hiện được với một vài đặc điểm khá sắc sảo: đứa trẻ thì vô tư, người vợ thảo hiền thủy chung cam chịu, người chồng vừa nóng nảy hay ghen lại vừa cả tin nhẹ dạ. Truyện lại kết hợp chất hiện thực với những yếu tố hoang đường kì diệu gây hứng thú cho người đọc.Tuy nhiên do được viết bằng chữ Hán, với những cách diễn đạt bóng bẩy và ít nhiều công thức, ngôn ngữ của truyện còn gây cho ta cảm giác thiếu tự nhiên ta chưa biết được thực sự lời nói của cha ông ta ngày ấy. Nhưng dẫu sao, đây cũng là một truyện ngắn đầu tiên của văn học Việt Nam có những thành công sắc sảo.

Tóm lại, Chuyện người con gái Nam Xương là một câu chuyện tình đầy oan khuất. Qua truyện, ta hiểu được sự bất công phi lí của xã hội phong kiến đã đem đến nỗi đau khổ cho người phụ nữ đẹp trong văn chương Việt Nam thế kỉ XVI làm sáng ngời phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Dẫu đã trải qua nhiều thế kỉ, nhưng thời gian vẫn không làm giảm đi giá trị của tác phẩm văn học đặc sắc này. Tác phẩm là một trong những viên đá đầu tiên đã góp phần xây dựng nên ngôi nhà lớn văn xuôi Việt Nam.

Bài văn mẫu Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương – mẫu 2

Nguyễn Dữ, một học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thành tài, đỗ đạt, ông ra làm quan. Một năm sau, vì chán cảnh triều đình thối nát, ông đã lấy cớ phải nuôi mẹ già mà xin từ quan. Trong những ngày sống “cảnh điền viên vui tuế nguyệt”, ông viết “Truyền kỳ mạn lục”, một tác phẩm văn xuôi đầu tiên của văn học cổ Việt Nam gồm những truyện có những chi tiết li kì. Phần lớn ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam phải sống trong khuôn mẫu “tam tòng, tứ đức” của đạo đức phong kiến, mà “Chuyện người con gái Nam Xương” là một.

Truyện kể lại Vũ Thị Thiết vâng lời cha mẹ làm vợ Trương Sinh, một người kém học, đất nước gặp cảnh đao binh nên Trương Sinh phải ra trận. Một tuần sau, Vũ Nương sinh con đầu lòng. Một mình chị chăm lo mẹ chồng, lo tang ma khi mẹ chồng chết, nuôi dạy con và lo công việc đồng áng. Giặc tan, Trương Sinh về, nghe lời con mà nghi ngờ lòng chung thuỷ của vợ. Vũ Nương không minh oan được nên đành trẫm mình xuống sông. Nàng được hoàng hậu ở động Rùa giúp đỡ. Sau đó, nàng gặp Phan Lang, người hàng xóm đã cứu hoàng hậu ở động Rùa. Phan Lang về kể lại cho Trương Sinh nghe. Trương Sinh hối cải lập đàn cầu xin theo lời của nàng. Nàng hiện lên gặp chồng con nhưng lại quay về sống ở động Rùa vì hai người ở hai thế giới khác biệt. Cũng như truyện cổ, những kho truyện của Trung Hoa có ảnh hưởng nhiều đến nhà Nho đương thời (thế kỉ XVI). “Thiếu phụ Nam Xương” cũng có hai tuyến nhân vật, có những hoàn cảnh điển hình, có người giàu kẻ nghèo ở trong xã hội đang thời loạn lạc, nhiễu nhương. Nhưng dù sống trong hoàn cảnh nào thì người tốt vẫn không hề thay đổi bản chất của mình, mà Vũ Thị Thiết là nhân vật tiêu biểu. Vũ Nương nhà nghèo nhưng “tư dung tốt đẹp”, “thuỳ mị, nết na”. Thời phong kiến, con gái “tại gia tòng phụ” để có “công, dung, ngôn, hạnh’’, Vũ Nương được như thế chứng tỏ nàng có sắc đẹp (dung) trời cho nhưng “thuỳ mị, nết na” thì ắt là do sự giáo dục của gia đình. Nàng nghèo nhưng không mất nề nếp gia phong. Trái lại “Trương Sinh tuy con nhà hào phú nhưng không có học”. Một loạt các nhân vật tốt xuất thân từ những hoàn cảnh sống khác nhau như mẹ chồng, người láng giềng Phan Lang, hoàng hậu động Rùa Linh Phi … đủ chứng tỏ giàu nghèo tuy có ảnh hưởng đến hình thức sống nhưng khó thay đổi được bản chất của họ.

Video bài văn mẫu Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương

“Nam Xương tử nữ truyện” không chỉ giới thiệu những nhân vật tốt, xấu ấy mà còn thông qua họ Nguyễn Dữ muốn đề cao sự chung thuỷ và lòng bao dung luôn được nhân vật này thể hiện trong từng lời nói đến từng sự việc. Vâng lời cha mẹ chịu lấy Trương Sinh làm chồng, nàng đã trước sau như một làm người con hiếu thảo. Không chỉ hiếu thảo với cha mẹ ruột. Vũ Nương còn hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng một mình đã lo toan đỡ đần mẹ chồng lúc ốm đau, rồi mẹ chồng chết lại lo chôn cất. Người phụ nữ có con mọn như nàng mà vẫn chu toàn những công việc nặng nhọc ấy thay chồng mà không tiếng kêu than thì quả thật là hiếm có. Mẹ chết, một mình ở vậy nuôi con chờ ngày chồng trở về thì bảo nàng không chung thuỷ sao cho được?! Chồng với vợ như bóng với hình, nàng đã mượn chiếc bóng của mình để an ủi con, muốn đứa con nhỏ dại luôn nghĩ rằng mình cũng là đứa trẻ có cha. Khi bị Trương Sinh nghi ngờ, nàng đã bao lần hỏi rõ dù bị dằn vặt, chửi mắng, đánh đập. Nàng đã từng tâm sự với chồng: “Thiếp vốn con nhà khó, được nương tựa nhà giàu … Đâu có hư thân như lời chàng nói. Khi nhận thấy không thể nào xóa tan được mối nghi ngờ nhục nhã, hạ thấp phẩm giá một cách oan khuất, nàng đã quyết định tự trẫm mình, mượn dòng nước trong để rửa sạch những oan khiên. Xét cho cùng, kiên quyết bảo toàn danh dự của con người cũng là lòng chung thuỷ sắt son! Lại nữa khi gặp được Phan Lang, người hàng xóm tốt bụng ở động Rùa, Vũ Nương vẫn không quên chồng khi nàng tâm sự cùng Phan Lang và nhờ Phan Lang về nói lại với Trương Sinh yêu cầu của nàng, điều đó vừa thể hiện sự chung thuỷ, vừa tỏ ra bao dung đối với Trương Sinh.

Cả đến Phan Lang, hoàng hậu Linh Phi cũng đều là những người có lòng bao dung, chung thuỷ. Chỉ riêng có Trương Sinh là có lòng ích kỷ, hẹp hòi, tối dạ vì thuở nhỏ không lo chuyện sách đèn. Chỉ cần nghĩ đến công lao của vợ lúc chàng đang ở ngoài mặt trận, chỉ cần sống gần gũi với láng giềng, chỉ cần có lòng tin vào lòng chung thuỷ của vợ thì nghi vấn xuất phát từ lời nói của con nít “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng…” đã được giãi bày để rồi vợ chồng lại sống trong cảnh đầm ấm, thương yêu. Một nội dung khác thật rõ ràng trong chuyện là ân oán phân minh. Vũ Nương là người phụ nữ, có lẽ mang đặc tính ấy trong cuộc sống. Vì lẽ đó, khi nàng không còn đủ kiên nhẫn chờ đợi chồng biểu lộ ấy thì nàng tự biểu lộ. Cái chết của nàng hàm chứa ý nghĩa ấy, làm cho Trương Sinh phải nhận ra ân tình nàng đã mang đến cho chàng và nỗi oan khiên mà nàng phải chịu. Trường hợp giữa hoàng hậu Linh Phi và Phan Lang cũng vậy. Hoàng hậu đã được Phan Lang cứu nên khi Phan Lang gặp nạn khi lên thuyền ra biển tránh sự truy đuổi của quân giặc thì đã được Linh Phi hết lòng cứu chữa, lại thếp tiệc đãi, tặng thêm ngọc ngà … trước khi tiễn chân chàng trở về làng quê.

Như thế, ngay truyện ngắn thuộc văn viết, dù là chữ Hán trong buổi sơ khai cũng đang mang hoàn cảnh điển hình, con người điển hình của đời thường vào tác phẩm; cũng có đầy đủ người giàu, kẻ nghèo, hỉ – nộ – ái – ố với kết thúc có hậu ở nội dung là ở hiền gặp lành. Truyện có rất nhiều chi tiết nhưng được liên kết bởi quan hệ nhân quả nên có kết cấu khá chặt chẽ. Mở đầu truyện, Nguyễn Dữ đã khéo léo giới thiệu Vũ Thị Thiết và Trương Sinh, hai nhân vật chính có hoàn cảnh, tính cách trái ngược nhau để làm cơ sở cho việc khai thác nhân vật sau này. Tính tình, hoàn cảnh sống trái ngược nhau nhưng lại nên vợ nên chồng chỉ vì vâng lời cha mẹ. Quan hệ nhân quả thể hiện từ đầu. Từ đó, quan hệ nhân quả của hai nhân vật diễn ra một cách tự nhiên, hợp lý. Vì nước có loạn binh đao nên chàng mới ra trận. Vì chàng vào nơi gió cát nên nàng phải nặng gánh giang san nhà chồng. Vì con thơ nói đến cha nên mẹ đã mượn cái bóng của mình thay thế; cho con đỡ hổ thẹn với bạn bè. Vì nghe lời con trẻ nên Trương Sinh mới nghi ngờ vợ … Chuỗi nguyên nhân và kết quả đầy kịch tính ấy đã dần đến đỉnh điểm là Vũ Nương quyết định trầm mình. Nếu chuyện kết thúc ở đây thì quả là bi đát, không có hậu. Có lẽ vì thế mà những chi tiết thần kỳ được thêm vào. Ấy là Phan Lang nằm mơ thấy con rùa xanh kêu cứu. Rồi Phan Lang nhớ lại và thả rùa để rồi sau đó là được rùa cứu mạng trả ân và gặp Vũ Nương ở động Rùa. Những chi tiết thần kỳ ấy ở vào thời buổi mà vua quan, thần dân đều tin vào sự hiện hữu của Trời, Thần, Quỷ, Ma… giống như trong những truyện cổ thì cũng là điều không mấy ngạc nhiên. Có những chi tiết đó, Vũ Nương mới gặp được chồng để giải mối oan khiên, nhục nhã nhất của đời làm vợ. Và dù ra đời sau “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn ba thế kỷ, “Nam Xương tử nữ truyện” vẫn còn những câu văn biền ngẫu cổ xưa.

Dù có những hạn chế ấy nhưng truyện Người con gái Nam Xương không những có giá trị đạo lý, lịch sử (phản ánh sự rối ren của xã hội phong kiến) mà cũng có giá trị nghệ thuật xây dựng truyện. Cho tới nay, “Người con gái Nam Xương” vẫn còn lôi cuốn người đọc. Giữa xã hội nam nữ bình quyền thì nó là cột mốc để so sánh vai trò của người phụ nữ trong văn học xưa và nay. Giữa xã hội suy đồi về đạo đức, nhất là với nữ giới thì nội dung truyện là một bài học đạo đức truyền thống tốt.

 

Bài viết được sgkphattriennangluc.vn tham khảo từ nguồn:
https://thuthuat.taimienphi.vn/gioi-thieu-ve-tac-gia-nguyen-du-va-van-ban-chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong-41688n.aspx
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chuy%E1%BB%87n_ng%C6%B0%E1%BB%9Di_con_g%C3%A1i_Nam_X%C6%B0%C6%A1ng
https://docs.google.com/forms/u/0/d/1709p0flQQFmaFAK9VezA1EOfeIUsBdW1hCudM8FX-pk/edit
https://download.vn/thuyet-minh-ve-tac-gia-nguyen-du-va-chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong-44748
https://tailieumoi.vn/tai-lieu/19247/chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong-tac-gia-tac-pham-ngu-van-lop-9
https://vungoi.vn/lop-9/chi-tiet-ly-thuyet-tim-hieu-chung-ve-tac-pham-chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong-5d2fcfda5be1380022e5a3bf.html?trackingUrl=LessonDetailTemplate-Link
https://c3lehongphonghp.edu.vn/thuyet-minh-ve-tac-pham-chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong/
https://vndoc.com/thuyet-minh-ve-tac-pham-chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong-cua-nguyen-du-163867
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chuy%E1%BB%87n_ng%C6%B0%E1%BB%9Di_con_g%C3%A1i_Nam_X%C6%B0%C6%A1ng#:~:text=Nam%20X%C6%B0%C6%A1ng%20n%E1%BB%AF%20t%E1%BB%AD%20truy%E1%BB%87n,S%C6%A1%2C%20%C4%91%E1%BA%A7u%20th%E1%BB%9Di%20nh%C3%A0%20M%E1%BA%A1c.