“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” – Tuan V. Nguyen AM mới nhất

Hầu như ai trong chúng ta cũng đã từng nghe câu thơ bất hủ đó của Nguyễn Du. Nhưng câu thơ ấy cũng bao hàm một thông điệp rất quan trọng trong cuộc sống: đừng phán xét. Khi bạn phán xét người khác, hành vi đó phản ánh tâm trí của bạn nhiều hơn những người khác (“Đánh giá người khác nói nhiều về bạn hơn người khác).

người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của ai

‘Nhất thiết duy tâm tạo’

Cảnh nào mà không buồn / Người buồn bao giờ vui“. Đó là hai câu thơ tuyệt tác của Nguyễn Du miêu tả nỗi buồn của Kiều khi bị mẹ Tú Bà giam cầm ở lầu Ngưng Bích. Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra xa rất đẹp Trước khóa xuân của Ngông Bích‘, ĐượcCồn cát vàng, bụi hồng muôn dặm‘, nhưng cô vẫn buồn. Buồn vì lúc đó cô đơn và ở một nơi rất xa lạ. Trong nỗi buồn như vậy, xung quanh không còn tươi đẹp hay hạnh phúc.

Tâm trí ảnh hưởng đến tầm nhìn của chúng ta, và điều này rất đúng. Khi tâm chúng ta rộng mở, chúng ta nhìn đâu cũng thấy vui, và khi nhìn mọi vật, dù bi đát đến đâu, chúng ta cũng cảm thấy lạc quan. Nhưng khi tâm chúng ta tối tăm hoặc khi năng lượng thấp, rất khó nhìn thấy cái hay cái đẹp của người khác, và thấy Khắp nơi đều là màu xám. Cũng giống như câu nói “Nhất thiết nhất tâm sáng tạo“, nghĩa là tất cả mọi việc, mọi thiện ác thiện ác đều do tâm mà ra.

Người phương Tây có câu Chúng ta không thấy sự vật như chúng là, chúng ta thấy chúng như chúng ta là“. Câu này cũng có ý nghĩa tương tự (nhưng kém sâu sắc hơn) câu “Nhất thiết nhất tâm sáng tạo“, có nghĩa là chúng ta không thấy sự vật như chúng là, mà chúng ta thấy sự vật như chúng ta là. Cụ thể hơn, cách chúng ta nhìn mọi thứ phản ánh tâm trí của chúng ta, hoặc chúng ta là ai.

Nếu chúng ta có nhiều vấn đề như một gánh nặng, chúng ta tiêu cực, nhưng nếu chúng ta coi vấn đề là một cách để cải thiện bản thân, chúng ta tích cực. Điều này cũng có nghĩa là những khó khăn đến với chúng ta không phải từ bên ngoài, mà từ chính chúng ta.

tâm nghi ngờ

Người có tâm tiêu cực thường không tin tưởng ai. Họ có thói quen nghi ngờ người khác. Tôi biết một người đàn ông như thế, hầu như bất cứ ai—kể cả cha ông và người đoạt giải Nobel—ông đều đánh giá thấp! Khi đồng nghiệp được thưởng, anh ta quay sang nói về những thất bại của đồng nghiệp.

Hiểu về trái tim : nghệ thuật sống hạnh phúc của Minh Niệm

Trong cuốn sách “Hiểu về trái tim“, phần về”Nghi ngờ“, tác giả Minh Niệm giải thích rất thuyết phục (trang 155):

Có vẻ như tôi Chúng ta đang cố vạch trần những khuyết điểm hay sự vụng về của người khác để chúng ta né tránh hoặc khuyến khích người khác tẩy chay họ, chứ không phải để hiểu và yêu thương họ hơn.

Phần lớn, những nghi ngờ của chúng ta nhằm mục đích tự thỏa mãn, ngay cả khi chúng ta nhân danh một nhóm hoặc cộng đồng nào đó. Vậy, có khi nào nhân danh đạo đức, hay tình thương mà chúng ta chú ý đến những cái hay cái đẹp để khen ngợi, trong khi những biểu hiện khả nghi kia vẫn âm thầm quan sát và tìm cách giúp đỡ?

Tại sao chúng ta không tôn trọng người đó mặc dù chúng ta nghi ngờ về họ? Tại sao chúng ta không tự hỏi liệu người đó có đáng để chúng ta nghi ngờ hay vì chúng ta mắc căn bệnh nghi ngờ trầm trọng? Tại sao chúng ta không dám xin lỗi khi biết mình đã nghi ngờ sai? Vì vậy, nghi ngờ thường chỉ làm cho chúng ta yếu đuối và hèn nhát hơn.

TÔI Chúng ta không biết rằng mỗi khi chúng ta nảy sinh ý nghĩ nghi ngờ người khác, dù họ xấu hay không, thì một năng lượng rất độc hại lại được tạo ra trong tâm trí của chúng ta. Nó vừa đốt cháy nguồn năng lượng thuần khiết trong ta, vừa làm ta mất cơ hội tiếp xúc với sự sống huyền bí.

Bởi vì chúng tôi luôn bận rộn tìm kiếm thêm bằng chứng. Dù chúng ta chưa thốt ra lời nói hay hành động để bày tỏ sự nghi ngờ của mình, nhưng một khi đã hướng tâm đến đối phương để gửi gắm nghi ngờ, thì chúng ta đã gửi đi một năng lượng xấu.

Theo ‘quy luật cân bằng cảm xúc’, họ sẽ tìm cách tạo cho chúng ta một cảm xúc xấu tương ứng khác, nếu họ nhận ra sự nghi ngờ của chúng ta có bản chất xấu. Nếu không, vũ trụ sẽ yêu cầu một đối tượng khác trả lại một cảm xúc xấu khác.

Điều tồi tệ nhất là chúng ta đã nghi ngờ nhầm một con người nhân từ, đức độ – nơi hội tụ vô số nguồn năng lượng an lành của vũ trụ – thì hậu quả sẽ khôn lường. Đó là món nợ tình cảm rất lớn mà tôi và các con tôi sẽ phải mất nhiều thế hệ mới trả hết được. Vì vậy, đừng bao giờ buông bỏ những nghi ngờ một cách dễ dàng. Hãy tập “tự sám hối” hoặc trực tiếp bày tỏ sự ăn năn khi phát hiện ra mình đã vu oan cho ai đó để phần nào hóa giải hậu quả.

Bản án và câu chuyện nồi cơm Nhan Hồi

Chuyện kể rằng, Nhan Hồi (đệ tử của Khổng Tử) nấu cơm, Khổng Tử thấy Nhan Hồi mở nắp nồi, dùng đũa gắp cơm bỏ vào miệng ăn. Thấy vậy, Khổng Tử thất vọng về người đệ tử xuất sắc và than thở: “Chà! Chẳng lẽ học trò yêu của mình lại ăn vụng thầy, bạn vụng đến thế sao? Lễ phép và đạo đức ở đâu? Bao nhiêu kỳ vọng đặt vào đó, thành sông đổ biển!” Sau đó, để thử lòng Nhan Hồi, Khổng Tử ngỏ ý muốn xới một bát cơm dâng lên cha mẹ. Các đệ tử đều được cả, trừ Nhan Hồi là Khi được hỏi tại sao, Nhan Hồi đáp:

Vâng ạ, nồi cơm này không sạch ạ.Khi cơm chín, tôi mở nắp nồi Kiểm tra xem cơm đã chín chưa, chẳng may một cơn gió lùa vào, muội than và bụi nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. Tôi nhanh chóng che đậy nó, nhưng đã quá muộn. Rồi tôi liền xúc lớp cơm bẩn lên, định vứt đi… nhưng lại nghĩ: cơm thì ít, anh em thì nhiều, nếu bỏ đi lớp cơm bẩn này thì vô hình chung mình sẽ mất đi một phần ăn. , bạn phải ăn ít hơn. . Vì vậy con đã mạo phạm thầy và tất cả anh em, ăn cơm bẩn trước, cơm sạch để cúng dường thầy và tất cả anh em… Thầy ơi, hôm nay con ăn cơm… bây giờ, con xin lỗi, con không ăn cơm nữa, chỉ ăn rau thôi. Và… thưa ông, niêu cơm đã ăn hết không nên cúng nữa!

Sau khi nghe giải thích, Khổng Tử than thở:Ồ! Thế nên trên đời này có những chuyện chúng ta thấy rõ tận mắt nhưng vẫn không hiểu được sự thật! Khổng Tử này gần như trở thành một kẻ ngốc!”

Nồi cơm Khổng Tử
Nồi cơm Nhan Hồi

Câu chuyện này rất nổi tiếng và được kể đi kể lại trong các sách Phật học và xã hội học. Bài học là dù mắt thấy, tai nghe cũng vẫn có thể bị hiểu lầm, bởi sự việc ‘thấy mà không phải vậy’. Vì vậy, nếu chỉ nhìn bằng mắt, nghe bằng tai mà không tìm hiểu cặn kẽ, đặt vào ngữ cảnh thì con người chúng ta – dù thông thái như Khổng Tử – vẫn phạm sai lầm. Bài học là đừng vội phán xét dựa trên một vài dữ kiện có sẵn.

Người Phật tử thường khuyên chúng ta dùng chánh niệm và lòng từ bi để nhìn sự vật và con người. Nó có nghĩa là nhìn mọi thứ đúng như bản chất của chúng hơn là đưa ra phán xét.

“Đầu óc mệt mỏi

Yêu và ghét không bao giờ dừng lại

Ngừng phân biệt đối xử

Tôi sẽ chỉ tìm thấy chính mình.”

(Minh Niệm)

_____

bệnh lao: Bài này tôi viết là để những ai đang chỉ trích Thầy Nhất Hạnh (và cả Thiện Âm) nên nhìn lại mình. Hãy thay đổi bản thân mình trước rồi mới thay đổi hay phán xét người khác. Họ chỉ trích người khác, nhưng cách họ chỉ trích cho chúng ta biết nhiều điều về họ hơn là nạn nhân của họ.

tôi có rất nhiều bạn [có thể nói là] tham gia cùng với một số người khác cho rằng Thầy Nhất Hạnh đã tuyên bố rằng “Lính Mỹ ném bom và giết chết 300.000 người ở thị xã Bến Tre”. Trên thực tế, anh ấy không nói như vậy; anh ấy nói (bằng lời nói):

“…Một lần tôi được biết thành phố Bến Tre, THÀNH PHỐ BA TRĂM NGÀN NGƯỜI, bị máy bay Mỹ ném bom chỉ vì một số du kích vào thành phố định bắn rơi máy bay Mỹ..” Có lần tôi được biết thị xã Bến Tre, một thị xã có 300.000 dân, đã bị không quân Mỹ ném bom chỉ vì một số du kích vào thị xã định bắn máy bay Mỹ.

Như quý vị thấy, Thầy Nhất Hạnh không nói lính Mỹ giết 300,000 người ở Bến Tre. Tuy nhiên, ông đã nhầm về con số, vì lúc đó Bến Tre là một thị xã chỉ có 70-80.000 dân. Nhưng sai lầm đó có quan trọng không? Theo tôi là không, vì con số đó không phải là bằng chứng cho thông điệp mà anh ta muốn nói (đánh bom cả thị trấn chỉ vì một vài du kích xâm nhập).

Một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du chính là thiên hướng đặc sắc trong việc tả cảnh ngụ tình. Đại thi hào đã có hai câu thơ rất hay để tổng kết phong cách nghệ thuật tài tình này:

“Cảnh nào không mặc sầu

Cảnh buồn người vui có bao giờ”…

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Thành công lớn của thiên tài Nguyễn Du trong lối hành văn này là ở tám dòng cuối của đoạn văn Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích đoạn.) Truyện Kiều SGK Ngữ văn 9 tập 1):

“Buồn nhìn khung cửa nát chiều

Một con thuyền căng buồm thấp thoáng phía xa?

Buồn khi nhìn thấy nước mới

Hoa trôi về đâu?

Thật buồn khi nhìn buồn

Chân mây xanh đất xanh

Buồn khi thấy gió thổi vào mặt

Tiếng sóng ầm ĩ quanh ghế”.

Bản thân tên gọi của phong cách đã hàm chứa phương thức biểu đạt “tả cảnh” nhưng “ngụ ý”. Nghĩa rõ ràng của từ láy là miêu tả thiên nhiên, cảnh vật nhưng qua đó nhà thơ muốn gửi gắm tình, nghĩa của nhân vật trữ tình. Như trong hai câu thơ sau:

Bật mí:  Phân tích nhân vật Vũ Nương hay nhất (Sơ đồ tư duy + 18 mẫu) mới nhất

“Cảnh nào không đeo sầu

Cảnh buồn người vui có bao giờ”

Nhà thơ đã khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa cảnh và tình: cảnh theo tình, cảnh buồn thì tình cũng buồn. Và như thế, bức tranh phong cảnh trở thành bức tranh tâm trạng.

Trong tám câu thơ cuối của đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du đã vận dụng thành công bút pháp tả cảnh ngụ ngôn.

Cảnh vật được miêu tả một cách tứ giác trong mắt bốn bể và từ xa đến gần. Cảnh đầu tiên mà Kiều nhìn vào là cảnh tan cửa nát trong một buổi chiều:

“Buồn nhìn cửa biển chiều

Một con thuyền căng buồm thấp thoáng phía xa”…

Không gian bao la và thời gian khi hoàng hôn buông xuống vĩnh hằng luôn gợi lên nỗi buồn, sự cô đơn. Giữa khung cảnh ấy, cánh buồm “lênh đênh” vô định hiện ra như một ảo ảnh. Hình ảnh cánh buồm dễ làm ta liên tưởng đến những chuyến đò xuôi ngược bến bờ quê hương. Khung cảnh gợi lên trong lòng người xa xứ nỗi nhớ da diết cha mẹ, quê hương xa cách, nỗi cô đơn và niềm mong mỏi ngày đoàn tụ.

Trên mặt nước mênh mông của biển cả lênh đênh, những cánh hoa trôi trên mặt nước mới gợi lên trong lòng Kiều nỗi buồn thân phận lênh đênh không biết sẽ bị trôi dạt hay vùi dập:

“Buồn thay nước mới

Hoa trôi về đâu”…

Cảnh khiến Kiều chạnh lòng cho thân phận, số phận. Sau một cửa biển, một cánh hoa giữa nước là một cảnh cỏ nội:

“Thật buồn khi nhìn cỏ buồn

Chân mây xanh đất xanh”…

Cả một vùng cỏ bao la, nhưng khác hẳn với thảm cỏ ngày khai phá: “cỏ non xanh rợn chân trời” là màu cỏ “buồn” – một màu vàng gợi sự héo úa, buồn bã. Màu xanh nhạt trải dài từ mặt đất đến chân mây không phải là màu của sự sống hy vọng mà chỉ gợi lên sự buồn chán vô vọng bởi cuộc sống vô vị, tẻ nhạt, cô đơn không bao giờ kết thúc này. . Khung cảnh mờ ảo như tương lai tăm tối, thân phận hèn nhát bên trong của Thúy Kiều. Và cuối cùng là cảnh sóng dậy ầm ĩ sau gió:

“Thật buồn khi thấy gió thổi vào mặt bạn

Tiếng sóng vỗ ầm ầm quanh ghế”

Tiếng sóng như báo trước những giông tố khốc liệt của cuộc đời hay cũng chính là tiếng kêu đau của Kiều vang vọng cùng thiên nhiên. Kiều không chỉ buồn mà còn sợ hãi, khiếp sợ như đứng trước sóng gió, giông bão của cuộc đời sắp ập xuống đầu. Cảnh vật được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Cảnh vật ngày càng rõ hơn để diễn tả nỗi buồn từ hoang mang mơ hồ đến lo lắng sợ hãi đến nội tâm giông bão. Thiên nhiên chân thực, sống động nhưng mờ ảo vì được nhìn theo quy luật “cảnh không buồn, người buồn bao giờ vui”. Và nó cũng là hiện thân, là chứng tích của quá khứ đau thương, của hiện tại cô đơn bất hạnh và báo trước một tương lai khủng khiếp. Tất cả chỉ là hình ảnh của sự bấp bênh, mong manh, vô vọng, trôi dạt, bế tắc.

Bên cạnh những từ gợi hình, từ tượng thanh, tượng hình, bài thơ còn thành công trong việc sử dụng phép láy “buồn trông”. Câu này được Nguyễn Du mượn trong ca dao:

“Thật buồn khi thấy con nhện giăng tơ…

Thật buồn khi thấy sự khác biệt trong sao mai…”

Bốn cặp lục bát cũng là bốn cảnh, các cặp câu liên kết với nhau bằng lối ám chỉ truyền thống:

Buồn nhìn biển chiều

Buồn khi nhìn thấy nước mới

Buồn nhìn cỏ mỡ

Buồn khi thấy gió thổi vào mặt

“Buồn trông” là nhìn xa xăm mong chờ một điều gì đó mơ hồ sẽ đến để thay đổi hiện tại nhưng nhìn vô vọng. “Buồn trông” có cái bâng khuâng, có cái lạ thu hút tầm nhìn, có cái linh cảm sợ hãi của người con gái lần đầu lạc lõng giữa dòng đời. Điệp ngữ kết hợp với các hình ảnh phía sau và các từ láy đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc thái khác nhau, tràn ngập lớp lớp như sóng lòng. Tiếng hiệp tạo vần bằng, gợi âm hưởng trầm buồn, da diết, thể hiện nỗi buồn mênh mang, vô vọng vô tận. “Buồn trông” trở thành điệp khúc của câu thơ cũng như điệp khúc của tâm trạng. Với gam màu nhạt và lạnh, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh tứ bình tâm trạng vô cùng độc đáo và giàu cảm xúc. Nguyễn Du đã chọn cách thể hiện “cái tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” thật độc đáo, tạo nên một tứ thơ tuyệt vời với thiên hướng tả cảnh ngụ ngôn.

Bút pháp tả cảnh ngụ ngôn là một phong cách nghệ thuật tinh tế và độc đáo. Cần có sự đồng cảm tri kỷ với nhân vật trữ tình thì mới đạt đến độ chín của lối viết. Và như vậy, với việc vận dụng thành công thủ pháp nghệ thuật này trong việc thể hiện tâm trạng Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích, Nguyễn Du đã bộc lộ một tâm hồn nhạy cảm, đa diện và một tâm hồn nhân hậu tuyệt vời. .

Based on the verse: Sad scene where people have fun ever. Please comment a few points on the art of depicting scenes by Nguyen Du.
Sad scene where people have fun ever

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh giàu cảm xúc, để lại ấn tượng khó phai trong lòng người đọc. Với sự phân tích hai câu thơ trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích “Cảnh không buồn, cảnh buồn chẳng vui”… Dưới đây sẽ giúp bạn hiểu sâu sắc hơn về tâm trạng đó.

Một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du chính là thiên hướng đặc sắc trong việc tả cảnh ngụ tình. Đại thi hào đã có hai câu thơ rất hay để tổng kết phong cách nghệ thuật tài tình này:

“Cảnh nào không đeo sầu

Cảnh buồn người vui có bao giờ”…

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Bản thân tên gọi của phong cách đã hàm chứa phương thức biểu đạt “tả cảnh” nhưng “ngụ ý”. Nghĩa rõ ràng của từ láy là miêu tả thiên nhiên, cảnh vật nhưng qua đó nhà thơ muốn gửi gắm tình, nghĩa của nhân vật trữ tình. Như trong hai câu thơ sau:

“Cảnh nào không đeo sầu

Cảnh buồn người vui có bao giờ”

Nhà thơ đã khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa cảnh và tình: cảnh theo tình, cảnh buồn thì tình cũng buồn. Và như thế, bức tranh phong cảnh trở thành bức tranh tâm trạng.

Nói đến bút pháp tả cảnh, chúng ta phải thừa nhận rằng trong Truyện Kiều có một nghệ thuật siêu việt. Mỗi cảnh tác giả nhắc đến đều tác động đến tâm trạng của người xem, đặc biệt là tâm trạng vui buồn của nàng Kiều đa sầu, đa cảm. Khi gia đình còn đang trong thời kỳ giàu có, chưa gặp cảnh gia đình khủng hoảng, chị em Kiều đã đi thanh minh trong một thời thanh xuân. Trong cảnh xuân, ai cũng đắm say với cảnh sắc, nhất là chị em Kiều đang ở độ tuổi thanh xuân, tràn đầy yêu đời. Ta thấy Nguyễn Du tả cảnh qua hồn quan họ:

“Cỏ xanh tận chân trời

Có mấy bông hoa trên cành lê trắng”

Cảnh cỏ xanh, hoa trắng phải chăng đã ánh lên niềm hân hoan, hân hoan của người trong cảnh. Đi hội Đọi Thành về, Kiều nghĩ đến Đạm Tiên, cảm thương cho người con gái tài hoa mà bất hạnh, để chuẩn bị cho ước mơ của mình, ta thấy câu:

Đúng là cảnh với tình luôn đi đôi với nhau, cảnh dựa vào tình, tình hỗ trợ cho cảnh. Tóm lại, nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du trong Truyện Kiều rất chủ quan, chủ quan về ngữ cảnh, chủ quan về màu sắc… Ngoài ra, tác giả đã sử dụng nghệ thuật phóng khoáng, súc tích và mang nhiều sắc thái dân tộc.

Việc miêu tả cảnh vật hoàn toàn khách quan sẽ làm cho cảnh vật trở nên nhạt nhẽo, vô vị, dù nó có hào nhoáng đến đâu mà không gây được ấn tượng mạnh đối với người đọc. Một nghệ thuật khách quan sẽ không làm cho người đọc liên tưởng cảnh bên ngoài và tình bên trong. Vì vậy không thể có nghệ thuật hoàn toàn khách quan.

Cảnh buồn người vui có bao giờ

Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một truyện cổ tích bất hủ, đặc sắc, tiêu biểu có giá trị vĩnh hằng. Tác phẩm ấy còn ghi dấu nhiều vần thơ quen thuộc trong đời sống hôm nay, và một trong số đó là hai câu thơ “Cảnh không buồn bao giờ/ Người buồn bao giờ vui”. Đây là hai câu thơ trích trong bài “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, một bài thơ mà ở đó người đọc cảm nhận được nỗi đau đớn, xót xa, tủi nhục của nàng Kiều trong cuộc đời trường cửu. Xuất phát từ tâm trạng đó của Kiều, hai câu thơ trên còn mở ra một tầng nghĩa, đó là về sự tác động của tình cảm, tâm hồn con người với ngoại cảnh, mà cụ thể ở đây là khi con người u uất, buồn bã thì ngoại cảnh cũng từ đó mà ra. ở đó dưới cái nhìn của con người, cũng như buồn theo con người đó. Quan niệm này của Nguyễn Du cũng không phải hoàn toàn không có cơ sở, nó có xu hướng bàn về tâm lý con người nói chung. Nếu nàng Kiều ở trong hoàn cảnh ấy ở lầu Ngưng Bích thì đâu đâu cũng thấy buồn “Buồn trông nước mới/ Hoa trôi giữa trời biết về đâu”, hay “Buồn nhìn cỏ buồn/ Những bước chân của mây trên mặt đất xanh”, khung cảnh thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng, cô buồn, buồn đến mức cô cảm thấy vô vọng và mơ hồ trong tương lai. Trong cuộc sống cũng vậy, đôi khi con người ta có những nỗi buồn, cho dù thiên nhiên xung quanh có rực rỡ và sống động đến đâu, con người cũng khó mà vui được, nếu nỗi buồn đó quá nhiều. sâu. Câu thơ có thêm ý nói lên sự tác động của tâm trạng đối với ngoại cảnh, ý nói “cảnh chẳng mấy khi vui” cũng chính là để khẳng định tâm trạng buồn bã của con người đến cùng cực, khiến người suy nghĩ đến sự tác động đến ngoại cảnh. Khi ta vui, nhìn đâu cũng thấy màu sắc và sức sống, ngược lại, khi ta buồn, mọi vật dưới mắt ta cũng chỉ toàn u ám, mờ ảo. Xét về tâm lý chung của con người, thơ Nguyễn Du hoàn toàn phù hợp, ta hiểu vì sao xưa hay nay, trong văn học nói riêng, các nhà thơ, nhà văn luôn sử dụng lối hành văn trên như một trong những yếu tố sáng tạo tác phẩm của mình. bởi vì nó giúp văn học trở nên giàu cảm xúc, sinh động và sống động hơn, “Tân Thanh Trường” là một ví dụ hoàn hảo cho điều này. đồ thị. “Cảnh chẳng buồn bao giờ/ Người buồn bao giờ vui” là một ý thơ, dù ở bất cứ thời đại nào, giá trị của nó vẫn vẹn nguyên và tràn đầy ý nghĩa mãi mãi.

Bật mí:  Xem Phim Chiến Thần Tập 1 VietSub mới nhất

>>> Xem thêm: Phân tích 8 câu cuối truyện Kiều ở lầu Ngưng Bích, học sinh giỏi văn

Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một truyện cổ tích bất hủ, đặc sắc, tiêu biểu có giá trị vĩnh hằng. Tác phẩm ấy còn ghi dấu nhiều câu thơ quen thuộc trong đời sống hôm nay, và một trong số đó là hai câu thơ.

“Cảnh nào không đeo sầu

Cảnh buồn người vui có bao giờ”.

Đây là hai câu thơ trích trong bài “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, một bài thơ mà ở đó người đọc cảm nhận được nỗi đau đớn, xót xa, tủi nhục của nàng Kiều trong cuộc đời trường cửu. Xuất phát từ tâm trạng đó của Kiều, hai câu thơ trên còn mở ra một tầng nghĩa, đó là về sự tác động của tình cảm, tâm hồn con người với ngoại cảnh, mà cụ thể ở đây là khi con người u uất, buồn bã thì ngoại cảnh cũng từ đó mà ra. ở đó dưới cái nhìn của con người, cũng như buồn theo con người đó. Quan niệm này của Nguyễn Du cũng không phải hoàn toàn không có cơ sở, nó có xu hướng bàn về tâm lý con người nói chung.

Nếu nàng Kiều ở trong cảnh ấy ở lầu Ngưng Bích, nhìn đâu cũng thấy buồn

“Buồn thay nước mới

Hoa trôi về đâu”

Đẹp:

“Thật buồn khi thấy cỏ buồn

Chân mây xanh đất xanh”

Cảnh sắc thiên nhiên nhuốm màu tâm trạng, cô buồn, buồn đến nỗi cô thấy vô vọng, mơ hồ ở tương lai. Trong cuộc sống cũng vậy, đôi khi con người ta có những nỗi buồn, cho dù thiên nhiên xung quanh có rực rỡ và sống động đến đâu, con người cũng khó mà vui được, nếu nỗi buồn đó quá nhiều. sâu. Câu thơ có thêm ý nói lên sự tác động của tâm trạng đối với ngoại cảnh, ý nói “cảnh chẳng mấy khi vui” cũng chính là để khẳng định tâm trạng buồn bã của con người đến cùng cực, khiến người suy nghĩ đến sự tác động đến ngoại cảnh. Khi ta vui, nhìn đâu cũng thấy màu sắc và sức sống, ngược lại, khi ta buồn, mọi vật dưới mắt ta cũng chỉ toàn u ám, mờ ảo. Xét về tâm lý chung của con người, thơ Nguyễn Du hoàn toàn phù hợp, ta hiểu vì sao xưa hay nay, trong văn học nói riêng, các nhà thơ, nhà văn luôn sử dụng lối hành văn trên như một trong những yếu tố sáng tạo tác phẩm của mình. bởi vì nó giúp văn học trở nên giàu cảm xúc, sinh động và sống động hơn, “Tân Thanh Trường” là một ví dụ hoàn hảo cho điều này. đồ thị.

“Cảnh nào không đeo sầu

Cảnh buồn người vui có bao giờ”

Đây là một ý thơ dù ở bất kỳ thời gian và địa điểm nào thì giá trị của nó vẫn còn nguyên vẹn và đầy ý nghĩa mãi mãi.

—————————

Trên đây là những giải pháp hàng đầu mà bạn đã tìm hiểu về hai câu thơ trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Chúng tôi hy vọng rằng bạn đã có được những kiến ​​thức hữu ích khi đọc bài viết này, chúc bạn học tốt!

Thơ Nguyễn Du: “Một người buồn chẳng vui…

Top 1: Câu thơ của Nguyễn Du: “Người ta buồn bao giờ mới vui” là một sự thật…

Tác giả: amp.tracnghiem.net – Nhận 228 đánh giá

Kết quả tìm kiếm phù hợp: Câu thơ của Nguyễn Du: “Cảnh buồn bao giờ vui” là biểu hiện của: A. Sự ổn định của nhận thức. B. Tính ý nghĩa của nhận thức. …

Top 2: Cảnh nào…chẳng vui bao giờ (Truyện Kiều – Nguyễn Du) Thuyết minh ngắn…

Tác giả: m.loigiaihay.com – Nhận 378 đánh giá

Bản tóm tắt: Một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du chính là thiên hướng đặc sắc trong việc tả cảnh ngụ tình. Đại thi hào đã có hai câu thơ rất hay để tổng kết phong cách nghệ thuật tài tình này: “Cảnh mà buồn mà chẳng vui Cảnh buồn bao giờ vui”… (Truyện Kiều – Nguyễn Du) Đạt được thành công rực rỡ của thiên tài Nguyễn Du trong phong cách sáng tác này là 8 dòng cuối của đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích (trích Trấn Quốc).

Kết quả tìm kiếm phù hợp: Người buồn có bao giờ vui”… (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Đạt đến thành công lớn của thiên tài Nguyễn Du ở thể văn này là tám câu thơ … …

Top 3: Thơ Nguyễn Du: “Người buồn có vui không… – CungHocVui

Tác giả: Cunghocvui.com – Nhận 220 đánh giá

Bản tóm tắt: Home Test & Test Home Khác Câu hỏi trắc nghiệm tâm lý học đại cương khác – Phần 4 (Có đáp án) Thơ Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui bao giờ… Hỏi: Câu thơ của Nguyễn Du: “Người vui cảnh buồn bao giờ vui” là sự thể hiện : A. Tam giác ổn định. B. Tính ý nghĩa của nhận thức. C. Tính đối tượng của tri giác. D. Nhận thức chung.Đáp án D. Câu hỏi trên thuộc bộ câu hỏi trắc nghiệm Trắc nghiệm Tâm lý học đại cương – Phần 4 (Có đáp án) Other Other Other – Khác

Kết quả tìm kiếm phù hợp: Câu thơ của Nguyễn Du: “Người ta buồn, ở đâu vui” là biểu hiện của: Hỗ trợ học tập, giải toán, tài liệu miễn phí Toán, Soạn Văn, Địa lý. …

Top 4: Người Buồn Có Bao Giờ Vui Thơ Nguyễn Du

Tác giả: smarthack.vn – Nhận 123 đánh giá

Bản tóm tắt: Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một truyện cổ tích bất hủ, đặc sắc, tiêu biểu có giá trị vĩnh hằng. Tác phẩm ấy còn ghi dấu nhiều vần thơ quen thuộc trong đời sống hôm nay, và một trong số đó là hai câu thơ “Cảnh không buồn bao giờ/ Người buồn bao giờ vui”. Đây là hai câu thơ trích trong bài “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, một đoạn thơ mà người đọc có thể cảm nhận được nỗi đau đớn, xót xa, tủi nhục của nàng Kiều trong cuộc đời.

Kết quả tìm kiếm phù hợp: Ngày 18 tháng 5 năm 2021 — Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du là áng văn bất hủ, đặc sắc, tiêu biểu có giá trị vĩnh hằng. Công việc cũng đánh dấu rằng … …

Top 5: Người buồn không bao giờ vui – Bí Quyết Wiki

Tác giả: wikisecret.com – Nhận 122 đánh giá

Bản tóm tắt: Hướng dẫn Dựa vào câu ca dao: Người sầu bao giờ vui. Em hãy nhận xét vài điểm về nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du. Một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du chính là thiên hướng đặc sắc trong việc tả cảnh ngụ tình. Đại thi hào đã có hai câu thơ thật hay để tổng kết phong cách nghệ thuật tài tình này: “Cảnh nào mà chẳng buồn. Cảnh buồn bao giờ vui”… (Truyện Kiều – Nguyễn Du) Đạt được thành tựu vĩ đại của thiên tài Nguyễn Du trong việc này bút là

Kết quả tìm kiếm phù hợp: Người sầu bao giờ vui”… (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Đạt được thành công lớn của thiên tài Nguyễn Du trong lối viết này là tám câu thơ cuối… …

Top 6: CÁ TÍNH | Khác – Quizizz

Tác giả: quizizz.com – Nhận 91 đánh giá

Kết quả tìm kiếm phù hợp: Câu thơ “Người buồn đâu người vui” của Nguyễn Du là sự thể hiện của quy luật … ? lựa chọn trả lời. Tam giác ổn định. …

Top 7: Những câu nói cảnh người buồn cảnh vui chưa bao giờ là triết lý…

Tác giả: biquyetxaynha.com – Nhận 209 đánh giá

Kết quả tìm kiếm phù hợp: Câu thơ của Nguyễn Du: “Khi buồn người ta chẳng vui bao giờ” là biểu hiện của: A. Sự vững vàng về kiến ​​thức… …

Top 8: Trong “Truyện Kiều” Nguyễn Du có viết: “Cảnh gì không mặc…

Tác giả: hoc24.vn – Nhận 1232 đánh giá

Bản tóm tắt: Phân tích bút pháp tả cảnh ngụ tình độc đáo của tác giả Nguyễn Du trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.

Kết quả tìm kiếm phù hợp: Cảnh buồn mà người vui có bao giờ”. Đoạn thơ trên có liên hệ gì với phong cách thơ của thi nhân trong truyện Kiều. -Bút pháp tả cảnh ngụ tình là bút pháp… …

Top 9: Người buồn có bao giờ vui – huyenthoaidota.vn

Tác giả: huyenhoaidota.vn – Nhận 127 đánh giá

Bản tóm tắt: Bài văn Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một truyện cổ tích bất hủ, đặc sắc và mang tính hình tượng có giá trị vĩnh hằng. Bạn đang xem: Người buồn có bao giờ vui, tác phẩm nào cũng ghi dấu ấn nhiều chữ nghĩa. bài thơ quen thuộc trong đời sống hôm nay, và một trong số đó là hai câu thơ “Cảnh không buồn bao giờ/ Người buồn bao giờ vui”. Đây là hai câu thơ trong bài “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, một câu thơ mà người đọc có thể cảm nhận được bao nỗi đau.

Kết quả tìm kiếm phù hợp: Ngày 3 tháng 9 năm 2021 — Giải thích một bài thơ, cảnh không buồn, người buồn, cảnh không bao giờ vuiTruyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một thiên tài … …

Reluctant joys at brothel

Happy green floor

Distant fears of misfortune

The silver part worries

người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của ai

Người buồn không bao giờ vui: tâm trạng chủ thể đầy ưu sầu, nội tâm u ám và bi quan, khó hiểu vẻ đẹp bên ngoài, cảnh không vui mặc dù người khác (trong tâm trạng vui) cảm nhận được niềm vui vẻ đẹp của cảnh.

Bật mí:  How to Ask Someone About Their Health Condition – ESL Advice mới nhất

Đoạn Kiều trên lầu Ngưng Bích: “.. Khi người buồn, họ chẳng bao giờ vui” (Cảnh không buồn, người buồn chẳng bao giờ vui). Kim cổ tự luận về nhiều giá trị của Kiều, thiên tài Nguyễn Du miêu tả bức tranh xã hội đương thời, muôn thuở trong Kiều, giá trị nhân văn dưới góc nhìn của những con người trong số phận. từ lâu đã chỉ ra giá trị đạo Phật trong truyện Kiều, trong tư tưởng của Nguyễn Du. Người viết khi đọc Kiều tâm đắc với chủ nghĩa duy tâm của tác giả ở một câu trong tác phẩm lớn này.

Người buồn không bao giờ vui: tâm trạng chủ thể đầy ưu sầu, nội tâm u ám và bi quan, khó hiểu vẻ đẹp bên ngoài, cảnh không vui mặc dù người khác (trong tâm trạng vui) cảm nhận được niềm vui vẻ đẹp của cảnh. Bài thơ ngắn gọn nhưng ẩn chứa nhiều vấn đề triết lí, tư tưởng lớn.

Nguyễn Du khẳng định một quy luật rằng chủ thể buồn không thể phản ánh niềm vui của ngoại cảnh. Không riêng gì tình trạng của nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích, câu chuyện buồn lan ra ngoại giới khiến ta không thể vui nổi, hầu như ai cũng có tấm gương. Khi vui thì cảnh thường vui, khi buồn thì có diệu hay huy hoàng mà biến thành cảnh buồn.

Theo Nguyễn Du, chủ quan người xem quyết định cảnh vui hay buồn, nhà thơ không đồng ý rằng cảnh khách quan quyết định lòng người xem buồn hay vui – cảnh đẹp là cảnh vui. cảnh vui vẻ. Đưa ý này lên, thành một quan niệm duy vật hay duy tâm giữa người và cảnh.

Những người duy vật bảo thủ và cứng nhắc về nhận thức sẽ cho rằng quan niệm của Nguyễn Du là không đúng: vật chất quyết định ý thức, ý thức chỉ là sự phản ánh hiện thực vật chất, nên cảnh vui thì ắt có cảnh vui. Huh?

Nguyễn Du không nghĩ như vậy, như đã nói. Ông cho rằng, cảnh quyết định, tâm quyết định và có nhiều câu trong Kiều nói về cái TÂM đóng vai trò lớn trong việc quyết định như thế nào, bởi “cái tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt, nhất quán của Truyện Kiều và ngoài Truyện Kiều, tư tưởng của thi hào Nguyễn Du là tư tưởng duy tâm, gần gũi với Phật giáo trong việc nhìn nhận sự vật, hiện tượng, thân phận con người. Thời Nguyễn Du, ở phương Đông đã nẩy mầm không nhỏ của chủ nghĩa duy vật, và quan niệm của ông trong Truyện Kiều không chỉ có ở truyện Kiều và với thi hào Nguyễn Du nói riêng mà nó có tính phổ quát. đương thời.

Tuy nhiên, nó cũng mang tính thời sự đối với cuộc sống hiện đại đề cao vai trò chủ thể của con người, tính cá nhân, quyền lực tư tưởng và xem xét lại những quan niệm duy vật giản đơn, cứng nhắc.

Và, quả thật không cần suy nghĩ, chỉ xét trong một câu Kiều và xét thực tế cuộc đời, quả thật “người buồn có kiếp vui”.

Đó cũng chính là ý Phật, một ánh sáng cũng bắt nguồn từ phương Đông, “vạn pháp do tâm tạo”, vạn vật đều do tâm tạo.

Ở thời Nguyễn Du, bối cảnh Truyện Kiều và Phật giáo đã xuất hiện từ lâu ở phương Đông và Việt Nam, định hình, phát triển, có thành tựu và việc tìm ý nghĩa Phật giáo trong một tác phẩm như Truyện Kiều – cũng là chuyện bình thường.

Tìm lại Kiều, chia sẻ…

nguyễn thành công

Đoạn trường tân thanh (chữ Hán: 斷腸新聲), thường được biết đến với cái tên đơn giản là Truyện Kiều (chữ Nôm: 傳翹), là một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem là truyện thơ nổi tiếng nhất và xét vào hàng kinh điển trong văn học Việt Nam, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát, gồm 3.254 câu.

 

Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814–1820). Lại có thuyết nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng cuối thời Lê đầu thời Tây Sơn.[1] Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn.[2] Ngay sau khi ra đời, Truyện Kiều được nhiều nơi khắc in và lưu hành rộng rãi. Hai bản in xưa nhất hiện còn là bản của Liễu Văn Đường (1871) và bản của Duy Minh Thị (1872), đều ở thời vua Tự Đức.[2]

Truyện dựa theo bộ truyện văn xuôi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân[3], lấy bối cảnh Trung Quốc thời vua Gia Tĩnh Đế đời nhà Minh (từ năm 1521 tới năm 1567). Có một số nhân vật như tổng đốc Hồ Tôn Hiến, kỹ nữ Vương Thúy Kiều, nhân vật Từ Hải là có thật trong lịch sử.

Bản in khắc đầu tiên năm 1902 có tựa chính thức là Đoạn trường tân thanh (chữ Hán: 斷腸新聲), có nghĩa là ” tiếng kêu mới về nỗi đau lòng đứt ruột”.

Tác giả nêu luận đề[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Du đem thuyết “tài mệnh tương đố” (tài và mệnh ghét nhau) làm luận đề cuốn truyện.

nothumb

Tả hai chị em[sửa | sửa mã nguồn]

Vào khoảng thời vua Minh Thế Tông, trong một gia đình viên ngoại (員外) họ Vương (王) có ba người con là Thuý Kiều (翠翹) (trưởng nữ), Thuý Vân (翠雲) (thứ nữ) và Vương Quan (王觀) (con trai út). Hai chị em Thuý Kiều và Thuý Vân thì “mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”, nhưng “so bề tài sắc” thì Thúy Kiều “lại là phần hơn”.

頭弄𠄩婀素娥 (Đầu lòng hai ả tố nga)
翠翹羅姊 (Thúy Kiều là chị), 㛪羅翠雲 (em là Thúy Vân)
梅骨格 (Mai cốt cách), 雪精神 (tuyết tinh thần)
每𠊚沒𨤔 (Mỗi người một vẻ), 𨑮分援𨑮 (mười phân vẹn mười)

Kiều thăm mộ Đạm Tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Trong một lần đi tảo mộ vào tết Thanh minh, khi đi qua mộ Đạm Tiên (淡仙), một “nấm đất bên đường”, Kiều đã khóc thương và không khỏi cảm thấy ái ngại cho một “kiếp hồng nhan”, “nổi danh tài sắc một thì” mà giờ đây “hương khói vắng tanh”. Vốn là một con người giàu tình cảm và tinh tế nên Kiều cũng đã liên cảm tới thân phận của mình và của những người phụ nữ nói chung:

𤴬疸台分彈婆 (Đau đớn thay phận đàn bà)
𠳒񠒻分薄拱񠒻𠳒終 (Lời rằng phận bạc cũng là lời chung)

Kiều gặp Kim Trọng[sửa | sửa mã nguồn]

người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của ai
Hai bản”Kim Vân Kiều tân truyện”(金雲翹新傳), bìa bên trái là”Liễu Văn đường tàng bản”(柳文堂藏板) in năm 1871, bên phải là”Bảo Hoa các tàng bản”(寶華閣藏板) in năm 1879

Cũng trong ngày hôm đó, Kiều đã gặp Kim Trọng (金重), là một người “vốn nhà trâm anh”, là bạn đồng môn với Vương Quan, từ lâu đã “trộm nhớ thầm yêu” nàng. Bên cạnh đó thì Kim Trọng cũng là người “vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa”. Tuy chưa kịp nói với nhau một lời nhưng sau cuộc gặp gỡ này thì “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”. Tiếp sau lần gặp gỡ ấy là mối tương tư:

Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không?

Kim Trọng vì tương tư Kiều nên đã quên hết cả thú vui hàng ngày, tìm cách chuyển đến ở gần nhà Kiều. Sau đó mấy tuần trăng thì Kim Trọng – Kiều đã gặp nhau, Kiều đã nhận lời Kim Trọng và họ đã trao đổi món kỷ vật cho nhau. Nhiều lần Kim Trọng cũng muốn “vượt rào” nhưng Thuý Kiều là một người sắc sảo và biết giữ mình, cô đã thuyết phục được Kim Trọng chờ đợi tới ngày hai người kết hôn:

Đã cho vào bậc bố kinh
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Ra tuồng trên bộc trong dâu.
Thì con người ấy ai cầu làm chi
Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân ắt lại đền bồi có khi!
Thấy lời đoan chính dễ nghe,
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân.

Kiều bán mình chuộc cha và em[sửa | sửa mã nguồn]

Tai họa đã đột ngột ập đến Vương gia trong lúc người thiếu nữ còn đang thổn thức với mối tình đầu. Thằng bán tơ đã lén chôn một chai rượu vào vườn nhà Kiều rồi vu oan cho Vương ông tội buôn lậu rượu. Ngay lập tức, bọn sai nha xông vào, treo ngược Vương ông và Vương Quan lên trần nhà. Trong hoàn cảnh lâm li bi đát như vậy, Kiều đành phải đi đến quyết định bán mình để chuộc cha và em, nhưng nàng không quên lời hẹn ước với Kim Trọng trước khi chàng về Liêu Dương để chịu tang chú. Thuý Kiều đã nhờ cậy Thuý Vân thay mình trả lời hẹn ước với Kim Trọng:

Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Trao duyên cho em xong, nàng cảm thấy xót thương cho thân phận của chính mình:

Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Do đau thương quá nên Thuý Kiều đã ngất đi trên tay người thân.

Kiều ở Lầu Ngưng Bích[sửa | sửa mã nguồn]

Mã giám sinh (馬監生, nghĩa: “giám sinh họ Mã”) vốn là “một đứa phong tình đã quen” cùng với Tú Bà mở hàng “buôn phấn bán hương”, chuyên đi mua gái ở các chốn về lầu xanh. Thấy Thuý Kiều như là một món hàng ngon, nhất quyết mua về với giá 400 lượng vàng, bề ngoài Mã giám sinh tuyên bố là lấy Kiều về làm vợ. Nhưng sau khi lấy đi sự trong trắng của Kiều, “con ong đã tỏ đường đi lối về”. Hắn đưa Kiều vào lầu xanh, ở đây nàng đã bị Tú bà (秀婆, nghĩa là “bà Tú”) bắt phải tiếp khách. Nàng nhất quyết không chịu, tự vẫn bằng dao nhưng không chết. Tú bà hoảng hốt bèn giả vờ ngọt ngào: “Con cứ bình tĩnh. Tất cả chỉ là hiểu lầm. Nếu con cảm thấy nghề kỹ nữ là nghề nhục nhã thì thôi không phải làm nữa. Ta sẽ gả chồng cho con để lấy lại 400 lượng vàng” và nhượng bộ cho nàng ra ở lầu Ngưng Bích (凝碧). Ở nơi này, nỗi nhớ người thân luôn luôn ấp ủ trong lòng đặc biệt là nỗi nhớ mối tình của nàng với Kim Trọng

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.
Một đoạn ngâm thơ từ năm 1931
Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Và nỗi buồn của người thiếu nữ được thể hiện qua những câu thơ chất chứa đầy cảm xúc:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi…

Kiều mắc lừa Sở Khanh[sửa | sửa mã nguồn]

Sống một mình giữa không gian mênh mông xa vắng đó nên khi gặp Sở Khanh (楚卿), một gã có “hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng” và cũng khá “văn vẻ”, cô như người đang sắp chết đuối vớ được cọc mà không còn bình tĩnh nhận ra lời lừa gạt sáo rỗng của Sở Khanh.

Than ôi! Sắc nước hương trời,
Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?…

Kiều vội vàng tin Sở Khanh và cùng Sở Khanh trốn thoát khỏi lầu Ngưng Bích. Cô nào ngờ mình đã rơi vào lưới do Tú bà giăng sẵn để giữ cô lại vĩnh viễn ở lầu xanh. Chưa kịp cao chạy xa bay thì Tú bà đến và lúc này nàng mới rõ bản chất con người Sở Khanh:

Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
Một tay chôn biết mấy cành phù dung!…

Bị Tú bà đánh, nàng đành phải chịu quy phục, mặc cho thể xác “đến phong trần, cũng phong trần như ai” và cảm thấy xót xa cho chính bản thân mình :

Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình, mình lại thương mình xót xa…

Kiều gặp Thúc sinh[sửa | sửa mã nguồn]

Thúc sinh (束生, nghĩa là “thư sinh họ Thúc”) tuy đã có vợ là Hoạn thư (宦姐, nghĩa là “chị Hoạn”) nhưng cũng là người “mộ tiếng Kiều nhi” từ lâu. Thúc sinh trong tác phẩm này có lẽ là có diễn biến tình cảm, tâm tư mang tính của con người trong “đời thường” nhất, chứ không cách điệu nhiều như những nhân vật khác trong tác phẩm. Thế giới của Thúc sinh là thế giới của đam mê và là sứ giả phong lưu của tình dục. Chưa có một “đấng nam nhi” nào trong truyện Kiều có cách nhìn nâng tấm thân của Kiều lên tầm thẩm mỹ như Thúc Sinh

Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên…

Do vậy Kiều đã ham sống và tự tin hơn về tương lai số phận của mình. Hai người vui vẻ bên nhau “ý hợp tâm đầu”.

Khi hương sớm khi trà trưa,
Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn…

Thúc sinh đã chuộc Thuý Kiều ra khỏi lầu xanh. Tuy nhiên, vì là gái lầu xanh Kiều đã không được Thúc ông (束翁, nghĩa là “ông Thúc”), cha của Thúc sinh, thừa nhận. Thúc ông đã đưa Kiều lên quan xét xử:

Phong lôi nổi trận bời bời,
Nặng lòng e ấp tính bài phân chia.
Quyết ngay biện bạch một bề,
Dạy cho má phấn lại về lầu xanh!…

Kiều cam tâm chịu kiếp lẽ mọn để được hưởng hạnh phúc yên bình của gia đình, tuy không được trọn vẹn với Thúc Sinh. Không chịu quay về lầu xanh nên lại thêm một lần nữa Kiều gặp cảnh khốn khổ:

Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
Ba cây chập lại một cành mẫu đơn.
Phận đành chi dám kêu oan,
Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.
Một sân lầm cát đã đầy,
Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.

Thấy Thúc sinh đau khổ khi thấy Kiều vì mình mà gặp nạn, quan kia đã cho Kiều làm một bài thơ bày tỏ nỗi niềm. Đọc thơ của Kiều, vị quan khen ngợi rồi khuyên Thúc ông nên rộng lượng chấp nhận Kiều lại cho đồ sính lễ cưới xin. Nhờ thế Kiều thoát kiếp thanh lâu nhưng chưa được bao lâu thì nàng lại mắc vạ với Hoạn Thư, vợ cả của Thúc Sinh.

Kiều và Hoạn thư[sửa | sửa mã nguồn]

Khi biết chuyện, cha Thúc sinh nổi giận đòi trả Kiều trở về chốn cũ, nhưng khi nhận thấy Thuý Kiều tâm hồn đức hạnh lại tài sắc vẹn toàn, có tài làm thơ, cha của Thúc sinh cũng đành thừa nhận Kiều:

Thương vì hạnh trọng vì tài,
Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba.

Kiều đã ở cùng Thúc sinh suốt một năm ròng và vẫn luôn khuyên Thúc sinh về thăm vợ cả Hoạn thư, họ vẫn chưa có con chung sau nhiều năm sống cùng nhau. Sau chuyến đi thăm và quay trở lại gặp Kiều, Thúc sinh không ngờ rằng Hoạn thư đã sai gia nhân đi tắt đường biển để bắt Thuý Kiều về tra hỏi. Thuý Kiều bị tưới thuốc mê bắt mang đi, còn mọi người trong nhà lúc đó cứ ngỡ cô bị chết cháy sau trận hỏa hoạn. Kiều trở thành thị tì nhà Hoạn thư với cái tên là Hoa Nô (花奴). Lúc Thúc sinh về nhà, nhìn thấy Thuý Kiều bị bắt ra chào mình, “phách lạc hồn xiêu”, chàng nhận ra rằng mình mắc lừa của vợ cả. Hoạn thư đã bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của hai vợ chồng. Đánh đàn mà tâm trạng của Kiều đau đớn:

Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trong tiệc cũng tan nát lòng.
Cũng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm.

Thế rồi, do thấy Kiều khóc nhiều, Thúc sinh bảo Hoạn thư tra khảo vì lý do gì. Thúy Kiều viết tờ khai nói rằng vì cha bị oan khiên, phải bán mình và bị lừa vào lầu xanh, sau đó có người chuộc ra làm vợ, rồi chồng đi vắng, nàng bị bắt đưa vào cửa nhà quan… rất tủi nhục, bây giờ chỉ mong được vào chùa tu cho thoát nợ trần. Đọc tờ khai xong, Hoạn thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Âm các (觀音閣) sau vườn để chép kinh. Thực ra, Hoạn thư đánh Kiều rất nhiều, Nguyễn Du miêu tả về “đòn ghen” của Hoạn thư là “nhẹ như bấc, nặng như chì”. Hoạn Thư đã ứng xử theo thường tình hiện hữu của dân gian, là “chút dạ đàn bà, ghen tuông thì cũng người ta thường tình!”,” Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai”. Hoạn Thư khéo léo phá vỡ dây tơ giữa Kiều và Thúc sinh, làm Kiều ra đi một cách tự nguyện. Kiều trốn khỏi Quan Âm các và đã gặp vãi Giác Duyên (覺緣). Bà đã cho Kiều sang ở tạm nhà Bạc bà (薄婆, nghĩa là ” bà họ Bạc”), một Phật tử thường hay lui tới chùa. Ai ngờ “Bạc bà cùng với Tú bà đồng môn”, Bạc bà đã khuyên Kiều lấy cháu mình là Bạc Hạnh (薄幸). Qua tay Bạc Hạnh, một lần nữa Kiều lại bị bán vào lầu xanh.

Kiều gặp Từ Hải[sửa | sửa mã nguồn]

Ở lầu xanh, Kiều “ngậm đắng nuốt cay” sống cuộc sống ô nhục. Một ngày đẹp trời, có một người khách ghé qua chơi, đó là Từ Hải (徐海), một anh hùng lừng danh thời đó: “Râu hùm hàm én mày ngài, vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”, tài năng phi thường “đường đường một đấng anh hào, côn quyền hơn sức lược thao gồm tài”. Hai bên đã phải lòng nhau “Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa” và Từ Hải chuộc Kiều về chốn lầu riêng. Sống với nhau được nửa năm, Từ Hải lại “động lòng bốn phương”, muốn ra nơi biên thuỳ chinh chiến. Thuý Kiều muốn xin đi cùng nhưng Từ Hải không cho đi:

Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?…”

Trong lúc Từ Hải đi chinh chiến, nàng ở nhà nhớ tới bố mẹ chắc đã “da mồi tóc sương”, còn em Thuý Vân chắc đang “tay bồng tay mang” vui duyên với Kim Trọng. Từ Hải sau đó đã chiến thắng trở về, mang binh tướng tới đón Kiều làm lễ vu quy (于歸).

Kiều báo ân trả oán[sửa | sửa mã nguồn]

Lúc vui mừng cũng là lúc Thúy Kiều nghĩ đến những ngày “hàn vi”, nàng kể hết mọi chuyện cho Từ Hải và muốn có sự “ân đền oán trả”. Bạc bà, Bạc Hạnh, Sở Khanh,… đều bị chịu gia hình, còn những vị sư đã giúp đỡ Kiều trong cơn hoạn nạn đều được thưởng. Riêng Hoạn Thư nhờ khéo nói “Rằng tôi chút phận đàn bà. Ghen tuông thì cũng người ta thường tình” nên được tha. Sau đó Kiều có gặp vãi Giác Duyên, được vãi báo rằng năm năm nữa hai người sẽ gặp nhau vì Kiều còn phải trải qua nhiều lận đận chưa đoàn tụ ngay được với gia đình.

Kiều tự vẫn[sửa | sửa mã nguồn]

Hồ Tôn Hiến bấy giờ là một quan tổng đốc của triều đình, mang nhiệm vụ đến khuyên giải Từ Hải đầu hàng và quy phục triều đình. Hồ Tôn Hiến đã bày mưu mua chuộc Thuý Kiều, đánh vào ham muốn có một cuộc sống “an bình” của phụ nữ, nàng đã thật dạ tin người và xiêu lòng nghe theo lời Hồ Tôn Hiến về thuyết phục Từ Hải ra hàng:

Trên vì nước, dưới vì nhà,
Một là đắc hiếu hai là đắc trung..

Từ Hải đã phân vân:

Một tay gây dựng cơ đồ,
Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành.
Bó thân về với triều đình,
Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu.
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi.
Sao bằng riêng một biên thùy,
Sức này đã dễ làm gì được nhau.
Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
Dọc ngang nào biết trên đầu có ai…

Sau đó, Hồ Tôn Hiến đã thừa cơ bao vây, nhìn thấy Từ Hải, Thuý Kiều định lao tới để tự vẫn nhưng chàng bị mắc mưu và đã “chết đứng giữa đàng”. Thuý Kiều cảm thấy hối tiếc và dằn vặt bản thân:

Mặt nào trông thấy nhau đây?
Thà liều sống thác một ngày với nhau!…

Hồ Tôn Hiến đang đà thắng đã ép Kiều phải “thị yến dưới màn”, Thuý Kiều đã khóc thương và xin được mang Từ Hải đi chôn cất. Hồ Tôn Hiến đã chấp nhận cho “cảo táng di hình bên sông”. Biết nàng giỏi đàn, Hồ Tôn Hiến bắt nàng phải chơi, Kiều đã thể hiện nỗi lòng mình qua tiếng đàn:

Một cung gió thảm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
Ve ngâm vượn hót nào tày,
Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu…

Sáng hôm sau, để tránh lời đàm tiếu về mình, Hồ Tôn Hiến đã gán ngay Kiều cho người thổ quan. Trên con thuyền, Kiều nhớ tới lời của Đạm Tiên xưa đã nói với mình trong mộng “Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau”, nàng đã quyết định nhảy xuống sông tự trầm.

Kim Trọng đi tìm Kiều[sửa | sửa mã nguồn]

Về phần Kim Trọng, sau khi hộ tang chú xong, quay trở lại thì biết tin gia đình Kiều gặp nạn, Kiều đã bán mình chuộc cha. Kim Trọng đau xót:

勿𨉓𢭶這𣻆𩄎
淫洟湥玉矧蜍魂枚
𤴬𠾕段疙𠾕推
省𠚢吏哭哭耒吏迷

 

 

 

Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
 
Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai.
 
Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,
 
Tỉnh ra lại khóc, khóc rồi lại mê.
 

Mọi người trong nhà khuyên can hết lẽ, chàng nghe theo lời dặn của Kiều và đón cha mẹ Kiều cùng Thuý Vân sang nhà chăm lo phụng dưỡng, đồng thời vẫn đưa tin tìm kiếm nàng khắp nơi. Tuy “sâu duyên mới” nhưng chàng lại “càng giàu tình xưa”. Vương Quan và Kim Trọng sau đó đều đỗ đạt và làm quan. Sau nhiều ngày tháng tìm kiếm thì hai người mới dò la được thông tin của Thuý Kiều là đã trầm mình dưới sông Tiền Đường (錢塘). Ra đến sông, mọi người gặp vãi Giác Duyên ở đó, được biết là Thuý Kiều đã được bà cứu mạng về cưu mang. Sau đó, mọi người được dẫn về gặp lại nàng Kiều, “mừng mừng tủi tủi”.

Đoàn tụ[sửa | sửa mã nguồn]

Sau mười lăm năm lưu lạc, Thuý Kiều đã trở về đoàn viên với gia đình. Nhưng nàng chính là người sợ việc đoàn viên hơn ai cả. Trong việc tái ngộ này, Thuý Vân chính là người đầu tiên đã lên tiếng vun vào cho chị. Nhưng trong đêm gặp lại ấy, Thuý Kiều đã tâm sự với Kim Trọng:

身殘伴濁𢵱沖
羅𢘾君子恪𢚸𠊚些
Thân tàn gạn đục khơi trong
Là nhờ quân tử khác lòng người ta…

Nàng ghi nhận tấm lòng của Kim Trọng nhưng tự thấy mình không còn xứng đáng với chàng nữa. Tuy từ chối việc kết hôn với Kim Trọng, song Kiều nguyện rằng hai người sẽ trở thành bạn tri kỷ nơi câu thơ tiếng đàn, ” chẳng trong chăn gối, cũng ngoài cầm thơ”.

Nguyễn Du đã gửi gắm toàn bộ thế giới quan của mình về xã hội phong kiến lúc đó qua các câu thơ nhận xét về cuộc đời lưu lạc của Thuý Kiều:

吟咍𨷈事在𡗶
𡗶箕陀八濫𠊚固身
八風塵沛風塵
朱清高買特分清高
Ngẫm hay muôn sự tại trời,
Trời kia đã bắt làm người có thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
Nhân vậtTính danhVai trò trong tác phẩm
HọTên
Vương ông
王翁
Vương
(không nêu)Cha của Vương Thuý Kiều, Vương Thuý Vân và Vương Quan. Trong “Kim Vân Kiều truyện” hồi một nói ông tên là Vương Lưỡng Tùng (王兩松), biểu tự là Tử Trinh (子貞) nhưng trong hôn thư (婚書, văn ước kết hôn thời xưa) do Vương Thuý Kiều viết ở hồi năm thì lại ghi ông tên là Vương Chương (王章). Nhà ông ở Bắc Kinh (北京).
Vương bà
王婆
(không nêu)Vợ của Vương ông. Hồi một của “Kim Vân Kiều truyện” nói bà họ Kinh (京) nhưng trong hôn thư do Vương Thuý Kiều viết ở hồi năm lại ghi bà họ Hà (何).
Thuý Kiều
翠翹
Vương
Thuý Kiều 翠翹Trưởng nữ của Vương ông, Vương bà, chị cả của Vương Thúy Vân và Vương Quan. Khi Thúy Kiều làm nữ tì trong Hoạn phủ được Hoạn phu nhân đặt cho tên là Hoa Nô (花奴). Khi Kiều vào ở trong Quan Âm các có đạo hiệu là Trạc Tuyền (濯泉). Theo “Kim Vân Kiều truyện” thì cái tên Trạc Tuyền là do Thúc sinh đặt cho Thuý Kiều theo yêu cầu của Hoạn Thư.
Thuý VânVương
Thuý Vân
翠雲
Thứ nữ của Vương ông, Vương bà, em gái của Vương Thúy Kiều, chị hai của Vương Quan là Vương Kiều
Vương Quan
王觀
Vương
Quan
Con trai út của Vương ông, Vương bà, em của Vương Thuý Vân và Vương Thuý Kiều.
Đạm Tiên
淡仙
(không nêu)Đạm Tiên
淡仙
Theo “Kim Vân Kiều truyện”, Đạm Tiên có họ tên đây đủ là Lưu Đạm Tiên (劉淡仙). Một kỹ nữ xinh đẹp “sắc nước hương trời” nhưng bạc mệnh thời xưa. Là chủ nhân của ngôi mộ mà Thúy Kiều đã viếng và làm thơ, hiện lên trong giấc mơ của Kiều và báo trước cho nàng biết về cuộc sống trắc trở, khổ đau sau này.
Kim Trọng
金重
Kim
Trọng
Theo “Kim Vân Kiều truyện”, Trọng (重) có biểu tự là Thiên Lý (千里). Là người đã đính ước với Thúy Kiều.
Thằng bán tơ
繩半絲
(không nêu)Người đã vu oan cho cha của Kiều.
Mã giám sinh
馬監生

(không nêu)Theo “Kim Vân Kiều truyện”, Mã Giám Sinh có họ tên đầy đủ là Mã Quy (馬龜) . Và là người mua Kiều cho Tú Bà.
Tú bà
秀婆

(không nêu)Theo “Kim Vân Kiều truyện”, Tú Bà có họ tên đầy đủ là Mã Tú (馬秀). Chủ lầu xanh nơi Kiều bị bán vào lần đầu.
Sở Khanh
楚卿
Sở
Khanh
Người đàn ông có tính xấu, dâm dục, lừa tình những cô gái chân yếu tay mềm.
Thúc sinh
束生
Thúc
(không nêu)Còn được gọi là “chàng Thúc” (撞束), “Thúc sinh viên” (束生員, nghĩa là”sinh viên họ Thúc”), “Thúc lang” (束郎, nghĩa là”chàng Thúc”). Trong “Truyện Kiều” có câu “Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương”. Theo “Kim Vân Kiều truyện”, Thúc Sinh có họ tên đầy đủ là “Thúc Thủ” (束守), biểu tự là Kỳ Tâm (其心). Đã đem tiền chuộc Kiều khỏi lầu xanh (lần 1) và cưới nàng làm vợ lẽ.
Thúc ông
束翁
Thúc
(không nêu)Cha của Thúc Sinh.
Hoạn thư
宦姐
Hoạn
(không nêu)Vợ của Thúc sinh. Trong “Kim Vân Kiều truyện” Hoạn thư được gọi là “Hoạn tiểu thư” (宦小姐, nghĩa là”tiểu thư họ Hoạn) hoặc “Hoạn thị” (宦氏, nghĩa là”họ Hoạn”). “Kim Vân Kiều truyện” và “Truyện Kiều” đều không nói nhân vật tên là gì.
Hoạn phu nhân
宦夫人
Hoạn
(không nêu)Mẹ của Hoạn thư.
Khuyển
(không nêu)Khuyển
Theo “Kim Vân Kiều truyện”, Khuyển có họ tên đầy đủ là Hoạn Khuyển (宦犬).
Ưng
(không nêu)Ưng
Theo “Kim Vân Kiều truyện”, Ưng có tên đầy đủ là Hoạn Ưng (宦鷹).
Giác Duyên
覺緣
(không nêu)Ni cô của Quan Âm các (觀音閣). Kiều đã nương nhờ nơi cửa Phật khi bị Hoạn thư đày đoạ, nhưng sư Giác Duyên vô tình gửi nàng cho Bạc Bà, một kẻ buôn người như Tú Bà. Sau đó khi Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường, sư Giác Duyên đã cứu nàng và lần thứ hai Kiều nương nhờ cửa Phật.
Bạc bà
薄婆
Bạc
(không nêu)Chủ lầu xanh nơi Kiều bị bán vào lần hai.
Bạc Hạnh
薄幸
Bạc
Hạnh
Từ Hải
徐海
Từ
Hải
Một chỉ huy cướp biển, đối kháng với nhà Minh (trong nguyên tác).Trong tác phẩm của Nguyễn Du, ông đã xây dựng nhân vật Từ Hải là một người anh hùng có bản lĩnh. Đã đem tiền chuộc Kiều khỏi lầu xanh (lần hai) và cưới nàng làm vợ, sau đó giúp Thúy Kiều báo thù những người đã hãm hại nàng cũng như đền ơn những người giúp đỡ Kiều, hai người sống với nhau hạnh phúc.”Trai anh hùng gái thuyền quyên – Phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”.
Hồ Tông/Tôn Hiến
胡宗/尊憲
Hồ
Tông/Tôn Hiến
宗/尊憲
Tổng đốc nhà Minh, đem quân triều đình đi tiếu phạt và giết được Từ Hải, bắt sống Thúy Kiều.
người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của ai
Tranh miêu tả cảnh chị em Thúy Kiều gặp Kim Trọng trong ngày Tết Thanh minh của họa sĩ Lê Chánh, treo trong dinh Độc Lập cũ.

Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều vẫn luôn tồn tại trong đời sống của dân tộc Việt. Từ đó, lẩy Kiều, trò Kiều, vịnh Kiều, tranh Kiều, bói Kiều… đã phát sinh trong cộng đồng người Việt. Bên cạnh đó, một số nhân vật trong truyện cũng trở thành nhân vật điển hình, như:

  • Sở Khanh: chỉ những người đàn ông phụ tình.
  • Tú bà: chỉ những người dùng phụ nữ để mại dâm, và thu lợi về mình.
  • Hoạn Thư: chỉ những người phụ nữ có máu ghen thái quá,…

Ngoài ra, Truyện Kiều còn là đề tài cho các loại hình khác, như âm nhạc, hội họa, sân khấu, điện ảnh, thư pháp,… Hiện nay, Truyện Kiều đang được giảng dạy trong môn Ngữ văn lớp 9 và lớp 10 với các đoạn trích được đặt tên như Chị em Thúy Kiều, Cảnh ngày xuân, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Mã Giám Sinh mua Kiều, Kiều báo ân báo oán,…
“….

Trong các bản in dưới đây, ở một số câu chữ có ít nhiều dị bản.

người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của ai
“Thuý Kiều truyện tường chú”(翠翹傳詳注), bản Chiêm Vân Thị (覘雲氏). Chữ”chiêm”覘 ở đây bị viết ngược, hình bàng”kiến”見 viết trước thanh bàng”chiêm”占, tự hình rất giống chữ”thiếp”貼

Tiếng Việt[sửa | sửa mã nguồn]

Bản chữ Nôm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Kim Vân Kiều tân truyện: Kim Ngọc lâu tàng bản, Tự Đức thứ 25 (1872)
  • Kim Vân Kiều tân truyện: Thịnh Mĩ đường tàng bản, Tự Đức thứ 32 (1879)
  • Kim Vân Kiều tân truyện: Quan Văn đường tàng bản, Tự Đức thứ 32 (1879)
  • Kim Vân Kiều tân truyện: Văn Nguyên đường tàng bản, Tự Đức thứ 32 (1879)
  • Kim Vân Kiều tân truyện: Bảo Hoa các tàng bản, Tự Đức thứ 32 (1879)
  • Thúy Kiều Truyện tường chú: Chiêm Vân Thị chú đính, Thành Thái (1905?)

Bản chữ Quốc ngữ[sửa | sửa mã nguồn]

  • Poème Kim Vân Kiều truyện: do Trương Vĩnh Ký phiên âm, in ở Sài Gòn năm 1875
  • Kim Vân Kiều tân truyện: do Abel des Michels phiên âm, chú thích và dịch sang tiếng Pháp có kèm theo bản nôm gồm ba tập in ở Paris, 1884 – 1885
  • Kim Vân Kiều tân truyện: do Edmond Nordemann phiên âm, in ở Hà Nội năm 1897
  • Đoạn trường tân thanh: của Kiều Oánh Mậu chú thích, khắc in ở Hà Nội năm 1902
  • Kim Vân Kiều tân tập: do nhóm Thời hiền thi tự khắc in năm 1906
  • Kim Vân Kiều quảng tập truyện: Liễu Văn Đường tàng bản, (1914)
  • Kim Vân Kiều tân truyện: Phúc Văn đường tàng bản, (1918)
  • Kim Vân Kiều tân tập: Thời hiền thi tự, Quảng Thịnh đường tàng bản, (1922)
  • Kim Vân Kiều: Quan Văn đường tàng bản, (1923)
  • Trên lịch treo tường kích thước 25×35 cm (siêu đại) Tết 2017: Truyện Kiều được chọn đưa lên lịch là bản Kiều do học giả Đào Duy Anh phiên âm và chú giải có cập nhật những nghiên cứu Kiều học mới nhất được cộng đồng khoa học công nhận. Mỗi trang lịch ngoài đoạn Kiều chính văn, còn có phần chú giải các từ khó, điển tích. Trong đó Quách Thu Nguyệt đảm trách phần phân đoạn 3.254 câu lục bát Truyện Kiều thành 365 đoạn tương ứng với 365 trang lịch. Họa sĩ Hữu Hiếu vẽ tranh minh họa và do Công ty trách nhiệm hữu hạn An Hảo phát hành[4]

Ngoại ngữ[sửa | sửa mã nguồn]

  • Kim Vân Kiều, bản tiếng Nhật, Aoi Komatsu, Tokyo, 1949.
  • Kim Vân Kiều, bản tiếng Trung Quốc, Hoàng Dật Cầu, Bắc Kinh, 1959.
  • Kiều, bản tiếng Séc, Gustav Franck, Praha, 1957
  • Kim Vân Kiều, bản tiếng Pháp, Xuân Việt, Xuân Phúc, Paris, 1961.
  • Kim Vân Kiều, bản tiếng Anh, Lê Xuân Thủy, Sài Gòn, 1963.
  • Das Mädchen Kiêu, bản tiếng Đức, in năm 1964.
  • Kiều, bản tiếng Pháp, Nguyễn Khắc Viện, Hà Nội, 1965.
  • Kim och Kieu, bản tiếng Thuỵ Điển, Magnus Hedlund, Claes Hylinger, Lars Lindvall, Stockholm, 1969.
  • The tale of Kieu, bản tiếng Anh, Huỳnh Sanh Thông, New York, 1973.
  • Kim Vân Kiều tân truyện, bản tiếng Nhật, Takeuchi Yonosuke, Tokyo, 1985
  • Histoire de Kieu, bản tiếng Pháp, Lê Cao Phan, Hà Nội, 1994.
  • Kiều, bản tiếng Anh, Michael Councell, Luân Đôn
  • Kim Wen Kieov, bản tiếng Ba Lan, Vacsava, (?).
  • Thuý Kiều no monogatari (トゥイ・キォウの物語) có nghĩa là Câu truyện của Thuý Kiều. bản tiếng Nhật, Sato Seiji and Kuroda Yoshiko, 2005
  • Киеу – Стенания истерзанной души, bản tiếng Nga, Vũ Thế Khôi và Vasili Popov (dịch), Nguyễn Huy Hoàng (biên tập), 2015.
  • Kiều (in Duong Tuong’s version), Dương Tường, Hà Nội, 2020.

Một số sách viết về Truyện Kiều[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đào Duy Anh. Từ điển Truyện Kiều. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1974.
  • Phan Ngọc. Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều, 1985.
  • Đào Thái Tôn. Văn bản Truyện Kiều – Nghiên cứu và thảo luận. Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2001.
  • Nhiều tác giả. Truyện Kiều – Tác phẩm và dư luận. Nhà xuất bản Văn học, 2002.
  • Nguyễn Quảng Tuân. Chữ nghĩa Truyện Kiều. Nhà xuất bản Văn học, 2004.
  • Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Thả một bè lau – Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán. Nhà xuất bản Lá Bối.

Chuyển thể hoặc lấy cảm hứng[sửa | sửa mã nguồn]

  • Kim Vân Kiều công chiếu năm 1924
  • Tổ khúc Kiều Đặng Ngọc Long (Ghi ta)
  • MV Bức bình phong (2020) của Trịnh Thăng Bình với bối cảnh một nhà nghiên cứu tác phẩm văn học cổ sống ở thời hiện đại khi đang đọc Truyện Kiều đã bất ngờ lạc về thời của Kiều.[5]
  • Kiều (2021)
  • Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu. Trung tâm học liệu xuất bản, Sài Gòn, 1968.
  • Nguyễn Lộc, mục từ”Truyện Kiều”in trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
  • Nguyễn Thạch Giang, Văn học thế kỷ XVIII. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2004.
  • |Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển thượng). Nhà xuất bản Trình bày, Sài Gòn, 1967.


Hầu như ai trong chúng ta cũng đã từng nghe câu thơ bất hủ đó của Nguyễn Du. Nhưng câu thơ ấy cũng bao hàm một thông điệp rất quan trọng trong cuộc sống: đừng phán xét. Khi bạn phán xét người khác, hành vi đó phản ánh tâm trí của bạn nhiều hơn người khác (“Đánh giá người khác nói nhiều về bạn hơn người khác“).

người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của ai

‘Nhất thiết duy tâm tạo’

“Cảnh nào chẳng mặc nỗi buồn/ Người buồn bao giờ chẳng vui”. Đó là hai câu thơ tuyệt tác của Nguyễn Du miêu tả nỗi buồn của Kiều khi bị mẹ Tú Bà giam cầm ở lầu Ngưng Bích. Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra xa rất đẹp Trước lầu Ngưng Bích cảnh xuân là “Cồn cát vàng, bụi hồng muôn dặm” mà Kiều vẫn buồn. Buồn vì lúc đó cô đơn và ở một nơi rất xa lạ. Trong nỗi buồn như vậy, xung quanh không còn tươi đẹp hay hạnh phúc.

Tâm trí ảnh hưởng đến tầm nhìn của chúng ta, và điều này rất đúng. Khi tâm chúng ta rộng mở, chúng ta nhìn đâu cũng thấy vui, và khi nhìn mọi vật, dù bi đát đến đâu, chúng ta cũng cảm thấy lạc quan. Nhưng khi tâm trí của chúng ta tối tăm hoặc khi năng lượng của chúng ta thấp, chúng ta rất khó nhìn thấy cái hay và cái đẹp của người khác, và chúng ta nhìn vào đâu cũng chỉ là một màu xám. Đúng như câu nói “Nhất thiết duy tâm tạo”, nghĩa là mọi sự việc, mọi việc tốt xấu tốt xấu đều do tâm tạo nên.

Người Tây phương có câu “Chúng ta không thấy sự vật như chúng là, chúng ta thấy chúng như chúng ta là”. Câu này cũng có ý nghĩa như (nhưng kém sâu sắc hơn) câu “Nhất thiết tâm tạo”, nghĩa là không thấy sự vật như nó là, mà thấy sự vật như chúng là. Cụ thể hơn, cách chúng ta nhìn mọi thứ phản ánh tâm trí của chúng ta, hoặc chúng ta là ai.

Nếu chúng ta có nhiều vấn đề như một gánh nặng, chúng ta tiêu cực, nhưng nếu chúng ta coi vấn đề là một cách để cải thiện bản thân, chúng ta tích cực. Điều này cũng có nghĩa là những khó khăn đến với chúng ta không phải từ bên ngoài, mà từ chính chúng ta.

tâm nghi ngờ

Người có tâm tiêu cực thường không tin tưởng ai. Họ có thói quen nghi ngờ người khác. Tôi biết một người đàn ông như thế, hầu như bất cứ ai—kể cả cha ông và người đoạt giải Nobel—ông đều đánh giá thấp! Khi đồng nghiệp được thưởng, anh ta quay sang nói về những thất bại của đồng nghiệp.

Hiểu về trái tim : nghệ thuật sống hạnh phúc của Minh Niệm

Trong cuốn “Hiểu về trái tim”, phần nói về “Nghi”, tác giả Minh Niệm giải thích rất thuyết phục (trang 155):

“Dường như chúng ta đang cố vạch trần những khuyết điểm, sự vụng về của người khác để né tránh hoặc khuyến khích người khác tẩy chay họ chứ không phải để hiểu và yêu thương họ hơn.

Phần lớn, những nghi ngờ của chúng ta nhằm mục đích tự thỏa mãn, ngay cả khi chúng ta nhân danh một nhóm hoặc cộng đồng nào đó. Vậy, có khi nào nhân danh đạo đức, hay tình thương mà chúng ta chú ý đến những cái hay cái đẹp để khen ngợi, trong khi những biểu hiện khả nghi kia vẫn âm thầm quan sát và tìm cách giúp đỡ?

Tại sao chúng ta không tôn trọng người đó mặc dù chúng ta nghi ngờ về họ? Tại sao chúng ta không tự hỏi liệu người đó có đáng để chúng ta nghi ngờ hay vì chúng ta mắc căn bệnh nghi ngờ trầm trọng? Tại sao chúng ta không dám xin lỗi khi biết mình đã nghi ngờ sai? Vì vậy, nghi ngờ thường chỉ làm cho chúng ta yếu đuối và hèn nhát hơn.

Chúng ta không biết rằng mỗi khi chúng ta có ý nghĩ nghi ngờ người khác, dù họ xấu hay không, thì một năng lượng rất độc hại đã được tạo ra trong tâm trí của chúng ta. Nó vừa đốt cháy nguồn năng lượng thuần khiết trong ta, vừa làm ta mất cơ hội tiếp xúc với sự sống huyền bí.

Bởi vì chúng tôi luôn bận rộn tìm kiếm thêm bằng chứng. Dù chúng ta chưa thốt ra lời nói hay hành động để bày tỏ sự nghi ngờ của mình, nhưng một khi đã hướng tâm đến đối phương để gửi gắm nghi ngờ, thì chúng ta đã gửi đi một năng lượng xấu.

Theo ‘quy luật cân bằng cảm xúc’, họ sẽ tìm cách tạo cho chúng ta một cảm xúc xấu tương ứng khác, nếu họ nhận ra sự nghi ngờ của chúng ta có bản chất xấu. Nếu không, vũ trụ sẽ yêu cầu một đối tượng khác trả lại một cảm xúc xấu khác.

Điều tồi tệ nhất là chúng ta đã nghi ngờ nhầm một con người nhân từ, đức độ – nơi hội tụ vô số nguồn năng lượng an lành của vũ trụ – thì hậu quả sẽ khôn lường. Đó là món nợ tình cảm rất lớn mà tôi và các con tôi sẽ phải mất nhiều thế hệ mới trả hết được. Vì vậy, đừng bao giờ buông bỏ những nghi ngờ một cách dễ dàng. Thực hành ‘tự sám hối’ hoặc trực tiếp bày tỏ sự ăn năn khi phát hiện ra mình đã vu oan cho người khác để phần nào hóa giải hậu quả’.

Bản án và câu chuyện nồi cơm Nhan Hồi

Chuyện kể rằng, Nhan Hồi (đệ tử của Khổng Tử) nấu cơm, Khổng Tử thấy Nhan Hồi mở nắp nồi, dùng đũa gắp cơm bỏ vào miệng ăn. Thấy vậy, Khổng Tử thất vọng về người đệ tử xuất sắc và than thở: “Chà! Chẳng lẽ học trò yêu của mình lại ăn vụng thầy, bạn vụng đến thế sao? Lễ phép và đạo đức ở đâu? Bao nhiêu kỳ vọng đặt vào đó, thành sông đổ biển!” Sau đó, để thử lòng Nhan Hồi, Khổng Tử ngỏ ý muốn xới một bát cơm dâng lên cha mẹ. Các đệ tử đều được cả, trừ Nhan Hồi là Khi được hỏi tại sao, Nhan Hồi đáp:

“Dạ thưa thầy, nồi cơm này không sạch… khi cơm chín, con mở nắp ra xem cơm chín chưa, chẳng may một cơn gió thổi vào, bồ hóng và bụi nhà rơi xuống làm bẩn cả nồi cơm. . Tôi nhanh chóng che đậy nó, nhưng đã quá muộn. Rồi tôi liền xúc lớp cơm bẩn lên, định vứt đi… nhưng lại nghĩ: cơm thì ít, anh em thì nhiều, nếu bỏ đi lớp cơm bẩn này thì vô hình chung mình sẽ mất đi một phần ăn. , bạn phải ăn ít hơn. . Vì vậy con đã mạo phạm thầy và tất cả anh em, ăn cơm bẩn trước, cơm sạch để cúng dường thầy và tất cả anh em… Thầy ơi, hôm nay con ăn cơm… bây giờ, con xin lỗi, con không ăn cơm nữa, chỉ ăn rau thôi. Và… thưa ngài, nồi cơm đã ăn trước đó không nên cúng nữa!”

Sau khi nghe giải thích, Khổng Tử than thở: “Chà! Trên đời này có những việc ta thấy rõ ràng mà vẫn không hiểu được chân lý! Khổng Tử này suýt chút nữa đã trở thành một kẻ ngốc!”

Nồi cơm Khổng Tử
Nồi cơm Nhan Hồi

Câu chuyện này rất nổi tiếng và được kể đi kể lại trong các sách Phật học và xã hội học. Bài học là dù mắt thấy, tai nghe cũng vẫn có thể bị hiểu lầm, bởi sự việc ‘thấy mà không phải vậy’. Vì vậy, nếu chỉ nhìn bằng mắt, nghe bằng tai mà không tìm hiểu cặn kẽ, đặt vào ngữ cảnh thì con người chúng ta – dù thông thái như Khổng Tử – vẫn phạm sai lầm. Bài học là đừng vội phán xét dựa trên một vài dữ kiện có sẵn.

Người Phật tử thường khuyên chúng ta dùng chánh niệm và lòng từ bi để nhìn sự vật và con người. Nó có nghĩa là nhìn mọi thứ đúng như bản chất của chúng hơn là đưa ra phán xét.

“Đầu óc mệt mỏi

Yêu và ghét không bao giờ dừng lại

Ngừng phân biệt đối xử

Tôi sẽ chỉ tìm thấy chính mình.”

(Minh Niệm)

_____

TB: Tôi viết bài này để những ai đang chỉ trích Thầy Nhất Hạnh (và cả thầy Thiện Âm) hãy nhìn lại mình. Hãy thay đổi bản thân mình trước rồi mới thay đổi hay phán xét người khác. Họ chỉ trích người khác, nhưng cách họ chỉ trích cho chúng ta biết nhiều điều về họ hơn là nạn nhân của họ.

tôi có rất nhiều bạn [có thể nói là] tham gia cùng với một số người khác cho rằng Thầy Nhất Hạnh đã tuyên bố rằng “Lính Mỹ ném bom và giết chết 300.000 người ở thị xã Bến Tre”. Trên thực tế, anh ấy không nói như vậy; anh ấy nói (bằng lời nói):

“…Có lần tôi được biết thành phố Bến Tre, THÀNH PHỐ BA TRĂM NGÀN NGƯỜI, bị máy bay Mỹ ném bom chỉ vì một số du kích vào thành phố định bắn rơi máy bay Mỹ.” Có lần tôi được biết thị xã Bến Tre, một thị xã có 300.000 dân, đã bị không quân Mỹ ném bom chỉ vì một số du kích vào thị xã định bắn máy bay Mỹ.

Như quý vị thấy, Thầy Nhất Hạnh không nói lính Mỹ giết 300,000 người ở Bến Tre. Tuy nhiên, ông đã nhầm về con số, vì lúc đó Bến Tre là một thị xã chỉ có 70-80.000 dân. Nhưng sai lầm đó có quan trọng không? Theo tôi là không, vì con số đó không phải là bằng chứng cho thông điệp mà anh ta muốn nói (đánh bom cả thị trấn chỉ vì một vài du kích xâm nhập).

người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của ai

Tôi là Nguyễn Văn Sỹ với 15 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thiết kế và thi công nội thất; Bằng niềm đam mê và lòng yêu nghề, tôi đã tạo ra những thiết kế tuyệt vời trong phòng khách, phòng bếp, phòng ngủ, sân vườn… Ngoài ra, với khả năng nghiên cứu, học hỏi, tìm hiểu về kiến ​​thức đời sống xã hội, sự kiện. , tôi đã đưa ra những kiến ​​thức bổ ích tại website nhaxinhplaza.vn. Hy vọng những kiến ​​thức mà mình chia sẻ sẽ giúp ích cho các bạn!

Bài viết được sgkphattriennangluc.vn tham khảo từ nguồn:
https://nguyenvantuan.info/2022/01/23/nguoi-buon-canh-co-vui-dau-bao-gio/#:~:text=H%E1%BA%A7u%20nh%C6%B0%20b%E1%BA%A5t%20c%E1%BB%A9%20ai,cu%E1%BB%99c%20s%E1%BB%91ng%3A%20%C4%91%E1%BB%ABng%20ph%C3%A1n%20x%C3%A9t.
https://loigiaihay.com/canh-nao-vui-dau-bao-gio-truyen-kieu-nguyen-du-giai-thich-ngan-gon-cach-hieu-cua-em-ve-hai-cau-tho-tren-tu-do-phan-tich-tam-cau-tho-cuoi-cung-cua-doan-kieu-o-lau-ngung-bich-de-lam-noi-bat-but-phap-ta-canh-ngu-tinh-da-dat-den-thanh-cong-tuyet-voi-cu-c36a1502.html
https://vanlangcollege.edu.vn/nguoi-buon-canh-co-vui-dau-bao-gio/
https://toploigiai.vn/nguoi-buon-canh-co-vui-dau-bao-gio
https://boxhoidap.com/toplist-top-9-cau-tho-cua-nguyen-du-nguoi-buon-canh-co-vui-dau-bao-gio-la-su-the-hien-cua-2022
https://loigiaihay.com/canh-nao-vui-dau-bao-gio-truyen-kieu-nguyen-du-giai-thich-ngan-gon-cach-hieu-cua-em-ve-hai-cau-tho-tren-tu-do-phan-tich-tam-cau-tho-cuoi-cung-cua-doan-kieu-o-lau-ngung-bich-de-lam-noi-bat-but-phap-ta-canh-ngu-tinh-da-dat-den-thanh-cong-tuyet-voi-cu-c36a1502.html#:~:text=Nguy%E1%BB%85n%20Du%20%C4%91%C3%A3%20ch%E1%BB%8Dn%20c%C3%A1ch,tinh%20t%E1%BA%BF%20v%C3%A0%20%C4%91%E1%BA%B7c%20s%E1%BA%AFc.
https://truyenkieuinenglish.wordpress.com/episode-xii/#:~:text=How%20could%20it%20be%20cheerful,c%C3%B3%20vui%20%C4%91%C3%A2u%20bao%20gi%E1%BB%9D.
https://chuaadida.com/chi-tiet-duy-tam-trong-mot-cau-kieu-33019/#:~:text=Ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20bu%E1%BB%93n%20c%E1%BA%A3nh%20c%C3%B3%20vui,vui%20s%E1%BB%B1%20%C4%91%E1%BA%B9p%20c%E1%BB%A7a%20c%E1%BA%A3nh.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Truy%E1%BB%87n_Ki%E1%BB%81u#:~:text=%C4%90%C3%A2y%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c%20xem%20l%C3%A0%20truy%E1%BB%87n,l%E1%BB%A5c%20b%C3%A1t%2C%20g%E1%BB%93m%203.254%20c%C3%A2u.