Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ (19 Mẫu) mới nhất

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử mang đến 19 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết, giúp các bạn có thêm nhiều nguồn tư liệu học tập, củng cố kỹ năng viết văn ngày một hay hơn.

phân tích dây thôn vĩ dạ

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là một bài thơ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ Hàn Mặc Tử về tình yêu day dứt và quá đỗi sâu nặng đối với cuộc đời này. Vậy dưới đây là 19 bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi. Bên cạnh đó để nâng cao kỹ năng viết văn các bạn xem thêm Kết bài Đây thôn Vĩ Dạ.

TOP 19 mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất

Dàn ý phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

Hàn Mặc Tử có lẽ là một cái tên mà không ai có thể quên khi nhắc đến phong trào thơ mới. Một trong những thi phẩm mang dấu ấn sâu đậm nhất của thi sĩ đã để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc biết bao niềm khơi gợi sâu sắc chính là bài thơ Đây thôn vĩ dạ. bài thơ cũng giống như một bức tâm thư bộc lộ những tình cảm thầm kín và khao khát cháy bỏng của thi sĩ

II. Thân bài:

1. Phân tích khổ thơ thứ nhất:

– Bài thơ mở đầu và một câu hỏi “sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

– Ta có cảm giác như đây là một lời trách yêu của một người con gái, trong đó ẩn dấu sự dỗi hờn cả sự ngóng trông da diết

– Thực tế thì không có một người con gái nào đang trực tiếp đối mặt với Hàn Mặc Tử, bởi vậy có lẽ lời trách yêu này là cất lên từ những bức ảnh những bức tâm thư, nó xôn xao, nó rạo rực sống dậy trong lòng nhà thơ, hướng trái tim người thi sĩ về với quê hương xứ Huế thân yêu ngày tiếp đó câu thơ thứ hai khiến chúng ta bất ngờ vì ngay lập tức cảnh thiên nhiên xứ Huế, cảnh vật nơi thôn Vĩ Dạ được mở ra

– Rõ ràng câu hỏi một cách lên thì trước mắt nhà thơ đã là không gian của thôn Vĩ Dạ đây chắc chắn là một cuộc hành trình trong tâm thức

– Cái nắng hiện lên trong quan sát của nhà thơ, một cái nắng hiện lên trong vẻ tinh khôi, tươi mới, chẳng phải là cái nắng rực rỡ của mùa hè cũng chẳng phải cái nắng dịu nhẹ của mùa thu mà nó là “nắng mới lên” tức là nắng của buổi bình minh

– Câu thơ có hai từ nắng làm cho không gian như tràn ngập ánh sáng, chẳng từ ngữ miêu tả màu sắc, nhưng ánh nắng hiện ra cứ trong trẻo và tinh khôi biết nhường nào

– Điểm nhìn của Hàn Mặc Tử dường như là từ trên cao nhìn xuống từ xa lại gần, đôi mắt của Hàn Mặc Tử trong cuộc hành trình như xé toạc bầu trời để nhìn thấy ánh bình minh cùng ánh nắng diệu kỳ thắp lên từ những ngọn cau cao vút, để có một cái nhìn bao quát thấy được với màu xanh bao trùm lên khu vườn

– “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, câu thơ là một lời cảm thán thốt lên trước vẻ đẹp của khu vườn

– Tính từ lướt ra hình ảnh so sánh xanh như ngọc đã làm hiện lên vẻ đẹp tuyệt diệu của khu vườn thôn Vĩ

– Câu thơ không chỉ đem lại cho ta cảm nhận về thị giác mà còn gợi lên cái cảm giác như được chạm vào những lá xanh mượt mà, đi chính là một trong những nét đặc trưng của các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng bởi thơ tượng trưng siêu thực Pháp khi cảm nhận vạn vật bằng nhiều giác quan.

– Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” là một hình ảnh so sánh độc đáo, màu xanh của lá cây được ví với màu xanh ngọc mang lại cho ta một cảm giác thật dễ chịu tươi mới, tất cả mọi thứ đều non tươi mơn mởn và tràn đầy sức sống

– Đến câu thơ thứ tư thì hình ảnh con người mới xuất hiện “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

– Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì “vườn ai” chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lí

– Nhưng cũng có người cho rằng đó chính là tác giả trong cuộc hành hương tâm tưởng, Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế

– Dường như, nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu

– Hình tượng “lá trúc che ngang” càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông bởi lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.

2. Phân tích khổ thơ thứ hai:

– Bốn câu thơ buồn khổ thứ hai như vẽ xe trước mắt chúng ta không cảnh của quê hương xứ Huế trong buổi chiều tối với những gam màu trầm lắng mỗi câu thơ gợi dám hình ảnh làm đầy thêm bức tranh phong cảnh nhưng nếu như nhìn thật kỹ ta sẽ thấy những nghịch lý những điều trái tự nhiên ẩn trong từng sự vật

– “Gió theo lối gió mây đường mây”, câu thơ có lẽ không chỉ còn là nghịch lý mà lại còn chứa đựng cả sự trớ trêu, chưa được sự biệt ly chia cắt

– “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”, theo lẽ thường gió gió thổi làm hoa bắp lai thì sóng nước cũng phải theo đó mà gợn mà lay động, ấy thế nhưng dòng nước lại đứng im, chẳng khác nào lứa đôi dù ở gần kề nhau nhưng lại chẳng thể đồng điệu, trong gần gũi lại có mùi gì của sự chia phôi

– Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác

– Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi.

– Phải chăng, thông qua cách nói hình tượng Hàn Mặc Tử đã chua chát phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?”

– Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.

– Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng.

– Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha.

– Câu hỏi làm nhịp thơ chùng xuống biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai.

– Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

3. Phân tích khổ thơ thứ ba:

– Thi sĩ buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở dang, nhưng rồi người nghệ sĩ lại tiếp tục sống trong khao khát của mình

– Hình ảnh “khách đường xa” nhấn mạnh hai lần đã nói lên phần nào nỗi trông ngóng, nhớ thương của tác giả dành cho người thương.

– Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh / Ai biết tình ai có đậm đà?”

– Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi

– Câu hỏi tu từ cuối cùng cất lên như một tiếng ngậm ngùi, tự vấn qua một trái tim khao khát với tình yêu nhưng trước mắt lại có quá nhiều gian truân trở ngại

– Hai đại từ “ai” ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh có biết tình em có đậm đà không?

– Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy “mờ nhân ảnh”, càng tuyệt vọng.

– Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng.

III. Kết bài:

Mọi sự tuyệt vọng đều làm cho ta bi quan nhưng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại khơi lên trong ta ánh sáng của khao khát mãnh liệt da diết. Chính tình yêu đã tiếp thêm nghị lực cho người thi sĩ trong hoàn cảnh khó khăn trong những giây phút đớn đau chiến đấu với bệnh tật. Cũng giá trị nhân văn ấy đã khẳng định tên tuổi của Hàn Mặc Tử trên bầu trời thơ ca Việt Nam và giúp cho thi phẩm mãi xanh trong lòng bao thế hệ bạn đọc.

Xem thêm: Phân tích khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Sơ đồ tư duy phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

phân tích dây thôn vĩ dạ

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ học sinh giỏi – Mẫu 1

Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một trong những cái tên nổi bật nhất với lối thơ đặc biệt vừa lãng mạn tươi trẻ, vừa bi thương day dứt, tất cả đều đến từ cuộc đời có quá nhiều đớn đau, chua xót của người nghệ sĩ trẻ bạc mệnh. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những sáng tác nổi bật và xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào thơ Mới. Bài thơ mang đậm dấu ấn sáng tác của tác giả khi vừa chứa đựng những nội dung trong sáng, thanh khiết vô ngần, bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời tha thiết, đồng thời cũng bộc lộ những nỗi ám ảnh, tiếc nuối của tác giả trước số phận nghiệt ngã của bản thân thông qua những vần thơ kỳ dị, phức tạp đan xen giữa cảnh thực và cảnh mơ.

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng nhưng có cuộc đời nhiều bất hạnh đắng cay, khi ông không may mắc phải căn bệnh phong quái ác khi tuổi đời còn trẻ, sự nghiệp đang thời kỳ nở rộ nhất, đặc biệt trong tình yêu Hàn Mặc Tử cũng lại là người kém may mắn khi phải chịu nhiều thương tổn, day dứt. Trong giai đoạn cuối đời, ông trở về mảnh đất Quy Nhơn để chữa trị thì bỗng nhận được tấm bưu thiếp có in hình phong cảnh Huế, trên bức thiếp ấy là những dòng chữ nhắn gửi của nàng Kim Cúc, cô gái mà Hàn Mặc Tử vẫn thường nhung nhớ. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đã dấy lên trong cõi lòng cô độc của người nghệ sĩ những xúc cảm hạnh phúc, vui tươi, lòng ông dào dạt những tình cảm nhớ mong Huế, nhớ về một xứ Huế đẹp tươi, đồng thời bộc lộ tấm lòng khao khát sống, khao khát hạnh phúc đến tột cùng thông qua những vần thơ đầu thật tươi sáng, trong trẻo.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mở đầu bài thơ là một lời hỏi ngỏ rất dễ thương, đậm chất xứ Huế “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, đó có thể là lời hờn trách vu vơ của một người con gái mong ngóng mãi người thương về thăm Huế, thăm mình cho thỏa nỗi nhớ mong, rồi ấy cũng có thể là một lời mời mọc thân tình của một người bạn xa, muốn tác giả một lần về lại Huế, thăm lại chốn cố đô yên bình. Rồi sau thẳm trong lời hỏi ngỏ ấy, ta cũng dường như nhìn thấu lòng tác giả, Hàn Mặc Tử phải chăng cũng đang hỏi chính bản thân sao không về thăm lại chốn quê cũ, thể hiện sự bất lực trước bệnh tật, trước hoàn cảnh éo le của bản thân.

Trong dòng hồi tưởng, thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử đã hiện ra với một hình ảnh đặc trưng, ấy là những khu vườn với hàng cau thẳng tắp đón nắng lên. Hình ảnh “nắng hàng cau” là một hình ảnh đặc biệt, có tính khái quát và ấn tượng, nắng hàng cau tức là nắng buổi sớm, mặt trời đã lên khá cao, đương độ ấm áp nhất, và cũng không nóng gắt như buổi ban trưa. Giữa khung cảnh ấy, ánh nắng bao trùm không gian, phủ lên những ngọn cau xanh một màu vàng nhạt, mở ra một không gian trong trẻo, tràn đầy sức sống, cũng như sự thanh bình, yên tĩnh nơi làng quê. “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, từ phiếm chỉ “vườn ai” đã đem vào cho bức tranh thiên nhiên thêm sự ấm áp của tình người, bên cạnh cái ấm áp của nắng sớm, khung cảnh càng trở nên hài hòa khi có sự giao hòa giữa con người với thiên nhiên.

Những tính từ “mướt quá”, “xanh như ngọc” đều là những nét vẽ thật tài tình và đầy tinh tế của Hàn Mặc Tử khi nhớ về thôn Vĩ Dạ, chúng đã khéo léo, mở ra một bức tranh thiên nhiên dịu dàng, sinh động, trong trẻo, tinh khiết và tràn đầy sức sống. Ấy là cái non tươi mỡ màng của cây lá, là sự trong lành mát mẻ của những giọt sương sớm còn đọng lại sau một đêm dài, mà dưới cái nắng ấm áp chúng ánh lên thật đẹp như những ngọc ngà châu báu, khiến người ta không khỏi suýt xoa ngỡ ngàng. Đến câu thơ cuối, bút pháp thi trung hữu họa đã thực sự làm rõ và nổi bật vẻ đẹp của con người xứ Huế trong bức tranh quê, “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, lấy cái sự mảnh nhỏ, vắt ngang của lá trúc để làm nổi bật lên khuôn mặt chữ điền, phúc hậu, dịu dàng và thông minh của người con gái Huế, đó có thể cũng là bóng hình mà Hàn Mặc Tử vẫn thường nhung nhớ, một con người với những vẻ đẹp cổ điển và tâm hồn đáng quý, đại diện cho cả một vùng đất với những con người thân thương mà tác giả ngày đêm hướng về.

Nếu như ở khổ thơ đầu tiên, Hàn Mặc Tử nhìn đời, nhìn người với tinh thần tích cực, lạc quan, tràn đầy hy vọng, bằng bức tranh thiên nhiên tươi sáng, trong trẻo, thì đến khổ thơ tiếp theo, mạch cảm xúc của tác giả đã nhanh chóng thay đổi theo sự thay đổi giữa ngày và đêm, giữa hai bức tranh thiên nhiên hoàn toàn khác biệt với những gam màu mới.

“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Từ bức tranh thiên nhiên tươi sáng, với những gam màu ấm áp, thanh mát, giản dị, Hàn Mặc Tử đã chuyển ngay sang khung cảnh đêm tối với bức tranh sông nước mênh mông lạnh lẽo, sâu kín thể hiện sự trống trải, cô độc đang len lỏi trong lòng tác giả. Hình ảnh “Gió theo lối gió mây đường mây” là hình ảnh buồn, lạc lõng, gợi sự chia ly, tan rã không ngày gặp lại. Rõ ràng gió và mây là hai thực thể luôn gắn liền, gió thổi kéo mây bay, dường như gắn bó như hình với bóng, ấy thế mà trong thơ Hàn Mặc Tử gió và mây lại tách biệt, hai thứ hai nơi dường như chẳng chút liên hệ. Phải chăng đây là ẩn ý cho mối tình của ông với nàng Kim Cúc, hai người giờ đây đã dường như cách biệt phương trời, và rồi mai đây nữa chính là âm dương chia cắt. Rồi cảnh mây gió ấy cũng lại gợi liên tưởng đến sự liên quan của tác giả với thế gian, dường như giây phút này, ông cũng đã bắt đầu cảm nhận được bản thân không còn nhiều thời gian, dường như sự sống đối với ông ngày càng xa cách, cuộc đời trần thế của ông có lẽ cũng chẳng còn nhiều nữa. Chính những suy nghĩ và hiện thực đã càng dày vò thêm trái tim mới vừa được thắp lên hy vọng của Hàn Mặc Tử. Một tấm thiếp đã khiến ông vui, tưởng chừng đã thoát khỏi cái u mê, tăm tối của cuộc đời, thế nhưng nó vẫn không thể chiến thắng được sự nghiệt ngã của số phận và bản thân ông bị buộc phải tỉnh mộng quay trở về với thực tại đau thương.

Đến câu thơ tiếp theo “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”, thực đúng với câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của Nguyễn Du, trước nỗi buồn số phận, Hàn Mặc Tử nghĩ về dòng sông Hương hiền hòa, đã trải qua bao thăng trầm lịch sử, ông dường như thấy dòng nước ấy cũng như đang hiểu được nỗi buồn của mình, lặng lẽ buồn thiu, một nỗi buồn âm thầm không biết tỏ bày cùng ai, cô độc, lạc lõng không một người bầu bạn. Hình ảnh “hoa bắp lay” là một hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt, hoa bắp vốn là loài hoa không sắc, không hương, mờ nhạt lại nhanh héo tàn. Nó dường như chính là hình ảnh cuộc đời của Hàn Mặc Tử lúc cuối đời, tàn úa chỉ mặc cho gió lung lay mà không thể chống đỡ lại số phận, điều đó khiến cho người ta không khỏi xót xa cho cuộc đời người nghệ sĩ bạc mệnh, cũng như những nỗi đau mà ông đã phải chịu đựng trong suốt cuộc đời.

Đang trong lúc buồn khổ, tuyệt vọng và cô đơn nhất Hàn Mặc Tử lại nhớ đến trăng, người bạn tri kỷ duy nhất ông có thể tâm tình và thấu hiểu ông. Cảnh bến thuyền, ánh trăng sáng là một trong những hình ảnh thường thấy xuất hiện trong thơ ca cổ điển, miêu tả cảnh sông nước thanh vắng, êm đềm, và có đôi chút hiu quạnh. Đến trong thơ của Hàn Mặc Tử cảnh tượng này độc đáo và sáng tạo hơn với câu hỏi “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?”, ấy là một câu hỏi đầy tâm sự, giữa cảnh sông nước mênh mông, ánh trăng loang vàng khắp mặt nước, có một chiếc thuyền lặng lẽ nằm yên, thật thơ mộng trữ tình biết mấy. Lòng Hàn Mặc Tử lại không được yên bình như thế, người vội hỏi thuyền ai neo bến, người vội hỏi có mang trăng về kịp không, có mang người bạn tâm giao về kịp không. Dường như ta thấy Hàn Mặc Tử đang vội vã, lo lắng, lòng ngập tràn nỗi hoang mang, sợ rằng bản thân không còn nhiều thời gian nữa, không còn có thể chờ kịp ánh trăng về chiếu rọi lòng ông. Càng đọc, càng hiểu sâu tấm lòng người thi sĩ, càng biết được những mối lo, những nỗi cô đơn, bất lực của ông ta lại càng thương cho một kiếp người nhiều đớn đau, khi cả tình yêu, cả sự sống đều nằm ngoài tầm tay với. Tất cả những nỗi đau trong thơ, những tuyệt vọng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử đều bộc lộ thực rõ tấm lòng khao khát sự sống, khao khát tình yêu đến quằn quại, dù rằng trong thâm tâm tác giả đã nhiều lần buông bỏ, chấp nhận số phận, thế nhưng chỉ cần có một chút niềm tin, thì tấm lòng ấy lại rạo rực, vui sướng hơn bao giờ hết. Dù rằng tất cả cũng như pháo hoa rực rỡ, đẹp, nhưng chóng nở chóng tàn.

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”

Đang từ cõi thực, Hàn Mặc Tử chuyển bước vào cõi mơ, thể hiện rất rõ cái hông thơ phức tạp và khó hiểu bậc nhất của mình trong làng thơ ca Việt Nam đương đại. “Mơ khách đường xa khách đường xa”, đó cũng là một câu thơ mập mờ, không rõ ý, “khách đường xa” được lặp lại hai lần, như nhấn mạnh sự xuất hiện của nhân vật này, tuy nhiên càng nêu bật lại càng mờ mịt. Vị khách ấy là từ trong mơ, không rõ mặt, không rõ diện mạo, chỉ biết là họ đang ngày càng xa tầm với, xa mãi không trở lại, ám chỉ sự vô vọng của Hàn Mặc Tử trong mối tình với nàng Kim Cúc xứ Huế, cũng như sự tồn tại của ông trên cõi đời ngày càng trở nên mong manh, mờ mịt. Tác giả đã cách nhân thế rất xa, dần trở thành một vị khách xa lạ, đi một chặng đường ngắn ngủi chừng 28 năm, rồi rời đi vô thanh, vô sắc, liên tưởng ấy khiến người ta vừa ám ảnh, vừa xót xa cho cuộc đời người thi sĩ.

Đến câu thơ tiếp “Áo em trắng quá nhìn không ra”, là bóng dáng chập chờn của người con gái ông yêu trong tiềm thức, bộc lộ khoảng cách ngày một xa xôi giữa ông và nàng, đó không chỉ là khoảng cách về địa lý, mà còn là khoảng cách tâm hồn, khoảng cách sinh ly tử biệt không thể vãn hồi. Chính những khoảng cách ấy, đã khiến Hàn Mặc Tử ngày càng tuyệt vọng, và bóng dáng cô gái năm xưa ngày càng trở nên mờ mịt, ông nhìn không rõ, sờ không được, muốn mà không thể chạm tới đầy xót xa. Để giải thích cho cái sự mờ nhạt, không rõ của nhân vật “em”, tác giả đã viết “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, nhằm xóa bớt khoảng cách, vịn vào lý do sương khói mờ mịt xứ Huế làm ông không thể thấy rõ, thế nhưng nó lại càng nhấn mạnh vào cái sự mờ mịt, bế tắc và tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử trước cuộc đời, khi chính bàn tay ông cũng chẳng thể nào vén lớp sương mù để tìm thấy bóng hình yêu thương, cũng chẳng thể chống lại số mệnh từ chối cái chết.

Sự đớn đau, mặc cảm số phận đã khiến tác giả không thể mở lòng mình để hiểu rõ tình cảm của nàng Kim Cúc, cũng như chẳng thể đưa bản thân thoát khỏi những mộng tưởng dày đặc, trước tình cảnh ấy ông chỉ còn có thể thốt lên “Ai biết tình ai có đậm đà?”, đó như là lời gửi đến người con gái phương xa liệu có còn nhớ mong kẻ tội nghiệp này, rồi cũng là lời trách móc nhiều đau thương khi lòng ông lo sợ Kim Cúc vốn đã không còn mặn mà với đoạn tình cảm này từ lâu. Cuối cùng ấy còn có thể là lời yêu ông muốn nhắn gửi một cách thật ý nhị, kín đáo vì biết mình không còn sống được bao lâu đến cô gái xứ Huế, ông muốn nàng biết tình cảm của mình, lại cũng muốn nàng không biết, sự phức tạp và mâu thuẫn ấy chính là xuất phát bởi một tâm hồn có quá nhiều thương tổn, đồng thời đang tiến dần những ngày cuối của cuộc đời trần thế, chính lẽ đó người ta không thể có quá nhiều tự tin, hay là gieo rắc hy vọng, tình yêu cho một ai khác. Chi bằng tự ôm lấy nỗi đau, tình yêu tuyệt vọng ấy một mình cho đến hết cuộc đời ngắn ngủi.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm xuất sắc và đặc biệt nhất trong suốt đời thơ của Hàn Mặc Tử khi chứa đựng đầy đủ phong cách sáng tác của ông, đồng thời nội dung thơ ấn tượng với nhiều xúc cảm phong phú được thể hiện trong các bức tranh thiên nhiên từ sáng sớm đến tối muộn, từ cảnh thực đến cảnh mơ. Bộc lộ được tài năng sáng tác, cũng như một tâm hồn dù có chịu nhiều đau thương, bất hạnh, thế nhưng Hàn Mặc Tử vẫn giữ gìn vẹn nguyên được tấm lòng yêu cuộc sống, những khao khát hạnh phúc, tình yêu thực giản dị, dù rằng điều đó đối với người nghệ sĩ đã là quá xa tầm với.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ ngắn nhất – Mẫu 2

Nhắc đến Hàn Mặc Tử không thể không nhắc đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- một trong những tuyệt phẩm bất hủ của ông. Bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ bức bưu ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc- người con gái ông từng thầm yêu. “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác trong thời gian ông đang điều trị bệnh ở Quy Hòa nên mỗi tứ thơ trong câu từ của tác phẩm đều mang một nỗi niềm khát khao được giao cảm của nhà thơ.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi tu từ được sử dụng mở đầu bài thơ thể hiện sự trông ngóng, nỗi mong chờ của người con gái đang thôn Vĩ. Câu hỏi vừa như lời trách móc kèm chút hờn dỗi, lại vừa như lời mời gọi, mong đợi. Lời thơ nhẹ nhàng như tiếng lòng của người xứ Huế, vừa da diết lại quá đỗi dịu dàng.

Sau câu hỏi từ từ là bức tranh tươi đẹp của thôn Vĩ hiện lên đầy sống động, tươi mắt, tinh khôi:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Phải chăng vì lời mời gọi thiết tha ấy, mà dù đôi chân không thể bước về Huế, Hàn Mặc Tử vẫn quyết trở về trong tâm thức để ngắm nhìn và tận hưởng vẻ đẹp của chốn cũ, người thương. Hình ảnh đầu tiên ta là “nắng hàng cau”- một màu nắng thật đặc biệt trong thơ ca. Đó là cái nắng đầy mới mẻ, trong trẻo của buổi sớm bình minh xứ Huế- “nắng mới lên”, những hàng cau vừa thức giấc sương còn đọng trên lá long lanh dưới nắng ban mai. Từ xa ngắm nhìn nắng hàng cau, khi tới gần, được cảm nhận rõ hơn về vẻ đẹp của cảnh vật. Màu xanh ngọc bích vừa tươi tắn vừa sang trọng được gợi lên từ vẻ đẹp khu vườn. Tính từ “mướt” càng gợi lên vẻ non tơ, mềm mại, mỡ màng nhựa sống của cây lá. Phải chăng, mảnh vườn được tưới tắm bởi hương vị của tạo hoá, được chăm sóc bởi bàn tay khéo léo của con người mà đẹp càng thêm đẹp, tươi càng thêm tươi. Bóng dáng người con gái kín đáo, e ấp bước ra từ khu vườn cổ tích, ẩn hiện dưới lá trúc xanh lại càng tôn lên vẻ đẹp của không gian và con người đất Huế. Ẩn sâu trong từng lời thơ trong sáng, thanh thoát và tươi tắn ấy là một tâm hồn với khát khao mãnh liệt được giao cảm, được trở về chốn cũ, gặp lại người xưa sau những tháng ngày xa cách. Nhưng có lẽ điều đó thật khó có thể có được.

Nếu khổ thơ đầu gợi cho ta ấn tượng về buổi sáng trong ngần thì khổ thơ thứ hai cho dẫn chúng ta về với không gian thuyền nước, sông trăng vào buổi xế chiều- đêm tối:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay

Gió và mây gợi sự trôi nổi, lang thang, biện pháp đối “gió theo lối gió, mây đường mây” càng nhấn mạnh sự chia lìa đôi ngả. Phải chăng, đó là hình ảnh ẩn dụ cho sự xa cách của nhà thơ với người mình thầm thương mến, dù yêu nhưng không thể cùng là bạn đồng hành trong quãng đời ngắn ngủi còn lại của kiếp người. Nghệ thuật nhân hóa “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” càng khẳng định nỗi sầu giăng trong lòng người thi sĩ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật, hay chính tâm hồn nhà thơ đang sầu muộn, mà cảm nhận thiên nhiên cũng sầu thương, buồn bã đến nặng lòng, bởi vốn dĩ:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Nếu khổ thơ đầu, nỗi buồn nhẹ nhàng, cảnh vật còn mang sự tươi tắn thì đến với khổ thơ hai, cảnh vật nhuốm màu buồn hơn, nỗi buồn và cô đơn cũng vì thế mà thấm đẫm hơn:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Chữ “kịp” được đặt trong câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” cho thấy được nỗi hoài vọng của tác giả về một hạnh phúc, về một người có thể cùng thi nhân giao cảm. Trong câu thơ, ta thấy được sự bất lực trước thời gian của tác giả. Dường như, nhà thơ đã đem nỗi mặc cảm về căn bệnh quái ác của bản thân vào trong cả tứ thơ của mình.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.”
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.”

Từ “mơ” được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh giấc mộng của tác giả về một điều đẹp đẽ, có vị khách đường xa tới thăm, cùng đồng điệu, tâm sự với kẻ cô đơn trong cảnh bệnh tật. Điệp từ “khách đường xa” được lặp lại càng khẳng định khao khát được gặp gỡ của Hàn Mặc Tử nhưng có lẽ giấc mộng ấy chẳng thể nào thành bởi vị khách đã xa lại càng xa.

Bằng ngòi bút đầy tài năng và nội tâm phong phú của mình, Hàn Mặc Tử đã mang đến cho độc giả những vần thơ đẹp đẽ. Trong chữ có tình, trong tình có chữ, những cảm quan đầy tinh tế gợi cho người đọc bao dư vị về tình đời qua bài thơ.

Đây thôn Vĩ Dạ phân tích – Mẫu 3

Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút tài năng xuất sắc. Những tác phẩm của ông thường ít tả và kể mà thương hướng tâm, hướng nội. “ Đây thôn Vĩ Dạ” – một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong trái tim của độc giả. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình yêu đối với người con gái xứ Huế ông thầm thương, với mảnh đất đẹp nơi thôn Vĩ mà ẩn sâu trong đó còn có cả sự cô đơn, nuối tiếc và nỗi buồn chất chứa trong trái tim tác giả.

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ ẩn chứa nhiều ý nghĩa, đã tốn không ít giấy mực của các nhà các phê bình văn học:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”

Có ý kiến cho rằng, nhà thơ Hàn Mặc Tử khi đang nằm điều trị căn bệnh nan y, người con gái tên Hoàng Thị Kim Cúc mà ông thầm thương trộm nhớ đã gửi cho nhà thơ một tấm bưu ảnh với vài lời thăm hỏi trong đó có hỏi nhà thơ sao bấy lâu không về thăm thôn Vĩ. Nếu hiểu theo hoàn cảnh này, có lẽ nhà thơ đã mượn lời hỏi thăm ấy để mở đầu cho bài thơ của mình. Câu hỏi tu từ đầu tiên thể hiện một sự trách móc nhẹ nhàng của người con gái. Cũng có thể do nhà thơ tự phân thân hoặc tự vấn bản thân mình đã bấy lâu rồi không về thăm mảnh đất ấy với một niềm mong ước một lần được quay trở lại nơi đây.

Trong khổ thơ đầu, bài thơ cũng đã mang người đọc đến với một quê hương thôn Vĩ đẹp đẽ, thơ mộng:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Những hình ảnh thân thuộc bình dị và đặc trưng của thôn Vĩ như “hàng cau”, “vườn ai” đã được nhà thơ khéo léo tái hiện trong ba câu thơ. Trước mắt người đọc hiện lên là hình ảnh của những hàng cau tăm tắp vươn lên trước “nắng mới”, với khu vườn đã “mướt” lại “ xanh như ngọc”. Với cách sử dụng ngôn ngữ tài tình trong hai từ “ nắng mới”, “mướt” , câu thơ thể hiện một khung cảnh thật tươi đẹp và đầy sức sống. Biện pháp tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng khéo léo trong câu thơ thứ ba “xanh như ngọc” cho thấy thôn Vĩ không chỉ hữu tình, nên thơ mà còn rất trù phú. Cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ thì tuyệt vời đến thế, còn con người thì rất thật thà và đôn hậu qua hình ảnh “lá trúc” với “mặt chữ điền”. Chỉ hai hình ảnh ấy thôi cũng đủ để người đọc cảm nhận được điều đó bởi người xưa thường ví cây trúc với người quân tử, còn gương mặt chữ điền thường là những người có tấm lòng nhân hậu. Không chỉ khắc họa hình ảnh tươi đẹp, con người đáng yêu của thôn Vĩ, bài thơ còn cho người đọc nhận thấy được sự ngợi ca, lòng yêu mến của tác giả đối với con người và cảnh vật vùng đất yên bình đó.

Nếu như khổ thơ đầu mang đến một hình ảnh tươi vui, đẹp đẽ thì ở khổ thơ thứ hai lại mang ta đến với những hình ảnh chia lìa, một nỗi buồn trống trải chất chứa của nhà thơ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Người ta thường nói “gió thổi, mây bay” bởi gió và mây thường đi liền với nhau, gắn bó, hòa quyện với nhau. Tuy nhiên trong câu thơ trên thì gió đi một lối, mây đi một đường. Kết hợp với nhịp thơ dứt khoát 4-3, câu thơ thể hiện một sự chia lìa, xa cách. Nhà thơ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa tài tình trong câu thơ tiếp theo với hình ảnh “dòng nước buồn thiu” kết hợp với hình ảnh “hoa bắp lay”. Điều đó dường như hé lộ một nỗi buồn mang mác của người thi sĩ lúc này bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Càng đọc những câu thơ tiếp, người đọc càng dần thấy được một Hàn Mặc Tử cô đơn, u sầu và hướng nội:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Trong thơ ca xưa nay, người ta thường thấy hình ảnh của trăng được rất nhiều thi nhân đưa vào trang viết của mình. Nếu nhà thơ Lý Bạch có “Ngẩng đầu ngắm trăng sang – Cúi đầu nhớ cố hương”, Bác Hồ có “trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Hàn Mặc Tử cũng góp vào nguồn cảm hứng vô tận ấy hình ấy một “bến sông trăng” và con thuyền “chở trăng”. Có lẽ hình ảnh ẩn dụ “sông trăng” và thuyền “chở trăng” là hai hình ảnh cực kỳ đắt giá và mang nhiều ý nghĩa nhất trong khổ thơ này. “Trăng” ở đây có thể hiểu như một người bạn tri kỷ mà lúc cô đơn này nhà thơ rất cần để giãi bày tâm sự. Nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác và kết hợp với nội dung khổ thơ đầu, người đọc cũng có thể hiểu rằng trăng chính là nhà thơ. Bởi lẽ ở khổ thơ đầu hình ảnh thôn Vĩ và con người đáng yêu đến thế thì hình ảnh thuyền “chở trăng về” chính là hình ảnh ẩn dụ một mong ước của thi nhân được trở về mảnh đất ấy. Hai từ “thuyền ai” cùng câu hỏi tu từ cuối khổ thơ dù thể hiện nỗi niềm đau đáu nhớ về thôn Vỹ, mong muốn về thăm nhưng dường như lại chất chứa cả một nỗi khác khoải, cô đơn của nhà thơ khi biết mình đang mang bệnh khó có thể trờ về.

Sau những hình ảnh buồn man mác và sự cô đơn trong nỗi lòng người thi sĩ thì bài thơ lại tiếp tục đưa ta đến với một cõi mộng ảo, hư hư thực thực với một sự chới với, vô vọng trong trái tim tác giả:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Aó em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Với điệp từ “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần, câu thơ thể hiện một sự xa cách vô cùng. Vậy vị ‘khách đường xa” ấy là ai? Có thể đó chính là nhà thơ – một vị khách đường xa muốn trở về thăm xứ Huế. Khổ thơ không chỉ có vị khách mà còn có hình ảnh người em áo trắng. Trong một số tài liệu có viết rằng bà Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho ông một tấm bưu ảnh phong cảnh đẹp đẽ, một số tài liệu lại cho rằng đó là bức hình của bà mặc một chiếc áo dài. Và dù theo tài liệu nào thì người ta cũng vẫn ngầm hiểu rằng hình ảnh cô gái áo trắng trong bài thơ chính là Hoàng Cúc – người mà thi sĩ thầm thương bấy lâu. Hình ảnh “trắng” “ nhìn không ra” cùng “sương khói mờ nhân ảnh” đã đưa độc giả đến một cõi xa xôi nào đó, mờ mờ ảo ảo. Dường như niềm thương, nỗi nhớ và mong ước trở về thăm lại người xưa chốn cũ của nhà thơ với con thuyền chở trăng khó kịp nên ông đã vào tận trong cõi mơ để tìm kiếm. Nhưng có lẽ cuộc tìm kiếm ấy vẫn chới với, vô vọng khi thi sĩ thốt lên “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Lại một lần nữa nhà thơ tự hỏi lòng mình – một câu hỏi không biết có lời giải đáp ấy lại càng cho thấy rõ sự khắc khoải vô cùng của nhà thơ. Nếu khổ thơ đầu có “vườn ai”, khổ thơ thứ có “thuyền ai” thì khổ thơ thứ ba lại có “tình ai” nằm trong những câu hỏi tu từ ở mỗi khổ đều có sức truyền cảm lớn đến trái tim của người đọc và thể hiện tài năng sử dụng ngôn từ tài tình bậc thầy với lời ít nhưng ý nhiều của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Gấp lại trang thơ, hình ảnh miền quê tươi đẹp, trù phú và con người xứ Huế cùng tình yêu của nhà thơ với mảnh đất yên bình thôn Vĩ vẫn khắc sâu trong tâm trí độc giả. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ tài tình và các biện pháp tu từ một cách khéo léo, bài thơ cũng mang cho người đọc một sự thấu hiểu về sự cô đơn khắc khoải và mong ước trở về với mảnh đất đẹp đẽ cũng như mong ước trở về với cuộc sống đời thường của nhà thơ Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” sẽ mãi ghi dấu ấn trong trái tim bạn đọc, đóng góp một tác phẩm xuất sắc cho nền thi ca nước nhà.

Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11 – Mẫu 4

Hàn Mặc Tử một trong những “cây bút” tài năng bậc nhất của phong trào thơ mới những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, tác phẩm để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc có lẽ là “Đây thôn Vĩ Dạ”- một bài thơ đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của ông. Bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo, tinh khôi xứ Huế với bức tranh tâm cảnh của một cái tôi tha thiết yêu đời, khát khao giao cảm với cuộc sống, con người nhưng đầy những âu lo, trăn trở.

Câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như hờn trách nhẹ nhàng lại như lời mời đầy tha thiết của người con gái xứ Huế. Một lời hờn trách đầy dịu dàng nhưng đằng sau đó là lời mời ân cần và đầy chân thành: “Sao anh không về chơi”. Ở đây tác giả không dùng từ “thăm” mà lại dùng từ “chơi” đủ để thấy sự thân thiết, chân thành, mộc mạc, gợi lên được tình cảm thân mật, gần gũi. Và dường như, đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ đang tự hỏi chính mình, tự trách chính mình sao bấy lâu chẳng trở về với chốn cũ, người xưa để giờ đây trong cơn bạo bệnh lại chỉ còn những tiếc nuối, băn khoăn. Trong câu thơ chất chứa cả mỗi nỗi khát khao được trở về với Vĩ Dạ thân yêu.

Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt người đọc qua từng lời thơ, một bức tranh Vĩ Dạ đầy lung linh, tươi đẹp và căng tràn sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Cau là loài cây dân dã cũng là linh hồn của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, trầu- cau gắn với tình yêu đôi lứa. Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu gắn với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh “nắng hàng cau” là một hình ảnh đẹp gợi vẻ tinh khôi, trong trẻo của những tia nắng sớm mai. Màu nắng hàng cau là màu nắng vô cùng mới mẻ mà trước Hàn Mặc tử chưa có thi nhân nào gợi ra được màu nắng ấy. Những tàu cau được nắng mới bao trùm, nắng hòa vào hạt sương đọng trên phiến lá tạo nên vẻ long lanh đến kiều diễm. Thiên nhiên trở nên thanh thoát, trong trẻo đến lạ lùng, không gian trở nên cao ráo và đầy khoáng đạt. Ánh nắng hàng cau làm sáng bừng lên cả một khu vườn thơ mộng, hữu tình.

Xa xa là bóng hàng cau, khi lại gần, khu vườn càng thêm đẹp, thêm tươi. Có cây ngời ngợi màu xanh sáng, xanh trong, xanh mỡ màng, mượt mà:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Câu thơ cất lên như sự ngỡ ngàng đến xuýt xoa của tác giả trước vẻ đẹp của tạo hoá được tưới tắm bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. Tính từ “mướt” gợi lên sắc xanh ngời ngợi, ngọc ngà, xuân sắc đầy sức sống của khu vườn. Có thể thấy qua những hình ảnh thơ gần gũi, bình dị mà bằng cách sử dụng ngôn từ độc đáo, bức tranh thôn Vĩ đầy đẹp đẽ, sống động và cao quý được gợi lên.

Cảnh thôn Vĩ ngày càng trở nên hài hòa hơn khi có sự xuất hiện của con người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Lối nói cách điệu thể hiện vẻ đẹp e ấp, kín đáo, dịu dàng và rất Huế của người con gái. Sự xuất hiện của khuôn mặt chữ điền phúc hậu, dịu dàng đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ trở nên sinh động hơn khi có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.

Khổ thơ thứ hai gợi ra cảnh sông nước êm đềm, mang nỗi niềm bâng khuâng, nỗi mong cầu hư ảo:

“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ? “

Không gian có gió, mây, sông nước, có thơ mộng, có êm đêm những gợi buồn, gợi chia ly. Cảnh chia đôi ngả “gió theo lối gió, mây đường mây” phải chăng chính là sự mặc cảm của nhà thơ về tình yêu xa cách, không thể đồng hành cùng người thương của mình. Vì lòng người mang sau bi nên thiên nhiên cũng vương buồn. Dòng sông nước vẫn chảy mà “buồn thiu”, gió xao động, hoa bắp lay trôi vô định trên làn nước. “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” cảnh vật gợi vẽ quạnh quẽ, thê lương, u sầu. Dòng sông buồn như chính tâm trạng thi nhân.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Tứ thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?” gửi gắm cả một nỗi niềm của thi nhân, một khao khát vào tình yêu cập bến, để được cùng người tâm sự, tỏ bày. Nỗi ngóng trông, mong chờ, khát khao mãnh liệt được tâm giao được cất lên trong tiếng thơ bình dị. Có chăng, lúc này đây, tác giả đang lo sợ vì vận mệnh ngắn ngủi của cuộc đời mình. Sợ rằng thời gian ngày một ngắn thêm mà lòng người vẫn chưa thể được khỏa lấp nỗi trống vắng, cô đơn, sầu muộn. Liệu con thuyền kia có chở kịp vầng trăng hạnh phúc ấy về với kẻ mệnh bạc này không?

Thực tại phũ phàng, cô đơn ngập lối, tác giả đành tìm đến giấc mơ, nơi đó có thể nhìn thấy người con gái mình yêu, dẫu đó chỉ là chút hạnh phúc trong ảo ảnh:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong giấc mơ mang màu hy vọng, thi nhân thấy vị khách đường xa trong tà áo trắng tinh khôi, ẩn hiện trong sương khói. Bóng hình như nhoè đi rồi biến mất trong phút chốc. Sự thanh khiết, cao quý của người con gái trong ảo ảnh khiến thi nhân không khỏi không lo sợ:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong lời thơ, tác giả phân vân, lo sợ về một tình cảm không chắc chắn. Một trái tim khao khát yêu và được yêu nhưng không bao giờ có được tình yêu trọn vẹn khiến tác giả hoài nghi về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Không biết tình người có đậm đà như chính lòng ta chăng?

Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi tư từ chất chứa nỗi niềm hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ đẹp nhưng buồn, lòng người buồn mà đẹp, tất cả tạo nên sự hòa quyện giữa cảnh và tình.

Đây thôn Vĩ Dạ qua bao thế hệ người đọc vẫn mang một sức sống dạt dào. Bài thơ không chỉ là một bức tranh êm đềm và tươi đẹp của Vĩ Dạ mà còn là bức tranh đẹp của một tấm lòng tha thiết với thiên nhiên và khát khao được sống, được yêu của Hàn Mặc Tử.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 5

Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.

Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ” đã ra đời.

Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.

Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tâm thức.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Câu thơ này xuất hiện hai từ “nắng”. Một cái nắng được phát hiện được miêu tả “nhìn nắng hàng cau” và một cái nắng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo lên như trẻ con “nắng mới lên”. Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh. Nó thắp nên trên những hàng cau.

Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết phải có một cuộc dạo chơi như vậy. Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạc vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn Vĩ.

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã “vườn ai mướt quá” lại còn phát hiện ra cái “mướt quá” ấy là “xanh như ngọc”. Tất cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mỗi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì “vườn ai” chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lí. Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên – bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là “mặt chữ điền” là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.

Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, thế giới kì lạ. Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế. Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình tượng “lá trúc che ngang” càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng vè buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên.

“Gió theo lối gió, mây đường mây”

Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lí mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng giò để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.

Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua cách nói nóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kẻ phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tường dại khờ.

Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất ngờ con người ấy bỗng dưng hiện ra thật nhân từ và độ lượng.

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.

Nhân vật “ai” ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy đang cắm thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho nhà thơ tối nay. Đó là sự yêu thương cao cả, là sự thấu hiểu đến tường tận những khao khát của Hàn Mặc Tử. Thế nhưng chữ “kịp” ở đây lững lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? Có thể kip và cũng có thể không còn kịp nữa… Tối nay là một khái niệm thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây phút ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa”

Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy “khách đường xa, khách đường xa”. Thế mà, lại có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình. Con người đó càng lúc càng trở nên xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:

“Người đã đi rồi khôn níu lại
Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi đến dại khờ”.

Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hi vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình. Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu mình như “khách đường xa”. Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ thấy người ấy quay trở lại với mình, cô gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ “em” thật giản dị, gần gũi biết bao:

“Áo em trắng quá nhìn không ra”

Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự tuyệt vọng. Đáng lẽ “áo em trắng quá” thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao… Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật “em” trở lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình.

Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lí nhân sinh:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”

Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:

“Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”

Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được “nhân ảnh” chứ không thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không chủ động được với chính mình, mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu. Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa “nhân ảnh” của nhân vật “em”… Đó là một nhận thức thật chua chát, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có chỗ nào để bám víu:

“Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hai đại từ “ai” ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh có biết tình em có đậm đà không? Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy “mờ nhân ảnh”, càng tuyệt vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng.

Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế nào, yêu như

Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 6

Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mạc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:

Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…”

(Bẽn lẽn)

“Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”

(Hãy nhập hồn em)

“Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”.

(Đêm không ngủ)

Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sông trăng… Cả một thế giới trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mạc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai biết hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về Huế đẹp và thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” như Hàn Mạc Tử.

“Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong “Tập thơ Điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mạc Tử đã viết về một tình yêu – tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.

Câu đầu của khổ thơ thứ nhất “dịu ngọt” như một lời chào mời vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới. lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào mời, như vẫy gọi.

Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng trông “mướt quá” một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hòa, con người cần cù chăm bón mới có màu sắc “xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên như rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (“Thơ duyên”). Hai chữ “vườn ai” gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mạc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”

(Mùa xuân chín)

Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc… mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.

Vĩ Dạ một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mạc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bên phiên cảnh hài hòa, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp lay, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoáng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! Các điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy;

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi “ai” hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành “sông trăng”. Hàn Mạc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: “Gió trăng chứa một thuyền đầy”. Hàn Mạc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay “thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong “Đây thôn Vĩ Dạ” là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn. ở đây bức tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thía một nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa tình.

Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: “Những nàng thiếu nữ sông

Hương – Da thơm là phấn, má hường là son…”. Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương, ở đây sương khói đã làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mạc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ nói về mối tình này?

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” các điệp ngữ và luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn và bệnh tật.

Cũng cần nói một đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ “ai” xuất hiện đều mơ hồ, ám ảnh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” – “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” – “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ ảo cùng sương khói?.

Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ… bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, cọn thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hồn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ tài hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong “Đây thôn Vĩ Dạ” vương vấn mãi lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta.

“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô”.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 7

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mạc Tử, khi còn làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mạc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi, hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,
Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.

Hàn Mặc Tử khi lâm bệnh hủi năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc gửi tặng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, có thuyền, có bến có trăng, cùng những hàng cau cao vút kèm theo dòng chữ của Hoàng Cúc để an ủi nhà thơ. Bức bưu thiếp đã đánh thức cảm xúc của thi sĩ, nên có bài thơ tuyệt bút này.

Khổ thứ nhất mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ thoáng như một lời trách móc nhẹ nhàng có pha chút tiếc nuối của ai đó, nhưng đằng sau đó là lời chào mời tha thiết khách đến thăm để được thưởng thức cảnh đẹp của “thôn Vĩ”.

Về thôn Vĩ để được “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhà thơ nói đến cây cau trước tiên vì cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân thẳng tắp, tán lá xanh tươi, gợi sự ngay thẳng thủy chung. Hình ảnh hàng cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, ấy là “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” gợi cho ta ánh nắng ban mai, biểu tượng cho sức sống, niềm vui đang lan tỏa tràn đầy mặt đất. Trong ánh nắng ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lên lấp lánh như đang vươn lên hút lấy những ánh vàng rực rỡ

Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng reo thích thú biểu hiện sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Khung cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được sự chăm sóc bởi bàn tay khéo léo, lại được tắm gội mưa gió thường xuyên, nên mượt mà và dưới ánh nắng ban mai lấp lánh như những viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh của tác giả trong câu thơ vừa chính xác, vừa gợi cảm. Có thể nói, tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.

Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mạc Tử đã phác họa được khung cảnh khu vườn một làng quê xứ Huế vừa quen thuộc, bình dị, vừa thi vị độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế trong cái “nắng mới lên” thật thanh thản. Nhưng cảnh vật Vĩ Dạ bổng sinh động hẳn lên, khi bóng dáng con người xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền thường gợi về vẻ đẹp phúc hậu. trang trọng, quý phái, còn lá trúc gợi cái dáng vẻ mảnh mai, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa tả thực: thấp thoáng sau khóm trúc có khuôn mặt rất phúc hậu của ai đó hình như đang dõi theo khách đường xa, còn có ý nghĩa tượng trưng, cách điệu hóa.

Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh xinh xắn, thơ mộng, người phúc hậu quý phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Nhờ thế câu thơ đã làm bật được cái linh hồn vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung biểu hiện.

Tóm lại, bằng những chi tiết rất quen thuộc và bình dị, Hàn Mạc Tử đã khắc họa một bức tranh quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hòa giữa cảnh và người. Đoạn thơ làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương làng mạc Việt Nam.

Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của Huế: Dòng sông Hương và vẻ đẹp êm đềm trầm tư của Vĩ Dạ nói riêng và Huế nói chung.

Về với Vĩ Dạ, về với Huế, với núi Ngự, sông Hương, Hàn Mạc Tử cũng cảm nhận được cái linh hồn, cái nhịp điệu rất Huế ấy. Khung cảnh Huế dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử có sông nước, bờ bài, có gió, có mây và con thuyền ai đó đậu dưới trăng nơi bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, thơ mộng.

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia ly buồn vắng đến não nề. Phải chăng một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia li nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà sầu tủi, phân li? Bởi đang trong tâm trạng buồn như vậy nên nhìn vào đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng đây lại đứt gãy, như là không có sự gặp gỡ. Điệp từ “gió” và “mây” đã thể hiện ra điều đó. Và ngay đến dòng nước vô tri kia cũng trở nên buồn hiu cùng với hoa bắp hiu hắt khẽ “lay”. Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh, mà dường như còn muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp điệu êm đềm, lững lờ, nét trầm tư rất điển hình không nơi nào có được của Huế. Hai câu thơ có cái nhịp khoan thai chậm rãi cũng đã diễn tả rất thành công cái cảm xúc trên.

Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mạc Tử huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực, nửa hư như trong mộng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”

Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng và thuyền mới chở trăng. Ở đây Hàn Mặc Tử là con người có con mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật thì sự thật thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy sẽ sang địa hạc huyền diệu. Lời thơ của Tử thanh tao quá! Ngọt lịm cả người” (Bích Khê).

Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên. Trăng cũng tượng trưng cho hạnh phúc thanh bình. Vì vậy, hình ảnh thơ của Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong trái tim người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mỹ và thánh thiện. Những lời thơ lại cất lên như một câu hỏi vô vọng. Hai câu thơ sau của khổ thơ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo âu. phấp phỏng về sự muộn màng. Chỉ một chữ “kịp” câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.

Đến với khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình người tình đời thiết tha mà xa xăm vô vọng của tác giả.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”

Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng khắc khoải nhớ mong tha thiết vừa diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. Vì vậy, “mơ khách đường xa” tác giả chỉ thấy “áo’’ nhưng “nhìn không ra”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay chính là cô gái thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ khiến cho tác giả có cảm giác bâng khuâng hư thực? Chỉ biết đây là một hình ảnh vừa rất đỗi gần gũi tha thiết vừa xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực, xa vời vì khoảng cách thời gian, không gian và làn khói sương của một mối tình chưa có lời ước hẹn “Áo em trắng quá nhìn không ra” là một câu thơ khá đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh xứ Huế và cũng là màu gợi về sự thanh khiết trắng trong rất phù hợp với cô gái trong mộng tưởng. Cái màu trắng cả không gian, làm nhập nhòe cả thị giác của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra khi lẩn vào sương khói hư ảo của Huế lắm nắng, nhiều mưa và sương khói của mối tình chưa có ước hẹn. Vì vậy, tình cảm của người con gái thôn Vĩ hôm nào có bền chặt cho chăng? “Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Trong đau thương tột cùng mà nhà thơ vẫn có những phút giây thả hồn trong trẻo để hướng về một miền quê thân thiết và một mối tình đây mộng ảo để tạo nên một “viên ngọc thơ tuyệt vời, chói lọi nghìn năm” Chế Lan Viên .

Bài thơ cố nhiên có một xuất xứ, có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân tích, ta thấy, tác phẩm đã vượt xa ranh giới của những gì cụ thể, đạt tới sự khái quát hóa nghệ thuật cao độ để đến với cuộc đời bao la.

Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là một bài thơ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ Hàn Mặc Tử về tình yêu day dứt và quá đỗi sâu nặng đối với cuộc đời này.

Xem thêm: Phân tích khổ cuối bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

………………….

Tải file tài liệu để xem thêm bài văn phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11

Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Khi nhắc đến thơ Hàn Mặc Tử, chúng ta không thể nào không nghĩ đến Mùa xuân chín hay Đây thôn Vĩ Dạ. Những tác phẩm thơ mang đầy cảm hứng của thi nhân Hàn Mặc Tử với những lời thơ trong trẻo thể hiện tâm hồn yêu thiên nhiên, quê hương đất nước tha thiết. Sau đây là tổng hợp một số mẫu bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ, phân tích Đây thôn Vĩ Dạ ngắn nhất, phân tích Đây thôn Vĩ Dạ học sinh giỏi sẽ giúp người đọc hiểu rõ hơn về nội dung cũng như ý nghĩa của tác phẩm.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất. Có thể nói Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay nhất của nhà thơ Hàn Mạc Tử. Hoàn cảnh ra đời bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ cũng rất đặc biệt. Bài thơ được tác giả viết khi đang chữa bệnh trong trại Phong ở Quy Nhơn. Qua bài thơ, tác giả đã khắc họa nên hình ảnh đẹp về miền quê xứ Huế, qua đó bày tỏ tình yêu của thi sĩ. Trong bài viết này Hoatieu xin chia sẻ phân tích Đây thôn Vĩ Dạ dàn ý, phân tích Đây thôn Vĩ Dạ ngắn nhất, phân tích Đây thôn Vĩ Dạ 2 khổ đầu… sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích để các bạn củng cố thêm vốn từ vựng khi làm bài.

phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Mời các bạn cùng tham gia group Bạn Đã Học Bài Chưa? để cập nhật các kiến thức mới bổ ích về học tập cùng với Hoatieu nhé.

1. Dàn ý phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả

– Giới thiệu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

II. Thân bài

1. Phân tích khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.

– Bức tranh được hiện lên qua lời mời trong đó hàm chứa sự trách móc mà thân thiết:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

– Cảnh vật hiện lên qua vài nét phác họa nhẹ nhàng, duyên dáng, đầy ấn tượng của màu xanh như ngọc của ánh sáng tinh khôi buổi ban mai.

– Cuối cùng là nét chấm phá độc đáo tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt chữ điền với chiếc lá trúc che ngang, gợi lên nét tinh nghịch mà dịu dàng, dễ thương vốn dĩ ở thôn quê.

2. Phân tích khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.

– Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa bằng hình thức thơ độc đáo: Gió theo lối gió / mây đường mây. Dòng sông như tấm gương ghi nhận hình ảnh chia lìa đó, nên buồn thiu, hoa bắp cúng lay lắt buồn thiu, chia sẻ với tâm trạng nhà thơ.

– Trăng chiếm một dung lượng khá lớn trong thơ Hàn Mặc Tử và ánh trăng thật kì lạ, khác thường. Ta từng gặp trong thơ của ông, hình ảnh:

Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi

(Bẽn lẽn)

– Câu phiếm định: “thuyền ai?”, rồi lại “bến sông trăng”. Quả thật, đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong “Thi nhân Việt Nam”: “Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”.

3. Phân tích khổ cuối: Cảnh vật, con người đều chìm sâu vào mộng ảo.

– Cõi lòng nhà thơ dường như chìm vào mộng tưởng (mơ khách đường xa). Bệnh tật cũng đã khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn đau ảo giác (nhìn không ra, mờ nhân ảnh). Bởi vậy, con người cảnh vật tất cả đều nhòa mờ trong cô đơn, ngậm ngùi.

– Trong cô đơn, ngậm ngùi, trong mộng ảo đau thương, nhưng lòng nhà thơ vẫn cứ âm thầm muốn gởi đến con người, cuộc đời một thông điệp, nó như lời trần tình tội nghiệp:

Ai biết tình ai có đậm đà?

– Ta chưa thể quyết rằng câu thơ ấy thể hiện tình yêu nước của Hàn Mặc Tử đến mức nào. Thế nhưng, chắc chắn rằng Hàn Mặc Tử rất yêu cuộc đời, rất yêu quê hương xứ sở. Ta cũng không ngờ trong tập Thơ Điên lại có những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đến thế.

III. Kết bài

– Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm

2. Mở bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ khổ 1

Hàn mặc Tử là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Ông là một nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Dù không gắn bó lâu với đời nhưng những tác phẩm ông để lại đã trở thành những áng thơ sống mãi trong lòng người đọc. Đặc biệt là tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ. Thông qua khổ thơ đầu, tác phẩm đã đưa người đọc hòa mình vào khung cảnh thiên nhiên xứ Huế thơ mộng, vừa mơ hồ nhưng lại mang những nét rất riêng của xứ Huế.

Mở bài Đây thôn Vĩ Dạ học sinh giỏi

Trong suốt dòng chảy của nền văn học, đã có không ít văn sĩ, thi sĩ rẽ ngược dòng hoài niệm để tìm về một “miền nhớ”, ví như “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu, “Hai cây phong” của Ai-ma-tốp, “Việt Bắc” của Tố Hữu. Những mảnh đất ấy không đơn thuần chỉ là một địa danh mà đã trở thành nơi ấp ôm trọn vẹn tiếng lòng xao động của người cầm bút, là một bến đỗ để ngàn năm vỗ về tâm hồn con người. Cũng để ngòi bút của mình tuôn chảy trong nguồn cảm hứng vô tận ấy, đốm lửa cháy mãnh liệt của phong trào Thơ Mới, người khởi xướng ra “Trường thơ Loạn” – Hàn Mặc Tử – đã để lại dấu ấn sâu sắc trên thi đàn Việt Nam với thi phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ”. Bài thơ là cuộc hành trình về thăm chốn cũ trong tâm tưởng của tác giả, thể hiện một hồn thơ đầy thiết tha với cuộc đời và tình yêu chưa bao giờ tắt với mảnh đất và con người xứ sông Hương, núi Ngự.

3. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ ngắn nhất

Hàn Mặc Tử, một nhà thơ tài hoa nhưng bạc mệnh. Trong di sản văn học của mình ông đã để lại cho đời nhiều tuyệt phẩm như tập Thơ điên, Xuân như ý, Duyên kì ngộ. Nhắc đến tập Thơ điên chắc hẳn người đọc không thể không nhắc đến tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ. Bài thơ là tiếng lòng yêu cuộc sống tha thiết, nỗi niềm hi vọng mong manh về tình yêu và hạnh phúc.

Đến với tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ, người đọc như được chìm đắm vào bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ đẹp tinh khôi, tràn đầy sức sống của khu vườn thôn Vĩ.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu hỏi mở đầu như đã phân tích ở trên, thực chất không phải là câu hỏi đề trả lời, nó cứ buông ra thế để thành dòng độc thoại bộc lộ tâm tình của một cái tôi cô độc, cô đơn đang khao khát được đồng cảm, gắn kết. Ba câu thơ tiếp theo mở ra một không gian thôn Vĩ tươi đẹp biết bao. Nắng hàng cau mới lên, gợi lên vẻ đẹp thanh khiết, tươi mới, trong trẻo. Câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi, chỉ với vài từ ngữ giản dị, nhưng lại mở ra cho ta hiểu hơn rất nhiều về hồn thơ này, rằng Hàn Mặc Tử luôn khát vọng về một vẻ đẹp tinh khiết, trong ngần, tươi mới, đó không chỉ là ngưỡng vọng của một hồn thơ, mà còn là khát khao của một tín đồ. Tiếp cái nắng trong trẻo, tươi xanh là hình ảnh “Xanh như ngọc”, vừa gợi sự sang trọng, quý giá, vừa gợi sức sống, nhựa sống căng tràn trên từng dòng thơ. Mướt gợi lên vẻ đẹp óng ả mà đầy xuân sắc, mảnh vườn bình dị bỗng chốc hiện lên đầy vẻ thanh tú cao sang mà cũng kiều diễm biết chừng nào. Câu thơ cuối hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền, gợi sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, đồng thời cũng gợi nên vẻ đẹp cân đối hài hòa đầy hoàn hảo.

Nhưng cái dị, cái bất thường cái lạ để làm nên một hồn thơ điên chính là trong khổ thơ thứ hai này đây, khi đang trong khổ trên hình ảnh tươi mới, tràn đầy sự gắn kết, sự sống thì khổ thơ thứ hai lại mang màu sắc ảm đạm ngược lại:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hình ảnh gió mây trong cuộc sống vốn là hai thứ không thể tách rời, mà luôn song hành với nhau, sự chia cắt trong thơ Hàn Mặc Tử của hai hình ảnh này vì thế gợi lên nhiều niềm ám ảnh cũng như đầy sức gợi. Đúng vậy, đây không còn là hình ảnh của thị giác, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã chia lìa cả những thứ tưởng như không thể chia lìa, không gian không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã bỏ buồn vào dòng sông “dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Dòng nước lững lờ, ngưng đọng, hay chính dòng đời mệt mỏi, cay đắng chảy vào lòng nhà thơ khiến thi sĩ miên man trong những nỗi buồn xa xăm. Tất cả cảnh vật, sự vật trong hai câu thơ đầu đều nhuốm mình trong mặc cảm chia lìa đau thương của Hàn Mặc Tử, đến hai câu thơ cuối, phải chăng là sự níu giữ trong tuyệt vọng của hồn thơ đầy đau thương. Từ kịp gợi sự chấp chới, chơi vơi, vô định đồng thời cũng như khắc khoải đâu đây nỗi bất lực vô định. “Có chở trăng về kịp tối nay?” Trăng dường như đã là một nơi nương tựa duy nhất, một tri âm, một cứu tinh, một cứu chuộc. Chỉ trong hai câu thơ thôi mà dường như ta thấy được bao nhiêu dồn nén chất chứa của một hồn thơ điên, nhà thơ khát khao được sống dẫu biết lưỡi hái của thần chết đang đến gần, nên vội vàng chới với trong từng phút giây để được sống, và khao khát kiếm tìm sự đồng điệu để sẻ chia. Nhưng tiếc thay:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Cả “em”, cả thôn Vĩ tươi đẹp ấy đều đã vượt xa khỏi tầm với, đều là thế giới “ngoài kia” trong trẻo, tươi đẹp, tinh khôi. Đối lập hoàn toàn với thế giới tối tăm, đơn độc, lạnh lẽo trong này. Tất cả chỉ còn là mờ nhân ảnh, tiếng lòng của hồn đau không ngừng hướng ra ngoại giới để kiếm tìm sự đồng vọng, nhưng càng khao khát thì hiện thực phũ phàng lại càng đánh bật lại những đòn giáng trớ trêu. Câu hỏi cuối vang lên đầy khắc khoải, bởi đó vừa như tiếng thở dài, hay cũng là lời cầu mong của một kẻ tha thiết gắn bó đến cháy lòng.

Khép lại bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một nỗi niềm của một tâm hồn cô đơn, luôn kiếm tìm sự đồng điệu trong vô vọng. Có thể nói bên canh một Thôn Vĩ Dạ đẹp nao lòng người là một nỗi đau của thi nhân chất chứa biết bao nỗi niềm gửi vào hậu thế sau này.

4. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ chi tiết

Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót xa và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào trong thơ, những giây phút ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau. Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ. Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế. Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu tiên đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.

Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu

Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh

Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu

Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.

Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rõ nồng nàn.

Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc choàng nhung xanh mịn: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn.

Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên.

Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thía những vần thơ này: Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống.

Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất: Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tử thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối tăm, bế tắc.

Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui – thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hóa thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng.

Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng.

Bật mí:  Cảm nhận nhân vật bé Thu hay nhất (Sơ đồ tư duy + 10 mẫu) mới nhất

Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa

Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.

Hay:

Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi.

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lượng trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Thuyền ai đậu đên sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tôi nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời. Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra;

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu. Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói: Ai biết tình ai có đậm đà?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho “Đây thôn Vĩ Dạ” sương khói hơn, huyền bí hơn.

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng người. Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

5. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ học sinh giỏi

Khi được gọi tên cho Phong trào thơ mới, Đỗ Lai Thúy đã gọi đó là một “Cây nấm lạ trên gia hệ của văn mạch dân tộc”. Cái “lạ” của thơ mới, có người biết, có người chưa biết, nhưng cái “lạ” mà người thi sĩ Hàn Mặc Tử mang theo khi bước vào làng thơ, thì hẳn ai cũng rõ.

Những vần thơ điên loạn với ngập tràn ý tưởng của hồn, trăng, và máu đã không thôi ám ảnh những ai yêu thơ Hàn, đọc thơ Hàn. Nhưng chẳng ai có thể tưởng đến giữa một rừng thơ ma quái và kì dị ấy, lại mọc lên một bông hoa trong sáng tinh khôi, còn vương bao hương sắc ở đời. Bông hoa ấy Hàn đặt tên “Đây thôn Vĩ Dạ”, trong nó chứa chở bao cảm xúc và hoài nhớ về một miền quê từng gắn bó biết bao…

Thi phẩm chỉ vỏn vẹn ba khổ, nhưng là sự kết đọng của bao nhiêu nỗi nhớ, bao nhiêu khát khao, có cả bao nhiêu hoài nghi và tuyệt vọng. Bài thơ gắn với chuyện tình giữa thi sĩ và người con gái Huế tên Hoàng Cúc. Giữa những ngày đau đớn nhất cuộc đời, chàng lại nhận được bức ảnh sông nước xứ Huế đêm trăng, nhận thêm mấy dòng thư tín từ người con gái chàng từng thầm thương. Bao cảm xúc ùa về, cuộc hành hương trong tâm tưởng cũng từ đó, và những vần thơ hay nhất được gợi hứng từ xứ Huế mộng mơ đã bật trào trong nỗi nhớ…

Thi phẩm bắt đầu bằng một câu hỏi mang đầy ý vị của Huế mộng và Huế thơ. Không phải là hàng loạt câu hỏi tự vấn đầy quằn quại và đau đớn như ta từng gặp:

Tôi vẫn ở đây hay ở đâu

Ai đem bỏ tôi xuống trời sâu

Sao bông phượng nở trong màu huyết

Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?

Câu hỏi cất lên ở đây vừa như một lời mời, một lời hỏi, lại như một lời trách móc, lời thở than: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Là người con gái Huế hỏi chăng? Hay là Hàn tự phân thân ra hỏi mình? Dù là gì thì cái điều cốt nhất ta thấy được ở đây cũng chỉ là một niềm tha thiết, một nỗi xúc động của người thi sĩ khi được trở về với mảnh đất nhiều kỉ niệm, dù chỉ là trong tâm tưởng.

Câu thơ chơi vơi trong sáu thanh bằng và vút lên ở thanh cuối đủ gieo vào lòng người đọc những cảm xúc khó mờ. Là “không về” chứ không phải “chưa về”, là “về chơi” chứ không phải “về thăm”. Nếu đọc cho kĩ, ngẫm cho sâu, ta sẽ thấy một câu thơ mà hàm ẩn bao ý niệm.

“Chưa về” nghĩa rằng sẽ còn về được nữa, “về thăm” nghe thật xa lạ biết bao. Đứng ở tâm thế của một người con từng rất gắn bó với xứ Huế, Hàn đã dùng chính tâm thức của mình để viết những câu thơ tiếp theo. Cảnh vườn thôn Vĩ hiện ra, ngời ngời sắc xanh, long lanh ánh sáng:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Ấn tượng sâu nhất vương lại từ câu thơ chính là không gian ngập tràn sắc nắng. Không phải “nắng ửng” trong làn khói mơ tan, không phải “nắng chang chang” dọc theo bờ sông trắng, nắng ở đây, là thứ “nắng mới”, không huyền hồ ảo diệu, không đậm màu đậm hương, nó tinh khôi và trong trẻo đến lạ.

Nắng đổ xuống hàng cau, cau hướng lên hứng nắng nhẹ nhàng, một khu vườn mướt xanh được gội sạch bởi sương đêm, sáng sớm nay được đắm mình trong nắng mới. Cái “mướt” mà Hàn gọi dậy ở khu vườn, cái “ngọc” mà Hàn ví với màu xanh, chúng gợi ra bao nhiêu là sắc điệu. Vừa gợi màu mà vừa gợi ánh, vừa óng chuốt lại thật tinh khôi. Người ta ngỡ ngàng về một cảnh vườn thôn từng quen nay trong trẻo đến lạ.

Nhớ về thôn Vĩ còn là nhớ về những nét dáng thân thương của con người nơi đây. Không tả mà chỉ gợi, bằng bút pháp cách điệu hóa, thi sĩ đủ cho ta cảm nhận về con người Huế chân thật, dịu dàng, về con gái Huế đằm thắm, nữ tính, thấp thoáng sau một mảnh trúc che ngang là gương mặt chữ điền rất Huế. Ta từng gặp hình dáng ấy trong câu thơ của Bích Khê:

Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn

Biếc che cần trúc không buồn mà say.

Những nét vẽ thanh tao, những cảm nhận tinh tế, chúng gọi dậy một hồn thơ thánh thiện, nặng tình nặng nỗi với một mảnh đất thân thương. Tìm đâu xa tình yêu quê hương xứ sở, đôi khi niềm thương bắt đầu từ những ấn tượng ngọt ngào quá đỗi bình thường như thế. Hóa ra, không chỉ Hoàng Phủ, không chỉ Trịnh Công Sơn mới viết hay về Huế. Hàn cũng góp cho Huế mấy vần thơ thật chân tình đượm nồng những yêu thương…

Nhưng liệu có phải sẽ thật thiếu sót khi nhắc về Huế mà bỏ quên cảnh sông nước đêm trăng vốn đã thành mảnh hồn riêng nơi đây? Bắt trọn được cái hồn riêng ấy, thi sĩ đã kéo cái nhìn của người đọc sang một miền không gian khác, chơi vơi giữa gió mây, lặng mình theo dòng nước:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Một bức tranh gợi buồn, gợi sầu. Gió nhẹ thổi, mây nhẹ trôi, hoa bắp nhẹ lay, dòng Hương giang trầm mặc. Cái dáng Huế qua mấy mươi thế kỉ cơ hồ cũng chỉ có thế. Không khí trầm tịch của đất cố đô được gợi lại chỉ qua mấy nét chấm phá. Nhưng hãy thử đọc kĩ, và nhìn đằng sau câu thơ xem còn bao nhiêu nét nghĩa nữa.

Quả vậy, đây không chỉ là một bức tranh ngoại cảnh, nó là tranh tâm cảnh, là điệu tâm hồn. Cứ nghe cái điều ngang trái trong câu thơ là rõ. Lẽ thường gió thổi mây bay, ở đây gió mây đôi ngả, xa cách như chẳng thể chung đường. Cảnh đã được nội tâm hóa, thấm đượm sự chia li. Đến nỗi mà, cái buồn đã được gọi thành tên: “buồn thiu”. Hai chữ “buồn thiu” đã gói trọn nỗi buồn đau của con người, của mối trần duyên tê tái. Thấp thoáng nơi ấy câu dân ca thuở nào:

Ai về Giồng Dứa qua truông

Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em?

Nhưng không biết vì nỗi buồn đã choán ngập tâm hồn, hay vì nhớ mong không thể làm chủ, mà ngay hai câu thơ sau, cảnh trở nên thật hư ảo huyền hồ:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Thuyền, trăng, bờ bãi vốn không phải lần đầu đồng hiện. Thơ xưa từng có ai viết:

Nước biếc non xanh thành gối bãi

Đêm thanh nguyệt bạch khách lên lầu.

Nhưng cái khác biệt ở đây là, thi sĩ không đứng đó mà ngắm trăng hay ngắm sông, người đang chìm dần trong cảm giác ảo hóa. Trăng xuất hiện trở lại, nhưng không phải “trăng vàng trăng ngọc”, “trăng nằm sóng soãi”, mà là trăng huyền hồ tan trên mặt nước. Trong cảm giác mông lung của thi nhân, sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền trăng, bóng người cũng trở thành hình ai thấp thoáng, mờ nhòa trong trăng.

Tất cả ngập một màu trăng. Trăng ở đây mang chở nỗi niềm khắc khoải, lo âu, nuối tiếc trước nỗi đau sắp phải xa lìa thực tại.Sự phấp phỏm âu lo và những mong được níu giữ thời gian ấy hiện lên rõ nhất ở chữ “kịp” và câu hỏi đầy tội nghiệp kia.

Ta nhìn thấy ở đây một cuộc chạy đua với thời gian, thời gian đang dồn đuổi từng bước, nhưng chạy đua không phải để tận hưởng tối đa thanh sắc cuộc đời như mong muốn của Xuân Diệu, mà chỉ mong tận hưởng cái tối thiểu – đó là được sống. Được sống không thôi đã thỏa nguyện rồi. Trong câu thơ là bao nhiêu sự âu lo, cũng là bấy nhiêu niềm khao khát. Nhân văn của thi phẩm cũng là ở đó: Hãy luôn sống trọn từng ngày khi còn đang được sống.

Niềm khao khát tình đời, tình người của thi nhân cất lên rõ nhất ở khổ thơ thứ ba, khi mà thế giới đã về với thực tại, ngập chìm hoàn toàn ở cõi mơ:

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Chữ “mơ” đặt ở đầu, chơi vơi sau đó là tiếng gọi “khách đường xa” đầy khắc khoải, mang theo sự chơ vơ hụt hẫng, bỏ lại bao ngẩn ngơ buồn tiếc. Hình ảnh khách thể xuất hiện trở lại, ngỡ như cứ bước xa dần khỏi vòng tay Hàn, đi về một cõi xa xăm không thể chạm đến. Người con gái mang sắc áo trắng tuyệt đối, trinh nguyên vô ngần, suốt đời Hàn tôn sùng nay lại trở nên mờ nhòa, khó giữ. Tất cả như mờ ảo hơn: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh.

Không gian mông lung, lạnh lẽo, mịt mùng trong sương khói, huyền hồ trong ảo ảnh. Nó choán trùm lên cả ý thức và tiềm thức, thắt buộc lòng người đến tê dại. Nghe câu hỏi khắc khoải cuối cùng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”, ta thảng thốt nhận ra, hóa ra bấy lâu người thi sĩ cũng chỉ mong chờ điều ấy, khao khát điều ấy, đó là tình người, tình đời.

Đời thi sĩ sống đã vốn chẳng được vui, đến cuối đời cũng chỉ mong tìm được mảnh hồn tri ngộ. Hàn Mặc Tử của chúng ta, không “kì dị” như bao người nói. Chàng có trái tim rất người, có những tình cảm rất người, mà có lẽ đến nhiều năm sau này vẫn có không ít người ghi nhận điều ấy.

Bài thơ như một khúc đoản ca về tình yêu và niềm khao khát, hướng về một mảnh vườn, cũng là hướng về một mảnh đời. Đặc sắc của thi phẩm còn được tạo nên ở những nghệ thuật mang phong cách riêng của Hàn Mặc Tử. Với những hình ảnh tượng trưng đầy hàm nghĩa, với nhưng câu hỏi tu từ trải đều trên các khổ thơ mang theo ý niệm riêng, cùng lối viết cách điệu hóa, pha lồng ảo thực, “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng là một thi phẩm có những thi từ đẹp nhất, trong sáng nhất.

“Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ biến mất đi, và còn lại của thời kì này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử”. Lời trân trọng mà người bạn thơ Chế Lan Viên gửi cho Hàn đã nói thay về những gì Hàn để lại cho đời. Mãi mãi là như thế…

6. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay

Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.

Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ” đã ra đời. Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.

Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tâm thức. “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Câu thơ này xuất hiện hai từ “nắng”. Một cái nắng được phát hiện được miêu tả “nhìn nắng hàng cau” và một cái năng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo lên như trẻ con “nắng mới lên”. Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh. Nó thắp nên trên những hàng cau.

Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết phải có một cuộc dạo chơi như vậy.

Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạt vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn vĩ.

“Vườn ai mướt qua xanh như ngọc” Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã “vườn ai mướt quá” lại còn phát hiện ra cái “mướt quá” ấy là “xanh như ngọc”. Tất cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.

Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì “vườn ai” chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lí.

Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên – bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là “mặt chữ điền” là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.

Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, thế giới kì lạ. Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế.

Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình tượng “lá trúc che ngang” càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng vè buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên. “Gió theo lối gió, mây đường mây”.

Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lí mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng giò để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.

Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua cách nói nóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kể phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tường dại khờ.

Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất ngờ con người ấy bỗng dung hiện ra thật nhân từ và độ lượng.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.

Nhân vật “ai” ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy đang cắm thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho nhà thơ tối nay. Đó là sự yêu thương cao cả, là sự thấu hiểu đến tường tận những khao khát của Hàn Mặc Tử.

Thế nhưng chữ “kịp” ở đây lửng lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? Có thể kip và cũng có thể không còn kịp nữa… Tối nay là một khái niệm thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây phúc ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa” Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy “khách đường xa, khách đường xa”. Thế mà, lại có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình. Con người đó càng lúc càng trở nên xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:

“Người đã đi rồi không níu lại

Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi đến dại khờ”.

Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hi vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình.

Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu mình như “khách đường xa”. Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ thấy người ấy quay trở lại với mình, cô gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ “em” thật giản dị, gần gũi biết bao: “Áo em trắng quá nhìn không ra”.

Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự tuyệt vọng. Đáng lẽ “áo em trắng quá” thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao…

Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật “em” trở lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình. Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lí nhân sinh: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:

“Con quay búng sẵn lên trời

Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”

Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được “nhân ảnh” chứ không thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không chủ động được với chính mình, mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu.

Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa “nhân ảnh” của nhân vật “em”… Đó là một nhận thức thật chua chat, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có chỗ nào để bám víu: “Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Hai đại từ “ai” ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh có biết tình em có đậm đà không?

Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy “mờ nhân ảnh”, càng tuyệt vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng.

Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế nào, yêu như thế nào trong cuộc đời tuyệt đẹp ở trần thế đáng sống này.

Ảnh minh họa (Nguồn internet)

7. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – mẫu 1

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Không bán đoàn viên, ước hẹn hò.”

Nhắc đến những dòng thơ này, người đọc chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với hình ảnh “bán trăng” của Hàn Mạc Tử. Một sự nghịch lí, lạ đời vì trăng cũng là chung cũng là của riêng mọi người, hà cớ sao lại “bán”. Thế nhưng, từ hình ảnh này người ta mới thấy tấm lòng thủy chung, son sắt của nhà thơ. Và một lần nữa sự thủy chung ấy lại được tái hiện qua “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm không những là bức tranh thủy mặc về một vùng của cố đô Huế mà nó còn là nỗi lòng gửi tới phương xa của nhà thơ Hàn Mạc Tử.

Mở đầu bài thơ, không phải là lời chào mà là lời trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Giọng điệu mang tính hỏi han, trách móc nhân vật trữ tình sao không về với thôn Vĩ, về với những kỉ niệm. Câu thơ còn nói lên sự tiếc nuối khi nhân vật trữ tình không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp thôn Vĩ.

Sự tiếc nuối của người con gái đã nhắc đến âu cũng có căn cứ vì với một loạt “vẻ đẹp” sau đây thì dù ai bỏ lỡ chuyến về đều phải luyến tiếc.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ba câu thơ này đã bước đầu khắc họa bức tranh quê hương thôn Vĩ với vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết. Ở câu thơ thứ hai tác giả khéo léo dùng biện pháp điệp từ “nắng”. Nếu như “nắng” ở vế đầu chỉ vị trí nó xuất hiện (nắng trên hàng cau) thì “nắng” ở vế sau lại nói về tính chất (nắng mới). Khung cảnh ở thôn Vĩ xuất hiện trước mắt người đọc là vẻ đẹp vườn tược, vẻ đẹp vùng nông thôn ngoại ô thành phố.

Hàng cau chính là hình ảnh điển hình nhất cho vườn tược chốn Thừa Thiên, nhưng tác giả khéo léo hơn khi lồng vào hình ảnh này là một “gia vị” đậm chất Huế. Cái nắng ở đây xuất hiện với tính chất – mới. “Nắng mới” có thể hiểu là nắng buổi sáng, ánh nắng bắt đầu cho ngày mới.

Nhưng ánh nắng này không chỉ bắt đầu cho một ngày mà còn khởi đầu cho một mùa xuân tươi trẻ. “Nắng mới” đi kèm với động từ “lên” tạo cảm giác tươi trẻ, tràn đầy sức sống và thi sĩ chính là người may mắn khi được chiêm ngưỡng khoảnh khắc này. Từ đó cho thấy sức sống căng tràn đang lan tỏa khắp miền quê thôn Vĩ.

Từ ánh nhìn “nắng hàng cau”, tác giả đã chuyển qua quan sát “đối tượng” khác là vườn thôn Vĩ. Có thể thấy từ câu thơ này, góc nhìn của tác giả đã có sự dịch chuyển. “Vườn” hiện lên gần hơn, tầm nhìn của nhà thơ rất gần. Nghệ thuật tu từ “vườn ai” gợi lên sự tò mò, hiếu kì vì không xác định chủ nhân khu vườn này là ai. Nhưng cái người ta quan tâm không phải là danh tính người chủ khu vườn, mà quan trọng mà sự trong xanh của nó.

Tác giả so sánh vườn với ngọc để cho thấy sự trong xanh, tinh khiết của khu vườn vào buổi sáng ban mai. Nhìn vào hình ảnh này người đọc tự nhiên có cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, cơ mắt cũng thực sự được thư giãn. Tuy nhiên, tài năng của Hàn Mạc Tử không đơn thuần chỉ có thế. Tác giả khéo “tặng” chữ “mướt” khi miêu tả màu sắc khu vườn. Từ này tạo cho người đọc cảm giác về sự trơn tru, tròn trịa và thêm phần mịn màng.

Đã thế nó còn đi kèm với thán từ “quá” làm cho vườn tược của thôn Vĩ thêm phần thanh tao. Làm người đọc tò mò muốn được nhìn thấy một lần. Nếu như câu hai, câu ba giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về thiên nhiên xứ Huế thì tới câu thứ tư nhà thơ đã giới thiệu về con người nơi đây.

Hình ảnh “mặt chữ điền” chỉ về khuôn mặt phúc hậu, hiền từ và đây cũng là cách tác giả giới thiệu về tính cách con gái Huế. Ẩn mình sau nét đẹp ấy là chi tiết “lá trúc che ngang” gợi lên sự e ấp, ngại ngùng của cô gái xứ mộng mơ. Như vậy chỉ với khổ thơ đầu người đọc đã có cái nhìn đầu tiên về khung cảnh thôn Vĩ. Mảnh đất ở đây không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tinh túy mà con người cũng rực rỡ muôn phần.

Đến với khổ thơ hai, độc giả tiếp tục chứng kiến những đường nét mà “thi sĩ” vẽ nên. Bức tranh ấy đã mở rộng cả về không gian lẫn thời gian.

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?

Mở đầu khổ hai, Hàn Mạc Tử mở rộng không gian thôn Vĩ bằng hình ảnh từ trên cao. Ở đây tác giả rất tinh tế khi sử dụng biệp pháp điệp cấu trúc câu và điệp từ đồng thời với nhau. “Gió” và “mây” được nhấn mạnh hai lần nhưng không phải cảm giác gắn bó, khăng khít mà là sự chia lìa. Vì gió đi lối riêng, mây lại có đường khác.

Nếu như câu đầu tác giả nói về sự chia lìa nhưng bằng cách gián tiếp thì câu tiếp theo nhà thơ đã nhấn mạnh cảnh vật với tâm trạng sầu thảm bằng động từ “buồn thiu”. “Buồn thiu” là tâm trạng sầu thảm pha chút cô đơn. Và nhân vật mang tâm trạng này là “dòng nước”. Bằng thủ thuật nhân hóa, tác giả đã ví dòng nước thôn Vĩ như một sinh vật có suy nghĩ, có tâm trạng. Cảnh vật chuyển mình mạnh mẽ từ tươi tắn lúc ban mai và lại mang nét hoài cổ vào thời điểm này.

“Hoa bắp lay” có thể là một sự rung rinh khi có đợt gió đi qua làm rõ hơn sự buồn bã, đơn côi. Không gian đang ở trên cao liền được kéo xuống dưới thấp làm cho hình ảnh thêm phần sinh động . Ý đồ của tác giả thực sự xuất sắc khi để cho cái buồn của thiên nhiên hiện ra trước, làm người đọc tò mò, suy nghĩ rồi tác giả mới đưa ra cái trầm tư của con người.

“Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nếu như câu hỏi tu từ ở khổ thơ đầu tiên mang nét trách móc thì ở khổ này lại đượm buồn và có chút xót xa. Xuất hiện hình ảnh ẩn dụ “thuyền”, “bến” cùng với hình ảnh “sông Trăng”. Sông Hương bây giờ đã nhuốm đầy ánh trăng, làm cho cả một vùng sông tràn ngập ánh vàng.

Câu hỏi cuối khổ thơ như thể chính tác giả đang hỏi bản thân. Câu thơ đã bộc lộ nỗi niềm lo lắng khi trong hoàn cảnh này tác giả đang mang trong mình căn bệnh quái ác. Và liệu nhà thơ có đủ thời gian để chờ vầng trăng ấy về kịp. Câu hỏi khiến cho cả khổ thơ chùng xuống hẳn! Thi sĩ buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở dang. Đành là vậy! Như khi đến khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục sống cho mộng ước của mình

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

Lần này tác giả sống trong mộng tưởng của mình. Hình ảnh khách đường xa nhấn mạnh hai lần đã nói lên phần nào nỗi trông ngóng, nhớ thương của tác giả dành cho người thương. Theo một số tư liệu thì lúc làm nhân viên ở Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử có thầm thương trộm nhớ cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở.

Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì gia đình cô Cúc đã về lại Vĩ Dạ (Huế). Trong thời gian nhà thơ bạo bệnh, được sự gợi ý của người bạn, cô Cúc đã gửi cho nhà thơ bức ảnh chụp cảnh cô mặc áo dài trắng cùng với đó là hình ảnh sông, nước, bến, thuyền.

Nhận được bức ảnh ấy, nhà thơ đã rất vui. Cũng chính vì thế mà hình ảnh “áo em trắng quá” có thể bắt nguồn từ tà áo trắng mà cô Hoàng Thị Kim Cúc đã chụp. Tuy nhiên, cái màu trắng ấy lại “nhìn không ra”. Có một số giả thiết cho rằng lúc tác giả mắc bệnh thì con mắt đã kém đi nên nhìn mọi vật có thể không rõ. Vậy nên màu trắng này có phải là sự lạ lẫm hay cái nhìn đã phần giảm xuống?

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

Câu thơ thứ ba của khổ cuối đã miêu tả đúng cái không gian của xứ Huế. Với vùng quê được bao quanh bởi sương và khói, màu trắng ấy đã làm mờ đi mọi thứ kể cả “nhân ảnh”. Con người dường như cũng bị khuất lấp sau màn sương ấy. Cảm giác vừa thực vừa ảo, như thể tác giả đang lạc vào thế giới thần bí mà ở đó mọi vật đều khó hiện rõ nét sau “tấm rèm trắng”.

Và có lẽ ý tứ, tình cảm của tác giả lại được gói ghém ở câu thơ cuối cùng. Tiếp tục là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Nhà thơ hỏi người mà cũng giống như hỏi mình liệu tình cảm ấy còn “đậm đà”, son sắt như ngày xưa. Liệu cố nhân có còn giữ tình cảm xưa cũ. Đọc câu thơ này, độc giả sẽ không biết nhân vật hỏi và được hỏi sẽ là ai. Thế nhưng cái người ta để tâm là tình cảm ấy có trường tồn, và lòng người có còn giữ chút niềm riêng.

Tất cả đều là một ẩn số!Bằng cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật một cách xuất sắc và linh hoạt như biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ… người đọc đã có dịp chứng kiến cây bút tài hoa vẽ nên những đường nét mềm mại của bức tranh chốn Thừa Thiên một cách sinh động và có hồn nhất.Với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” Hàn Mạc Tử đã đưa độc giả đến với không gian xứ Huế mộng mơ mà cụ thể là cảnh thôn Vĩ Dạ.

Với một khung cảnh trữ tình, nên thơ cùng với tình yêu tha thiết, nhớ mong tác giả đã giãi bày tình cảm của mình với người con gái Huế mà tác giả thầm đơn phương. Tình cảm ấy son sắt, thủy chung nhưng lại bồn chồn, lo lắng về “người cũ” có còn giữ nỗi niềm xưa. Tình cảm ấy còn đọng mãi và trở thành một câu hỏi không nguôi trong lòng tác giả và cho cả người đọc.

8. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – mẫu 2

Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một nhận định rất sâu sắc về phong trào thơ Mới như sau: “Đời chúng ta nằm trong vòng một chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.

Nếu như Xuân Diệu luôn đắm say với những cảm xúc thiết tha, rạo rực băn khoăn thì nhà thơ Hàn Mặc Tử lại gắn liền với sự kỳ dị, điên cuồng và trong thế giới kỳ dị điên cuồng đó người ta vẫn tìm thấy một tình yêu đến đau đớn, khắc khoải hướng về cuộc đời trần thế, dẫu nó đã để lại cho ông nhiều bất hạnh, bi ai. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất và hay nhất của phong trào thơ Mới cũng như trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 trong một gia đình công giáo nghèo tại Quảng Bình, nổi tiếng là thần đồng thơ từ những năm 15, 16 tuổi. Phong cách thơ của ông có sự đan xen kết hợp giữa những hình ảnh thân thuộc, trong trẻo, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những thứ rùng rợn, ma quái, cuồng loạn đã tạo nên một diện mạo thơ vô cùng kỳ dị và phức tạp.

Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 in trong tập thơ Điên, sau đổi tên thành Đau thương, bài thơ ra đời trong hoàn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với cô gái gốc Huế là Hoàng Thị Kim Cúc dường như đã trở nên vô vọng khi hai người vừa cách biệt cả địa vị lẫn địa lý.

Trong sự hẫng hụt đến tột cùng ấy Hàn Mặc Tử đã viết rất nhiều thơ về sự kiện này, trong đó khác biệt có bài Đây thôn Vĩ Dạ được viết trong lúc bệnh tình của Hàn Mạc Tử trở nặng nhưng lại nhận được tấm bưu thiếp của người xưa, điều ấy đã khơi gợi lên trong lòng ông sự vui sướng, niềm ham sống vô cùng, tất cả đều được thể hiện một cách trọn vẹn trong bài thơ này.

Không chỉ vậy Đây thôn Vĩ Dạ còn là thông điệp mà Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm cho cả cuộc đời này, là nỗi niềm khát khao, tha thiết với cuộc sống trần thế một cách mãnh liệt của nhà thơ.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Ở khổ thơ đầu của bài thơ phong cảnh thiên nhiên của thôn Vĩ Dạ, một góc của xứ Huế mộng mơ đã được mở ra với dáng vẻ trong sáng thanh khiết dưới cái nắng mai dịu dàng. Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” mang một âm sắc đặc biệt bởi đã số chữ đều mang thanh bằng đã đem đến một cảm giác rất Huế, rất ngọt ngào êm ái tựa như bức rèm mỏng đã mở ra và khơi gợi nên mạch cảm xúc mộng và thơ cho toàn bộ tác phẩm.

Câu hỏi tu từ ấy cũng khiến ta có một mối băn khoăn không dứt về chủ thể “anh”, đó là câu hỏi nhớ mong của một cô gái xứ Huế, mang ý trách móc, hờn dỗi một cách duyên dáng chàng trai sao không chịu tỏ lòng mình, rồi cũng có ý nhắc nhở, mời mọc người bạn cũ về thăm Huế.

Hoặc đó cũng có thể là tiếng lòng của Hàn Mặc Tử, vừa chất vấn, cũng vừa nhắc nhở bản thân sao “không về chơi thôn Vĩ” và trong cái “không về” ấy là cả một dự cảm đớn đau về cuộc đời bất hạnh, trước đó anh đã không về được thì có lẽ sau này cũng không thể về được nữa, Hàn Mặc Tử đã chẳng còn nhiều thời gian, đành lỡ hẹn với Huế và người xưa.

Có thể nhận ra được rằng về Huế có lẽ là nỗi trăn trở, nuối tiếc vô cùng của thi sĩ, đó không chỉ là nơi ông từng gắn bó một thời gian dài mà ở tại nơi ấy còn có người con gái mà ông yêu thương tha thiết, chẳng biết nàng có đợi không, nhưng ông vẫn chỉ hướng về người. Sau câu hỏi tu từ mang đậm nỗi khát khao cháy bỏng được về lại Huế một lần, thì Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ rất đẹp để tái hiện lại cảnh thôn Vĩ Dạ đầy chất thơ và mộng ảo.

Đó là cảnh thôn quê trước buổi bình minh với những nét vẽ tươi tắn và đặc sắc, đó là vẻ đẹp của nắng với hai từ “nắng” lặp lại trong một câu thơ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Có thể nói rằng ngòi bút của Hàn Mặc Tử là một ngòi bút tài hoa trác tuyệt, người sẵn sàng phá vỡ cái quy tắc lặp từ tối kỵ của thi ca để tạo nên một bức tranh với cái nền vàng nhàn nhạt, ánh nắng nhu hòa tràn ngập khắp không gian, khiến vần thơ cũng như được thổi bừng sức sống ấm áp và tươi trẻ.

Và cái nắng ở đây cũng rất riêng ấy là “nắng hàng cau”, phải nói rằng cau là biểu tượng của xứ Huế, loài cây có lợi thế về chiều cao, lúc nào cũng vươn lên thẳng tắp và đón nhận một cách trọn vẹn nắng trời, toàn cây lấp lánh những ánh sáng xanh vàng, khiến hồn người trở nên yêu đời hơn cả.

Rồi “nắng mới lên” lại cũng là những cảm tưởng mới về hình ảnh nắng của thôn Vĩ đó không phải là cái nắng gay gắt đổ lửa giữa trưa hè mà đó là cái nắng trong trẻo, thanh khiết, dịu dàng hoàn toàn tương khớp với “nắng hàng cau”, cũng mang một sức sống mới, tựa như tâm hồn của thi nhân lúc nhận bưu thiếp của người cũ, có lẽ phải nói rằng đó là biểu tượng của sự khởi đầu.

Dưới vẻ đẹp của nắng vàng bao phủ là vẻ đẹp của khu vườn xứ Huế với một màu xanh rất “mướt” đầy sức gợi với màu “xanh như ngọc”. Chỉ một từ “mướt” thôi nhưng đã gợi ra cái sự trù phú, non tươi, mỡ màng tràn đầy sinh khí của khu vườn thôn Vĩ, rồi cũng gợi ra cảnh một khu vườn mới tắm sương đêm đang còn đọng nước, từng giọt sương trong trẻo đang lung linh dưới ánh mặt trời, phản chiếu lại những tia nắng mới khiến cho từng tán lá xanh phát sáng, khơi gợi liên tưởng về một màu xanh ngọc ngà, trong trẻo, tươi mát.

Câu thơ lại thêm một từ “ai” phiếm chỉ khiến cho toàn cảnh bức tranh trở nên có hồn và tình tứ hơn cả, từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp của người thôn Vĩ trong câu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hàn Mặc Tử đã dùng bút pháp “thi trung hữu họa” của văn học trung đại với những nét vẽ vừa thanh của lá trúc lòa xòa làm nổi bật lên cái nét đậm của một khuôn mặt chữ điền duyên dáng, phúc hậu của người con gái. Đó là gương mặt mang những nét đẹp phẩm chất mà người ta vẫn mong cầu ở người con gái, nhân hậu, thủy chung, mang tướng hình có phúc phần về sau.

Hết tả cảnh ngày tươi tắn, trong trẻo, Hàn Mặc Tử lại đưa người đọc về với cảnh đêm của xứ Huế, có nước có mây, có thuyền và đặc biệt là có cả ánh trăng, thi liệu quen thuộc trong thơ của tác giả. Có thể thấy rằng giữa hai khổ thơ có sự chuyển đổi cảm xúc rất rõ rệt từ tình yêu đời, lòng vui sống tựa như nắng mai thì Hàn Mặc Tử lại trở về với cảm giác hoang mang, lo lắng với những cảm giác bất an, buồn rầu tựa như cảnh sông nước mênh mông lạnh lẽo.

“Gió theo lối gió, mây đường mây,

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hai câu thơ đầu tả thực cảnh mây trời, sông nước xứ Huế với lối ngắt nhịp 4/3 tựa như bẻ đôi câu thơ làm hai nửa, tạo cảm giác hụt hẫng khó tả, điệp từ “mây”, “gió” lại mang đến sự đóng khung trong việc tả cảnh. Như vậy dường như mây và gió chẳng hề liên quan gì đến nhau, đường ai nấy đi trong khi từ xưa tới nay mây đi theo gió đã là chuyện kinh thiên định nghĩa, điều này bộc lộ rõ nội tâm và dự cảm không lành của Hàn Mặc Tử trước sự chia ly, cách biệt ghê gớm, đó là sinh tử, chứ chẳng còn là khoảng cách hay tâm hồn nữa.

Từ điệu chảy lững lờ, ngập ngừng “buồn thiu” của dòng sông Hương nổi tiếng đi vào thơ đã trở thành hình ảnh nhân hóa phản chiếu nỗi lòng sầu muộn của thi nhân trước số phận. Mà có lẽ rằng “hoa bắp lay” chính là cuộc đời của tác giả, nhạt nhòa, buồn tẻ và lặng lẽ chán chường.

Hai câu thơ tả cảnh sông nước dường như đã xóa tan đi cái mộng cảnh biêng biếc, tươi trẻ tràn ngập sức sống và hơi ấm tình người trong khổ thơ đầu, là sự bừng tỉnh của tác giả trước cảnh ngộ thê lương của bản thân, trước con đường tăm tối vô hương, vô sắc hiện hiện tại.

Rồi dường như không chịu đựng được cái đau đớn của thực cảnh Hàn Mặc Tử lại tiếp tục chìm vào cõi mộng với ánh trăng vàng, vốn là tri kỷ tri âm suốt đời của tác giả ở chốn cô đơn này. Trăng xuất hiện rất diễm lệ là cả một dòng sông dát ánh trăng vàng, cả một con thuyền chuyên chở trăng, trăng đã đem đến cho tác giả một hiện thân về trần thế tươi đẹp, về cuộc đời mà tác khao khát được chiếm lĩnh hòa nhập.

Câu hỏi “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?” ẩn hiện sự lo lắng của tác giả trước sự hữu hạn của đời mình, lo rằng liệu bản thân còn kịp tận hưởng ánh trăng sáng, hay chính là cuộc đời vốn còn nhiều nuối tiếc.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra…

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Khao khát về cuộc sống trần thế của tác giả càng trở nên nổi bật trong khổ thơ cuối khi đi vào cụ thể ấy là khao khát về hơi ấm tình người, Hàn Mặc Tử muốn thoát khỏi cái cảm giác cô độc, lạnh lẽo muốn tận hưởng cuộc sống bằng tình yêu. Cõi đời đã được chỉ rõ bằng hình bóng của giai nhân, là người trong mộng tưởng của tác giả thế nhưng “Mơ khách đường xa, khách đường xa” ý thơ lặp lại đã diễn tả một cảm giác xa lạ, hình bóng người con gái ấy đang dần khuất ra khỏi tầm với của tác giả, cứ xa mãi mà dần vụt mất đến độ đôi mắt u sầu của người quá thi sĩ cũng phải xót xa “Áo em trắng quá nhìn không ra”.

Có lẽ đời này đã định hai người không chung một điểm cuối, chỉ có thể bất lực nhìn cái cõi trần thế, cái bóng hình giai nhân lần lượt trở nên vô tung vô ảnh, còn thi nhân thì chết lặng trong nỗi sầu muộn cô đơn. Và khi thi nhân không thể hòa nhập vào với thế giới mà mình khao khát ông lại phải quay về với thế giới của mình, một thế giới mờ mịt “mờ nhân ảnh” thiếu vắng đi tình người, bị cách li, phải đối mặt với cái chết cận kề, sắp xa rời đi cái trần thế mà ông vẫn khao khát nắm giữ, đó là nỗi đau đớn không tưởng.

Đặc biệt tâm hồn ấy của nhà thơ còn mãi luẩn quẩn trong một câu hỏi băn khoăn, băn khoăn về tình cảm của người xưa, liệu rằng cô gái ấy có từng một lần có tình cảm với ông, hay cô gái ấy có biết đến mối duyên thầm lặng mà ông chẳng dám ngỏ đã bao năm. Rõ ràng rằng ta có thể cảm nhận được niềm hy vọng mong manh về mối duyên tình đã lỡ dở, bởi vì một tấm bưu thiếp mà lại dấy lên trong lòng thi nhân nhiều cảm xúc, thế nhưng kết lại vẫn là nỗi cô đơn, trống vắng và đau khổ của một con người còn nhiều điều tiếc nuối với thế gian.

Có thể trích đôi lời Hoài Thanh về thơ Điên của Hàn Mặc Tử để nói về Đây thôn Vĩ Dạ, đó là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì nhưng thường là một thứ buồn, dầu có thấm thía vẫn dịu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế.

Lời thơ như dính máu”. Đọc thơ ta yêu cái khát khao được sống được yêu, yêu cái ánh mắt nhìn đời đầy tươi đẹp thế nhưng cũng xót xa cho số phận của người thi sĩ, một cuộc đời đớn đau khiến Hàn Mặc Tử không thể mộng ước lâu được, nên cuối cùng vẫn phải quay về cái chốn cô đơn lạnh lẽo, không người yêu, không hơi ấm tình người, đợi chờ cái chết trong đau khổ và tuyệt vọng.

9. Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ

Nhắc tới Hàn Mặc Tử không thể không nhắc tới bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. “Đậy thôn Vĩ Dạ” đã gắn chặt với thi sĩ họ Hàn như hình với bóng, vì đây là bài thơ vừa thể hiện cái tài, lại vừa thể hiện cái tình; cái tâm của Hàn Mạc Tử chứ đây “chỉ thể hiện tình yêu đối vời một người con gái xứ Huế như bạn nào đó đã nhận xét.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mạc Tử, khi còn làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơ, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mạc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mạc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ

Em lấy chồng rồi, hết ước mơ

Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,

Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.

Hàn Mạc Tử khi lâm bệnh hủi năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc gửi tặng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, có thuyền, có bến có trăng, cùng những hàng cau cao vút kèm theo dòng chữ của Hoàng Cúc để an ủi nhà thơ. Bức bưu thiếp đã đánh thức cảm xúc của thi sĩ, nên có bài thơ tuyệt bút này.

Đây thôn Vĩ Dạ gồm 12 câu thất ngôn, chia làm 3 khổ.

Khổ thứ nhất mớ đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ thoáng như một lời trách móc nhẹ nhàng có pha chút tiếc nuối của ai đó, nhưng đằng sau đó là lời chào mời tha thiết khách đến thăm để được thưởng thức cảnh đẹp của “thôn Vĩ”.

Về thôn Vĩ để được “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhà thơ nói đến cây cau trước tiên vì cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân thẳng tắp, tán lá xanh tươi, gợi sự ngay thẳng thủy chung. Hình ảnh hàng cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, ấy là “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” gợi cho ta ánh nắng ban mai, biểu tượng cho sức sống, niềm vui đang lan tỏa tràn đầy mặt đất. Trong ánh nắng ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lên lấp lánh như đang vươn lên hút lấy những ánh vàng rực rỡ

Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng reo thích thú biểu hiện sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Khung cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được sự chăm sóc bởi bàn tay khéo léo, lại được tắm gội mưa gió thường xuyên, nên mượt mà và dưới ánh nắng ban mai lấp lánh như những viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh của tác giả trong câu thơ vừa chính xác, vừa gợi cảm. Có thể nói, tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.

Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mạc Tử đã phác họa được khung cảnh khu vườn một làng quê xứ Huế vừa quen thuộc, bình dị, vừa thi vị độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế trong cái “nắng mới lên” thật thanh thản. Nhưng cảnh vật Vĩ Dạ bỗng sinh động hẳn lên, khi bóng dáng con người xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền thường gợi về vẻ đẹp phúc hậu. trang trọng, quý phái, còn lá trúc gợi cái dáng vẻ mảnh mai, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa tả thực: thấp thoáng sau khóm trúc có khuôn mặt rất phúc hậu của ai đó hình như đang dõi theo khách đường xa, còn có ý nghĩa tượng trưng, cách điệu hóa.

Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh xinh xắn, thơ mộng, người phúc hậu qúy phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Nhờ thế câu thơ đã làm bật được cái linh hồn vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung biểu hiện.

Tóm lại, bằng những chi tiết rất quen thuộc và bình dị, Hàn Mạc Tử đã khắc họa một bức tranh quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hòa giữa cảnh và người. Đoạn thơ làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương làng mạc Việt Nam.

Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của Huế: Dòng sông Hương và vẻ đẹp êm đềm trầm tư của Vĩ Dạ nói riêng và Huế nói chung.

Về với Vĩ Dạ, về với Huế, với núi Ngự, sông Hương, Hàn Mạc Tử cũng cảm nhận được cái linh hồn, cái nhịp điệu rất Huế ấy. Khung cảnh Huế dưới ngòi bút của Hàn Mạc Tử có sông nước, bờ bài, có gió, có mây và con thuyền ai đó đậu dưới trăng nơi bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, thơ mộng.

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

Hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia li buồn vắng đến não nề. Phải chăng một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia li nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà sầu tủi, phân li? Bởi đang trong tâm trạng buồn như vậy nên nhìn vào đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng đây lại đứt gãy, như là không có sự gặp gỡ. Điệp từ “gió” và “mây” đã thể hiện ra điều dó. Và ngay đến dòng nước vô tri kia cũng trở nên buồn hiu cùng với hoa bắp hiu hắt khẽ “lay”

Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh, mà dường như còn muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp điệu êm đềm, lững lờ, nét trầm tư rất điển hình không nơi nào có được của Huế. Hai câu thơ có cái nhịp khoan thai chậm rãi cũng đã diễn tả rất thành công cái cảm xúc trên.

Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mạc Tử huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực, nửa hư như trong mộng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng và thuyền mới chở trăng. Ở đây Hàn Mặc Tử là con người có con mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật thì sự thật thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy sẽ sang địa hạc huyền diệu. Lời thơ của Tử thanh tao quá! Ngọt lịm cả người” (Bích Khê).

Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên. Trăng cũng tượng trưng cho hạnh phúc thanh bình. Vì vậy, hình ảnh thơ của Hàn Mạc Tử đã khơi dậy trong trái tim người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mĩ và thánh thiện. Nhưng lời thơ lại cất lên như một câu hỏi vô vọng. Hai câu thơ sau của khổ thơ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo âu. phấp phỏng về sự muộn màng. Chỉ một chữ “kịp” câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.

Khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình người tình đời thiết tha mà xa xăm vô vọng của tác giả.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng khác khoải nhớ mong tha thiết vừa diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. Vì vậy, “mơ khách đường xa” tác giả chỉ thấy “áo’’ nhưng “nhìn không ra”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay chính là cô gái thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ khiến cho tác giả có cảm giác bâng khuâng hư thực? Chỉ biết đây là một hình ảnh vừa rất đỗi gần gũi tha thiết vừa xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực, xa vời vì khoảng cách thời gian, không gian và làn khói sương của một mối tình chưa có lời ước hẹn “Áo em trắng quá nhìn không ra” là một câu thơ khá đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh xứ Huế và cũng là màu gợi về sự thanh khiết trắng trong rất phù hợp với cô gái trong mộng tưởng. Cái màu trắng cả không gian, làm nhập nhòa cả thị giác của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra khi lẩn vào sương khói hư ảo của Huế lắm nắng, nhiều mưa và sương khói của mối tình chưa có ước hẹn.

Vì vậy, tình cảm của người con gái thôn Vĩ hôm nào có bền chặt cho chăng? “Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Trong đau thương tột cùng mà nhà thơ vẫn có những phút giây thả hồn trong trẻo để hướng về một miền quê thân thiết và một mối tình đây mộng ảo để tạo nên một “viên ngọc thơ tuyệt vời, chói lọi nghìn năm” Chế Lan Viên.

Bài thơ cố nhiên có một xuất xứ, có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân tích, ta thấy, tác phẩm đã vượt xa ranh giới của những gì cụ thể, đạt tới sự khái quát hóa nghệ thuật cao độ để đến với cuộc đời bao la.

Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử không chỉ là một bài thơ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ một Hàn Mạc Tử về tình yêu day dứt và quá đỗi sâu nặng đối với cuộc đời này.

10. Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ

Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới với sức sáng tạo dồi dào cùng phong cách sáng tác ấn tượng. “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đặc sắc bậc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, bài thơ là bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong trẻo với tâm hồn suy tư, xót xa của cái tôi trữ tình.

Trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã hướng ngòi bút đến khung cảnh thiên nhiên giản dị mà đẹp đẽ, trong trẻo của thôn Vĩ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”

“Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác dựa trên cảm xúc tha thiết khi Hàn Mặc Tử đón nhận món quà của Hoàng Cúc là bức thiệp có in phong cảnh xứ Huế mộng mơ cùng lời mời đầy dịu dàng, tha thiết “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”.

Mở đầu bài thơ là câu hỏi tu từ cùng giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết vừa như trách móc, vừa như hờn giận, vừa như lời mời chân thành của người con gái xứ Huế. Câu hỏi cũng chính là lời tự trách của nhà thơ với bản thân khi không thể về thăm lại vùng đất Vĩ Dạ, nơi nhà thơ từng có những kỉ niệm tốt đẹp. Hoàn cảnh hiện tại không cho phép nhà thơ về thăm Vĩ Dạ nhưng bằng tất cả nỗi nhớ, hồi ức đã có, Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vị Dạ thật sinh động, độc đáo.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Vĩ Dạ là vùng quê nổi tiếng với nghề trồng rau truyền thống, với những hàng cau thẳng tắp xanh mướt. Hình ảnh hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử được gợi tả thật đẹp với màu xanh ngắt của lá cau cùng ánh nắng vàng nhẹ tinh khiết của mặt trời khi buổi bình minh. “Nắng” được điệp lại hai lần vừa gợi ấn tượng về ánh sáng vừa diễn tả được cảm giác náo nức, xôn xao của thi sĩ trước khung cảnh thôn Vĩ. Nhớ về thôn Vĩ, tâm hồn nhà thơ Hàn Mặc Tử cũng sáng bừng những cảm xúc trong trẻo, chân thành.

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Khung cảnh khu vườn xanh ngát, căng tràn sức sống của thôn vĩ hiện lên tươi đẹp đến ngỡ ngàng, để tăng hiệu quả về thẩm mỹ, tác giả Hàn Mặc Tử đã sử dụng cách so sánh đầy ấn tượng “xanh như ngọc”. Sắc xanh trong trẻo của những tán lá dưới ánh mặt trời trở lên thật lung linh, thật đặc biệt. Từ “mướt” được tác giả sử dụng rất khéo không chỉ diễn tả được cái mượt mà, tươi tốt của vườn cây mà còn cho thấy sự khéo léo, chăm chỉ của bàn tay chăm sóc khu vườn ấy.

Trong cảm xúc bất tận, xao xuyến về khung cảnh thôn Vĩ, hình ảnh con người thấp thoáng sau khóm trúc hiện lên thật đặc biệt:

“Lá trúc chen ngang mặt chữ điền”

Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành, phúc hậu mang đến cho người đọc một liên tưởng, phải chăng đây chính là bóng dáng của người con gái Hàn Mặc Tử thương. Dáng vẻ xa xôi, bị cách trở bởi hàng trúc nhưng lại mang đến những xuyến xao da diết cho người nhìn. Đến đây, cảnh và người đã hòa quyện làm một cùng tạo nên bức tranh thơ thật đẹp đẽ, trong trẻo.

Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ lên bức tranh Vĩ Dạ đầy gợi cảm, sinh động cùng tình cảm tha thiết, chan chứa tình yêu thương của chủ thể trữ tình.

11. Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca Việt Nam. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ đã để lại cho người đọc sâu sắc về một hồn thơ thật độc đáo.

Đến với khổ thơ đầu tiên, người đọc sẽ cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên nơi thôn Vĩ tuyệt đẹp:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Bài thơ được bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Câu hỏi gợi cho người đọc hai cách hiểu. Đó có thể là lời hỏi của người thôn Vĩ dành cho tác giả. Vì theo như lời được kể lại thì nguồn cảm hứng để Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ bắt nguồn từ lời thăm hỏi của cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang mắc bệnh hiểm nghèo. Cô đã gửi một tấm bưu thiếp là bức tranh nơi thôn Vĩ cùng với lời nhắn gửi sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Đó cũng có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử đang tự phân thân để hỏi chính mình. Nhà thơ lúc này tuy khao khát, nhớ nhung quê hương nhưng không thể trở về. Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta cũng thấy được nỗi nhớ quê cũng như mong muốn được về thôn Vĩ của nhà thơ.

Những câu thơ tiếp theo đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh đầu tiên hiện ra: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Ánh nắng của buổi bình minh đã bao trùm khắp làng quê. Cách sử dụng điệp ngữ “nhìn nắng” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Thứ ánh sáng của ngày mới đầy tinh khôi, ấm áp mang đến cho con người một luồng sinh khí mới. Tiếp đến câu thơ thứ ba lại là một câu hỏi tu từ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Ai” là đại từ phiếm chỉ, nhà thơ không biết khu vườn kia là của ai. Từ “mướt” gợi cảm giác về một màu xanh của sự sống, lấp lánh khắp khu vườn. Cách so sánh “xanh như ngọc” khiến ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”

(Thơ duyên)

Cuối cùng, nhà thơ khắc họa vẻ đẹp của con người xứ Huế trong câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong không gian thiên nhiên đó, con người chỉ thoáng xuất hiện. Hình ảnh trên lại gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt chữ điền của người thôn Vĩ thấp thoáng sau tán trúc. Khuôn mặt chữ điền gợi ra vẻ hiền lành phúc hậu, phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương? Hay cũng có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền thấp thoáng sau lá trúc. Dù là cách hiểu nào thì Hàn Mặc Tử cũng đều muốn thể hiện vẻ đẹp của con người xứ Huế cũng như tình cảm dành cho con người, cảnh vật nơi đây.

Đối lập với bức tranh thiên nhiên đầy tươi sáng nơi thôn Vĩ, là bức tranh sông nước đêm trăng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Hai câu thơ mở đầu của khổ thơ thứ hai, tuy là tả cảnh nhưng khi đọc lên lại thấy nhuốm màu tâm trạng. Hình ảnh thiên nhiên gợi ra sự chia ly “gió theo lối gió, mây đường mây”. Nếu trong tự nhiên, gió và mây vốn là những sự vật luôn quấn quýt, gắn bó với nhau thì ở đây Hàn Mặc Tử lại để “mây và gió” chia cách đôi ngả. Ta tự hỏi đó là sự chia ly của thiên nhiên hay của chính con người? Và đến cả dòng nước – một sự vật vô tri, vô giác nhưng qua cái nhìn của nhà thơ giờ đây cũng có cảm xúc. Dòng nước “buồn thiu” – biện pháp tu từ nhân hóa khiến con sông giống như một con người, có tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa bắp lay” – bông hoa bắp nhỏ bé trôi theo dòng nước cũng giống như cuộc đời lưu lạc trôi nổi của con người.

Và bức tranh sông nước trong đêm trăng thì sao có thể thiếu mất đi ánh trăng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

“Trăng” đã trở thành một biểu tượng quen thuộc của thi ca. Đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử thì ánh trăng xuất hiện rất nhiều. Trăng có lúc được ẩn dụ, lúc được nhân hóa làm cho nó mang một phong cách độc đáo và khác lạ, kiểu như:

“Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi”

(Bẽn lẽn)

Hay ánh trăng có lúc trở nên thật điên cuồng:

“Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra

(Say trăng)

Còn ở “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là “sông trăng” – gợi ra hình ảnh ánh trăng vàng in bóng xuống mặt nước. Ánh trăng lan tỏa ra khắp dòng sông tạo nên một dòng sông trăng. Kết thúc khổ thơ là câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Từ “kịp” được tác giả sử dụng nhằm thể hiện tâm trạng lo âu. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp trở về vào “tối nay” thì sẽ còn những đêm khác, Còn với Hàn Mặc Tử, thì đêm nào cũng có thể là đêm cuối cùng.

Khổ thơ cuối là dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Giữa không gian mơ hồ giữa “ảo và mộng” của “cảnh và người”. Khung cảnh vận động từ thực đến ảo, từ khu vườn thôn Vĩ Dạ đến sông trăng và cuối cùng chìm vào tâm thức mờ ảo của sương khói. Điệp ngữ “khách đường xa” như một tiếng gọi tha thiết, Hàn Mặc Tử nhớ về quê hương để rồi phải mặc cảm trong sự chia cách. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” là lời nhân vật trữ tình vừa là để hỏi người và vừa để hỏi mình, nửa gần gũi nửa xa xăm, nửa hoài nghi nửa như giận hờn, trách móc. Khi dùng đại từ phiếm chỉ “ai” làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng của một tâm hồn khát khao được sống, được yêu. Câu thơ làm nhòe mờ hình tượng của khách thể và chủ thể trữ tình, tạo nên một nỗi ám ảnh về nỗi đau trong cõi mênh mông vô tận, tâm trạng hụt hẫng và đầy tuyệt vọng của nhà thơ.

Qua phân tích trên, người đọc có thể cảm nhận được một hồn thơ mãnh liệt, luôn khát khao giao cảm với cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” khơi gợi được những cảm xúc trong sáng mà đầy sâu sắc.

12. Phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ

“Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn
Biết che cành trúc không buồn mà say?”

Vẻ đẹp của thôn Vĩ qua những câu thơ ấy của Bích Khê đầy ấn tượng. Vĩ Dạ đẹp, Vĩ Dạ buồn, Vĩ Dạ đắm say lòng người ngoạn cảnh đã cuốn hút biết bao người đắm chìm trong đó để rồi có một người cho ta một bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đặc sắc – Hàn Mặc Tử.

Vĩ Dạ đẹp với những khu vườn xanh tốt, mượt mà dưới ánh bình minh, với những con người dịu hiền, phúc hậu thấp thoáng sau cành tre lá trúc thanh tao. Vĩ Dạ dịu dàng thơ mộng với dòng sông hiền hoà:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Cặp câu thơ đầu bằng biện pháp miêu tả có sức gợi sâu sắc hình ảnh mây gió vần vũ. Câu thơ cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng, thông thường thì gió và mây là những sự vật gắn kết với nhau, luôn đi liền nhau, bởi vậy giờ đây, khi “gió theo lối gió mây đường mây” nghĩa là tất cả đang ở trong thế của sự chia lìa, tan tác. Điều này phù hợp với tâm trạng của tác giả. Nhưng đối với thiên nhiên, khi gió to thì mây vần vũ, lúc bấy giờ, gió mới thổi mây bay đi. Còn ở đây, trong Vĩ Dạ của xứ Huế, tất cả đều mang một vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng. Nơi đây, mây cứ lững lờ bay ở bên trên còn gió thì hiu hiu thổi, gợi lên cái gì đó buồn bã, phù hợp với tâm trạng của chính tác giả.

Mọi sự xuất hiện của cảnh vật đều gợi cảm giác buồn. Cả dòng nước trôi cũng không nằm ngoài âm hưởng chung ấy: “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Dòng nước thâm cái buồn của ngoại cảnh hay ấy chính là cái “buồn thiu” của tâm cảnh đang lan tỏa và bao trùm lên ngoại giới. Bên bờ sóng, những bông hoa kia nhữ cũng thấm nỗi buồn của cảnh vật nên cũng chỉ khẽ khàng lay động. Ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh hoa bắp lay đó ở nhiều câu thơ nhưng dù ở đâu thì nó cũng thật buồn. Là những câu thơ của Huy Thông:

“Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió, người không thấy về”

Hay đó là nỗi buồn trước cảnh hoa lay lan toả trong lòng người đọc:

“Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy, bỏ buồn cho ai”

Dù là nỗi buồn của cảnh chia li, nỗi buồn của nỗi chờ mong mỏi mòn nhưng cảnh bờ sông và những cây bắp, lau bên bờ sông đều mang lại cho người ta cảm giác buồn. Dòng sông và cây hoa bắp lay của Hàn Mặc Tử cũng vậy, đẹp một vẻ đẹp buồn nhẹ nhàng và thơ mộng. Thiên nhiên đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, dường như nó phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ trước sự xa cách, thờ ơ của cuộc đời đối với mình.

Trong khung cảnh sông nước nên thơ, thời gian chuyển biến linh hoạt. Thoắt cái, cảnh vật đã chuyển sang một buổi đêm trăng huyền ảo:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hai câu thơ sau cho thấy tâm hồn nhà thơ có buồn và cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu đối với con người và thiên nhiên xứ Huế. Đây là cảnh thực mà cứ như ảo vì dòng sông không còn là dòng sông của sóng nước nữa mà là dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, hay đấy là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Cũng vì thế, con thuyền vốn có thực trên dòng sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, nó đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một bến nào đó trong mơ. Là thuyền ai? Thuyền của người thôn Vĩ hay con thuyền của chính tác giả? Cũng không rõ nữa, chỉ biết rằng con thuyền ấy chở đầy trăng. Bằng ngòi bút liên tưởng và trí tưởng tượng phong phú, Hàn Mặc Tử đã phác hoạ được nét đẹp nhất của sông Hương là vẻ huyền ảo thơ mộng dưới ánh trăng. Đến câu thơ cuối, con thuyền, dòng sông, ánh trăng trong sự hồi tưởng quá khứ ấy lại gắn với cảm nghĩ của nhà thơ trong hiện tại, bởi nhà thơ mong muốn con thuyền chở trăng về kịp tối nay chứ không phải là một tối nào khác? Con thuyền trở thành con thuyền nhỏ trên mình người du khách đặc biệt, liệu có kịp cập một bến thời gian nào đó tôi nay? Phải chăng cái “tối nay” đó là một tối thật buồn và cô đơn, nhà thơ đang có những tâm sự mà chỉ có trăng mới có thể hiểu được? Điều đó cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, rất yêu xứ Huế, yêu cảnh vật và con người nơi đây nhưng dường như cảnh Huế, người Huế không hiểu được, không đáp lại tình yêu ấy nên nhà thơ tìm đến vầng trăng như một người để trút bầu tâm sự cho vơi đi cảm giác lẻ loi, cô đơn và những mặc cảm bệnh tật.

Cả bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm nghệ thuật để lại cho người đọc nhiều suy tư. Bằng những biện pháp tu từ và cặp mắt quan sát, cảm nhận tinh tế của mình, Hàn Mặc Tử đã tiếp tục vẽ những nét vẽ khắc họa rõ hơn về thôn Vĩ trong khổ thơ thứ hai. Với sông Hương, dòng nước trôi hờ hững, với mây bồng bềnh, con thuyền, ánh trăng và đặc biệt là một tấm lòng yêu thiên nhiên, khát khao, khắc khoải trong khát vọng tình đời, tình người, nhà thơ sẽ khiến cho người ta còn mãi vương vấn về một Vĩ Dạ của xứ Huế mộng mơ, nơi có một cặp mắt đau đáu hướng về.

13. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ 2 khổ đầu

Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử. Bài thơ được lấy cảm hứng từ một tấm thiệp in hình phong cảnh của Hoàng Cúc – người mà Hàn Mặc Tử thầm thương trộm nhớ- tác phẩm được viết vào những năm tháng cuối đời khi nhà thơ đang điều trị căn bệnh hiểm nghèo tại trại Phong Tuy Hòa.

Hai khổ đầu bài thơ là bức tranh về cảnh và con người xứ Huế vừa trong trẻo, thanh bình lại vừa đượm nỗi buồn tâm trạng.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Bài thơ được mở đầu bằng câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Câu hỏi vừa như nhắc nhở, lại vừa như mời mọc, cũng có thể là lời trách móc nhẹ nhàng. Dường như, tác giả đang tự phân thân để hỏi chính lòng mình về một việc đáng ra phải thực hiện bấy lâu nhưng chưa thể thực hiện: Về thăm lại thôn Vĩ Dạ. Những sắc thái đan xen gói gọn trong một câu hỏi tu từ nhẹ nhàng ấy lại cho thấy được nỗi khát khao mãnh liệt được trở về Vĩ Dạ của thi nhân, câu hỏi thốt ra mang cả một nỗi niềm thầm kín không dễ dàng bày tỏ.

Sau câu hỏi thiết tha ấy là những ấn tượng về một thôn Vĩ êm đềm, thanh bình dần hiện về trong ký ức nhà thơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Trong khu vườn xinh đẹp ấy, “nắng hàng cau” tinh khôi, trong trẻo đã thu hút, hấp dẫn sự chú ý của nhà thơ. Những cây cau vươn mình đón những tia nắng đầu tiên mà thiên nhiên ban tặng, khoe vẻ thanh khiết của mình dưới sắc nắng lung linh. Vẻ đẹp của khu vườn đẹp đến nao lòng, nhà thơ chợt thốt lên trong vẻ ngạc nhiên nhưng cũng đầy vui mừng, phấn khởi: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Tính từ “mướt” kết hợp với từ chỉ mức độ “quá” gợi vẻ đẹp mượt mà, láng bóng, tươi tắn, đầy sức sống của cây cối trong vườn. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” gợi lên vẻ đẹp kiều diễm, quý phái của khu vườn, những chiếc lá xanh mướt, mượt mà được “nắng hàng cau” chiếu rọi ánh lên màu xanh ngọc bích tươi đẹp. Cả khu vườn không chỉ được tưới tắm bởi sương đêm, nắng trời mà con nhận được bàn tay chăm sóc đầy khéo léo của con người nên càng thêm đẹp, thêm tươi.

Giữa cảnh vật tươi đẹp là hình ảnh người con gái Huế xuất hiện với nét đẹp duyên dáng mà đầy kín đáo:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Gương mặt chữ điền phúc hậu thấp thoáng sau những chiếc lá trúc mảnh mai gợi vẻ đẹp dịu dàng, phúc hậu. Sự xuất hiện của con người thật kín đáo, tinh tế mà nhẹ nhàng như chính bản tính của con người Huế vậy. Phải yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống đến nhường nào thì tác giả mới lưu giữ trong tâm trí mình những hình ảnh đầy đẹp đẽ và sống động đến như thế.

Đằng sau bức tranh hài hòa giữa cảnh và người ấy có lẽ là một nỗi khắc khoải đến khôn nguôi của một cái “tôi” chất chứa những tâm sự:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Nghệ thuật nhân hóa được tác giả vận dụng đầy khéo léo để diễn tả tả sự vận động và trạng trái của cảnh vật “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Cách ngắt nhịp 4/3 như cắt đôi câu thơ tựa như chia li ngang trái. Hình ảnh gió, mây trong tự nhiên vốn đi đôi với nhau, mây theo chiều gió, gió có thổi thì mây mới bay, gió mây đi cùng nhau gắn bó cùng nhau nào thể tách rời. Vậy gió- mây trong câu thơ xuất hiện với cảnh chia phôi, gió- mây ngược lối, hai đường hai ngả. Với tạo hóa, điều đó thật phi lý, nhưng với một cái tôi đầy mặc cảm chìa lìa của nhân vật trữ tình lúc ấy thì lại là điệu hợp ý.

Nước sông Hương như hiểu tâm tình người thi nhân cũng mang nỗi buồn trĩu nặng tâm can “buồn thiu”. Dòng nước lặng lẽ trôi, hoa bắp lay nhẹ bên bờ, nước chảy hoa trôi- cảnh vật như không, động mà như tĩnh, tất cả dường như đều vương nỗi sầu trong đó. Có lẽ bởi lúc này đây tác giả đã cảm nhận cảnh vật không phải bằng con mắt thông thường nữa mà bằng chính dòng tâm trạng của lòng mình. Đó là nỗi lòng của một người mang nặng mặc cảm về sự ra đi, tạm biệt trần thế khi tâm hồn vẫn còn tha thiết sống.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Không gian đêm trăng trên sông nước mở ra đầy huyền ảo, như thực, như mộng. Trăng hòa mình vào dòng nước xanh tạo nên vẻ lung linh, thơ mộng. Sông trăng đang đưa đò cập bến, bến trăng đang đợi đò dừng chân, liệu đò có chở trăng về kịp với bến đêm nay? Câu hỏi tha thiết, vừa chứa đựng nỗi khắc khoải, đợi chờ lại chất chứa bao lo âu, phấp phỏng. Một từ “kịp” bình dị ấy thôi mà mở ra cho ta biết bao nghĩ suy về chàng thi sĩ trẻ tuổi. Hơn ai hết Hàn Mặc Tử hiểu rõ thực tại ngắn ngủi, cái chết đang cận kề nên phải tranh thủ từng phút, từng giây, chạy đua với thời gian, với cuộc sống. Nếu thuyền còn “kịp” chở trăng về bến thì “ta” còn được tâm sự giãi bày, còn chừng như không “kịp” thì thi sĩ tội nghiệp ấy rơi vào cảnh cô đơn, đau thương vĩnh viễn. Câu thơ cuối bài nghe sao thật xót xa, thương cảm, có lẽ với Hàn Mặc Tử được sống không thôi cũng là hạnh phúc lắm rồi.

Cảnh sắc thiên nhiên và niềm tha thiết với cuộc sống của thi nhân được thể hiện qua hai khổ thơ thật trong sáng, độc đáo và giàu sức biểu cảm. Qua đó, ta thấy được một tâm hồn cuộc đời, tha thiết với cuộc sống mãnh liệt của tác giả, từ đó biết trân quý cuộc sống, trân quý những phút giây của hiện tại đừng để hối tiếc.

14. Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ ngắn gọn

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tuyệt phẩm mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho nhân gian. Đó là những áng thơ bay bổng và ngọt ngào. Trước khi viết bài thơ thì thi sĩ đã mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ thương, đau đáu nhớ về quê hương Vĩ Dạ đó là nơi chứa biết bao nhiêu thời gian đẹp đẽ mà nhà thơ đã gắn bó ở đây.

Xứ Huế chính là quê hương thứ hai của nhà thơ Hàn Mặc Tử khi ông đang còn làm nhân viên sau đó mới chuyển vào Sài Gòn và viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong tác phẩm của nhà thơ có biết bao cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp đẽ. Huế cũng chính là mảnh đất có đặc trưng trồng rất nhiều cây cau ấy vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử có nói đến:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Đó là lời trách mắng dịu dàng và nhẹ nhàng mà khi ai đọc đến cũng có thể đoán được đó chính là lời trách của một cô gái đối với một chàng trai. Nhưng nghe câu nói sao thấy mượt mà nửa dỗi hơn đáng yêu đến vậy! Cô gái trách cứ với chàng trai rằng sao không về chơi thôn vĩ để xem những hàng cau mới mọc lên và được những ánh nắng “rót” vào.

Những cây cau mọc cao và có lá màu xanh mướt nhìn đã rất đẹp nay lại còn được phủ trên mình những ánh nắng màu vàng óng ả nữa! Ôi chao thật đẹp đúng là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp chan hòa ánh sáng. Chưa dừng lại ở đó mà khi đọc đến hai câu thơ tiếp theo ta lại được chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoàn mỹ đến khó tưởng:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Nếu các bạn đã từng đi tham quan ở Huế thì sẽ thấy những mảnh vườn xinh xắn có cỏ và những cây cau mọc bên vườn. Người Huế đơn giản lắm họ chỉ cần sống gần gũi với thiên nhiên mộc mạc mà trữ tình vậy thôi cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thật nên thơ và tuyệt đẹp khi họ không cần những tòa nhà cao tầng chọc trời hay những chiếc xe ô tô to lớn, khi vào đến Huế chúng ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của ngày xưa được hiện diện như thế nào.

Đường phố thì đông đúc người qua lại người đi bộ người đi xe đạp không hề ồn ào cũng không hề hấp tấp. Tác giả miêu tả: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” chính là vẻ đẹp của những cây cỏ xanh mướt được những giọt sương sớm đọng lại. Khoảnh khắc ấy đã tuyệt đẹp nay còn đẹp hơn khi có những tia nắng chiếu vào.

Cảnh vật như hoa lệ và mỹ miều hơn bao giờ hết. Mướt quá chỉ sự vật cỏ cây mọc tốt mà xanh non quá đến nỗi xanh như ngọc. Mà ngọc có màu xanh thể hiện cho màu xanh biếc. Tác giả thật khéo liên tưởng giữa màu xanh của cỏ cây và màu xanh của ngọc. Qua đây ta mới thấy được sự tinh tế cũng như khéo quan sát của nhà thơ Hàn Mặc Tử biết bao.

Người xứ Huế hiện lên vẻ đẹp trung thực và hiền lành biết bao qua câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khuôn mặt hình chữ điền chính là sự thể hiện cho phúc hậu, vuông vắn mà toát lên sự hiền lành và đôn hậu của những con người nơi đây. Đến khổ thơ thứ hai thì tác giả đã đặc biệt khắc họa rõ nét hơn về nhịp sống của những con người nơi xứ Huế chậm rãi mà êm ả:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Dòng nước chảy chậm đến nỗi mà “buồn thiu” hoa bắp lay động cũng rất chậm. Câu thơ khiến ta cũng liên tưởng tới sự xa cách giữa lối gió một hướng , hướng mấy một hướng. Phải chăng đó chính là sự ly biệt, là đường thẳng song song không bao giờ có điểm chung của mối tình giữa chàng trai Hàn Mặc Tử và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc – một cô gái mà ngày xưa nhà thơ đã thầm thương trộm nhớ.

Và khi đọc đến câu thơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?” khiến người đọc có thể liên tưởng được một thuyền nằm trên mặt sông và nơi đó có cả vầng trăng sáng. Thuyền đi đến đâu như thể chở trăng đi theo đến đó. Liệu thuyền có chở trăng kịp về hay không?

Khổ thơ cuối chính là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái xứ Huế mà ông vẫn luôn thương thầm được miêu tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Tác giả mơ đến một giấc mơ ở đó có người khách lạ mà đó chính là cô gái mà tác giả đang yêu. Áo trắng quá khiến nhà thơ không còn nhận ra được cô gái nữa rồi. Màu áo trắng cũng làm chúng ta dễ dàng liên tưởng đến màu áo trắng của tà dài nữ sinh Huế. Câu thơ lặp từ khách đường xa đến 2 lần càng thể hiện sự sâu lắng và xa lạ giữa nhà thơ với nhân vật mà tác giả nhắc đến.

Sương và khói đã làm mờ đi hình ảnh của người con gái khiến cho tác giả cảm giác xa xôi, khó gần. Tác giả tự hỏi bản thân mình: “Ai biết tình ai có đậm đà?” không biết liệu rằng cô nàng đó còn nhớ và còn thương Mặc Tử hay không? Đọc xong câu thơ cảm thấy phảng phất nỗi buồn, đó là tình yêu dạt dào của tác giả đơn phương gửi gắm đến một cô gái mà không được đáp trả lại.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Văn học – Tài liệu của HoaTieu.vn.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử tổng hợp 16 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết và sơ đồ tư duy. Với 16 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ mà Manta.edu.vn giới thiệu sẽ giúp các bạn học sinh lớp 11 tự tin không phải băn khoăn quá nhiều về cách viết bài văn hay, ấn tượng nhất.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ (16 Văn mẫu)

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của một bức tranh xứ Huế cổ kính trầm mặc mà rất trang nhã, quý phái. Nó gợi cái hồn của cố đô, nhưng không thể cho rằng bài thơ chỉ tả cảnh đơn thuần. Thơ đã làm ta yêu đời hơn. Như vậy trên đây là TOP 16 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất , mời các bạn cùng theo dõi sau đây.

Lập dàn ý Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

I. Giới thiệu

Về tác giả và tác phẩm:

Hàn Mặc Tử có lẽ là cái tên không ai có thể quên khi nói đến phong trào thơ mới. Một trong những bài thơ mang dấu ấn sâu sắc nhất của nhà thơ, để lại nhiều cảm hứng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc, đó là bài thơ “Làng này hay lắm”. Đoạn thơ như một bức thư bộc lộ những nỗi niềm thầm kín và khát khao cháy bỏng của nhà thơ

II. Thân bài:

1. Phân tích khổ thơ đầu:

– Đoạn thơ mở đầu và một câu hỏi “sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

– Tôi có cảm giác đây là một lời trách móc tình yêu của một cô gái, trong đó ẩn chứa sự hờn dỗi và nhớ nhung.

– Thực ra không có người con gái nào đối diện trực diện với Hàn Mặc Tử nên có lẽ lời trách móc tình yêu này là từ tranh và chữ, nó lay động, nó sống dậy. Trong lòng nhà thơ, hướng lòng nhà thơ về quê hương xứ Huế thân yêu ngày sau câu thơ thứ hai làm ta ngạc nhiên vì ngay lập tức cảnh thiên nhiên xứ Huế, cảnh thôn Vĩ Dạ được mở ra.

– Rõ ràng câu hỏi được đặt ra, trước mắt nhà thơ là không gian của Đây thôn Vĩ Dạ. Đây chắc chắn là một cuộc hành trình trong tâm trí.

– Mặt trời hiện ra trong sự quan sát của nhà thơ, một mặt trời hiện ra trong sự tinh khiết và tươi mát, nó không phải là cái nắng chói chang của mùa hè cũng không phải là cái nắng dịu dàng của mùa thu mà đó là “nắng vàng”. mới lên” có nghĩa là mặt trời của bình minh

– Đoạn thơ có hai từ nắng làm cho không gian như tràn ngập ánh sáng, không có từ ngữ nào để diễn tả màu sắc nhưng ánh nắng hiện ra trong trẻo và tinh khiết biết bao.

– Điểm nhìn của Hàn Mặc Tử dường như là từ trên cao nhìn xuống từ xa và gần, đôi mắt Hàn Mặc Tử trong cuộc hành trình như xé bầu trời để nhìn bình minh và ánh nắng huyền ảo thắp lên từ núi rừng. những ngọn cau cao vút, để có tầm nhìn bao quát màu xanh bao phủ khu vườn

– “Vườn ai xanh như ngọc” câu thơ là một câu cảm thán thốt lên trước vẻ đẹp của khu vườn

– Tính từ lướt ra hình ảnh so sánh xanh như ngọc cho thấy vẻ đẹp tuyệt vời của vườn thôn Vĩ

– Đoạn thơ không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn gợi cảm giác khi chạm vào những chiếc lá xanh mượt, đó là một trong những đặc điểm của các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng của thơ ca. tiêu biểu cho chủ nghĩa siêu thực Pháp khi cảm nhận sự vật bằng nhiều giác quan.

– Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” là một hình ảnh so sánh độc đáo, màu xanh của màu xanh được so sánh với màu xanh ngọc cho ta cảm giác thật dễ chịu trong lành, vạn vật đều tươi tốt. Tươi sáng và tràn đầy sức sống

– Ở câu thơ thứ tư hình ảnh con người mới xuất hiện “Lá tre che mặt chữ điền”.

– Khổ thơ cuối khổ thơ đầu là một câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của cô gái mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Bởi vì “vườn ai” là vườn của tôi, nên nhìn thấy mặt tôi trong khu vườn đó cũng hợp lý.

– Nhưng cũng có người cho rằng, chính tác giả trong cuộc hành hương của tư tưởng Hàn Mặc Tử đã gặp mình với một khuôn mặt có nét chữ khi còn là một bậc danh nhân tài hoa ở Huế.

– Xem ra, nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong sáng, thanh thoát, say đắm thì phải trở về với con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình trong thời gian ở Huế. Nói đúng ra, nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu.

– Hình ảnh “lá trúc che ngang” mang đến cho mặt chữ ấy nét hiên ngang, phóng khoáng của đấng nam nhi bởi lá tre trong quan niệm xưa là biểu hiện của người quân tử.

2. Phân tích khổ thơ thứ hai:

– Bốn câu thơ thứ hai đượm buồn như vẽ ra trước mắt ta một khung cảnh quê hương xứ Huế chiều tối với những gam màu trầm mặc, mỗi câu thơ gợi lên những hình ảnh lấp đầy bức tranh phong cảnh mà nếu nhìn kỹ, nếu ta nhìn kỹ thì chúng ta sẽ thấy những nghịch lý và những điều phi tự nhiên ẩn chứa trong mỗi sự vật

– “Gió theo lối gió mây đường mây”, câu thơ có lẽ không chỉ là nghịch lý mà còn chứa đựng cả sự trớ trêu, chưa chia lìa đã đành.

– “Nước buồn hoa ngô đồng lay động”, theo lẽ thường gió thổi làm hoa ngô đồng thì sóng nước cũng phải theo đó mà lay động, nhưng nước thì vẫn đứng yên, như một đôi uyên ương trong nước. . Gần nhau mà không thể đồng điệu, trong gần có mùi biệt ly

– Phải chăng đây là nỗi niềm của nhà thơ trước sự xa cách và hoài niệm, đồng thời đây cũng là nỗi niềm mặc cảm của những cố nhân trong cuộc đời. Nỗi buồn chia tay đọng lại trong lòng người một chút gì đó bùi ngùi, bâng khuâng.

– Nếu như ở khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu đẹp đẽ sắp chớm nở thì đến khổ thơ thứ hai ta lại bắt gặp một mối tình đã tan vỡ.

– Có lẽ, qua cách nói, hình ảnh Hàn Mặc Tử đã cay đắng từ chối người mời mình về thăm thôn Vĩ. “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?”

– Hình ảnh trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện nhiều. Vầng trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Khát khao hạnh phúc, hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, người chở trăng.

– Tác giả đã gửi gắm niềm thương nhớ, nhớ nhung, nhớ nhung đến thuyền trăng, đến cả dòng sông trăng.

– Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng tròn của thi nhân trước tình yêu không thể pha loãng.

– Câu hỏi làm nhịp thơ chậm lại, thể hiện sự lo âu trước một số phận không có tương lai.

– Hàn Mặc Tử hiểu ra bệnh tình của mình nên mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của đời người, vầng trăng không về đúng lúc và Hàn Mặc Tử không chờ đợi vầng trăng hạnh phúc ấy nữa, một năm sau anh từ biệt cõi đời.

3. Phân tích khổ thơ thứ ba:

– Nhà thơ buồn cho số phận ngắn ngủi, cho ước mơ còn dang dở nhưng rồi người nghệ sĩ vẫn tiếp tục sống trong khát vọng của mình.

– Hình ảnh “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần đã thể hiện phần nào nỗi nhớ nhung, nhớ nhung của tác giả đối với người mình yêu.

– Màu áo trắng cũng là màu nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào, tác giả choáng ngợp, ngây ngất trước sự hồn nhiên, trong sáng, cao thượng của người yêu.

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh / Ai biết tình ai có đậm đà?”.

– Đoạn thơ tả cảnh thực Huế – kinh thành khói lửa. Trong sương khói ấy hình như con người cũng phai nhạt và có lẽ tình người cũng phai nhạt

– Câu hỏi tu từ cuối cùng bật ra như một tiếng nói thiết tha, chất vấn qua trái tim khao khát yêu đương nhưng gặp quá nhiều khó khăn, trắc trở.

– Hai đại từ “ai” trong câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: Không biết em có hiểu được tình riêng có giàu có hay không? Tôi không biết bản thân anh ấy có biết tình yêu của chính mình mạnh mẽ đến mức nào không? Anh có biết tình yêu của em mạnh mẽ không? Anh có biết tình yêu của em mạnh mẽ không?

– Một câu hỏi trong thơ, nhưng đằng sau nó ẩn chứa biết bao câu hỏi, càng hỏi càng thấy “mờ”, càng thấy tuyệt vọng.

– Tình yêu giàu có với Hàn Mặc Tử càng tha thiết bao nhiêu thì tình yêu càng tan vỡ một cách tuyệt vọng bấy nhiêu. Vì vậy, cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” là cảm hứng đau đớn của một tình yêu tuyệt vọng.

III. Kết thúc:

Mọi tuyệt vọng đều làm ta bi quan, nhưng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử đánh thức trong ta ánh sáng của khát khao mãnh liệt. Chính tình yêu thương đó đã tiếp thêm nghị lực cho nhà thơ trong hoàn cảnh khó khăn trong những giờ phút đau đớn chống chọi với bệnh tật. Cũng chính giá trị nhân văn ấy đã khẳng định tên tuổi Hàn Mặc Tử trên bầu trời thơ ca Việt Nam và giúp thơ ca mãi xanh tươi trong lòng bao thế hệ bạn đọc.

Bật mí:  PNJ SJC 9999 24K 18K 14K 10K mới nhất mới nhất

Sơ đồ tư duy phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ (16 Văn mẫu)

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ học trò giỏi – Văn mẫu 1

Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một trong những cái tên nổi bật với phong cách thơ đặc biệt vừa trẻ trung, lãng mạn vừa buồn đau, tất cả xuất phát từ một cuộc đời có quá nhiều đau thương, cay đắng. của một nghệ sĩ trẻ. Đây Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những sáng tác tiêu biểu, nổi bật nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào thơ Mới. Đoạn thơ mang đậm dấu ấn của tác giả khi hàm chứa những nội dung trong sáng, vô vàn, bộc lộ tình yêu thiên nhiên, tình yêu tha thiết với cuộc sống, đồng thời bộc lộ những ám ảnh, tiếc nuối của tác giả trước số phận nghiệt ngã của chính mình qua những vần thơ lạ lẫm, phức tạp đan xen giữa thực và những cảnh trong mơ.

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng lại có cuộc đời đầy bất hạnh cay đắng, khi còn trẻ ông không may mắc phải căn bệnh phong quái ác, đúng vào lúc sự nghiệp của ông đang ở giai đoạn thăng hoa nhất, đặc biệt là đường tình duyên. Hàn Mặc Tử cũng là một người kém may mắn khi phải chịu nhiều đau đớn, dằn vặt. Trong giai đoạn cuối đời, ông về Quy Nhơn chữa bệnh, bất ngờ nhận được tấm bưu ảnh có hình phong cảnh xứ Huế, trên đó có dòng chữ Kim Cúc, người con gái mà Hàn Mặc đem lòng yêu. Cái chết thường bỏ lỡ. Chỉ thế thôi đã khơi dậy trong trái tim cô đơn của người nghệ sĩ những cảm xúc hân hoan vui sướng, lòng ông trào dâng cảm xúc nhớ Huế, nhớ một Huế đẹp, đồng thời thổ lộ nỗi lòng. khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc đến tột độ qua những câu thơ đầu rất trong sáng, trong trẻo.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi mở rất dễ thương đậm chất Huế “Sao em không về chơi thôn Vĩ?”, có thể là lời than thở vu vơ của một cô gái đang mong chờ người yêu về thăm. Huế mãi mãi. , đến thăm để thỏa nỗi nhớ nhung, sau đó cũng có thể là lời mời thân tình của một người bạn phương xa, muốn tác giả một lần trở lại Huế, thăm lại cố đô yên bình. Để rồi, sâu thẳm trong câu hỏi bỏ ngỏ ấy, ta dường như cũng nhìn thấu nỗi lòng của tác giả, phải chăng Hàn Mặc Tử cũng đang tự hỏi lòng mình tại sao không trở về quê cũ, bày tỏ sự bất lực trước bệnh tật, trước hoàn cảnh của cuộc đời? tai ương của chính mình.

Trong dòng hồi tưởng, thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử hiện lên với hình ảnh đặc trưng, đó là những khu vườn với hàng cau thẳng tắp đón nắng. Hình ảnh “hàng cau tỏa nắng” là hình ảnh đặc sắc, khái quát và ấn tượng. “Tay cau” có nghĩa là nắng sớm, mặt trời đã lên khá cao, ở mức ấm nhất, chưa oi bức như mặt trời. không bật. Giữa khung cảnh ấy, ánh nắng bao trùm không gian, phủ lên những ngọn cau xanh mướt một màu vàng nhạt, mở ra một không gian trong trẻo, tràn đầy sức sống cũng như sự yên bình, tĩnh lặng nơi làng quê. “Vườn ai xanh như ngọc”, điệp từ “vườn ai” đã mang đến cho bức tranh thiên nhiên sự ấm áp của tình người, bên cạnh hơi ấm của nắng sớm, cảnh vật càng trở nên hài hòa hơn khi có sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên .

Những tính từ “mượt mà”, “xanh như ngọc” đều là nét vẽ tài tình, tinh tế của Hàn Mặc Tử khi nhớ về Đây thôn Vĩ Dạ đã khéo léo mở ra bức tranh thiên nhiên dịu dàng. , sinh động, trong trẻo, tinh khiết và tràn đầy sức sống. Chính sự non tươi béo ngậy của lá cây, cái mát lành của những giọt sương mai còn đọng lại sau một đêm dài, nhưng dưới ánh mặt trời ấm áp chúng lại tỏa sáng đẹp đẽ như những viên ngọc quý, khiến người ta không khỏi ngỡ ngàng. Đến câu thơ cuối, phong cách thơ Trung Hoa đã thực sự làm rõ và tô đậm vẻ đẹp của con người xứ Huế trong bức tranh đồng quê “Lá tre che mặt chữ điền” lấy tiểu cảnh, cắt ngang làm cảnh. lá trúc để làm nổi bật gương mặt người phụ nữ đảm đang, nhân hậu, dịu dàng và thông minh, đó cũng có thể là bóng hình mà Hàn Mặc Tử thường nhớ nhung, một con người mang nét đẹp cổ kính. cuốn sách có giá trị và tâm hồn, đại diện cho một vùng đất với những con người thân thương mà tác giả ngày đêm mong chờ.

Nếu như ở khổ thơ đầu, Hàn Mặc Tử nhìn cuộc sống và con người với tinh thần tích cực, lạc quan, tràn đầy hi vọng với bức tranh thiên nhiên tươi sáng, trong trẻo, thì ở khổ thơ tiếp theo, mạch cảm xúc lại được mở rộng. Cảm xúc của tác giả thay đổi nhanh chóng với sự thay đổi giữa ngày và đêm, giữa hai bức tranh thiên nhiên hoàn toàn khác biệt với những gam màu mới.

“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Từ một bức tranh thiên nhiên tươi sáng, với những gam màu ấm áp, mát mẻ, giản dị, Hàn Mặc Tử lập tức chuyển sang cảnh đêm tối với hình ảnh dòng sông thăm thẳm lạnh lùng thể hiện sự trống vắng. Nỗi cô đơn đang len lỏi trong lòng tác giả. Hình ảnh “Gió cuốn theo gió mây cuốn mây đi” là một hình ảnh buồn, lạc lõng, gợi sự chia ly, tan rã không hẹn ngày gặp lại. Rõ ràng gió và mây là hai thực thể luôn gắn bó, gió thổi mây đi, tưởng như dính với nhau như hình với bóng, vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử gió và mây lại tách biệt. , hai nơi dường như không thể tách rời. ít tiếp xúc. Phải chăng đây là một ẩn ý cho mối tình của anh với Kim Cúc, hai người nay như cách biệt nhau, mai là âm dương cách biệt. Rồi cảnh mây gió ấy cũng gợi cho tác giả mối liên hệ với thế giới, dường như lúc này ông cũng bắt đầu cảm thấy mình không còn bao nhiêu thời gian nữa, như thể cuộc đời là dành cho ông vậy. ngày càng xa, cuộc sống trần gian của anh ta có thể không còn bao lâu nữa. Chính những suy nghĩ và thực tại đã giày vò trái tim Hàn Mặc Tử mới vừa được thắp lên niềm hy vọng. Một lá bài khiến anh hạnh phúc, tưởng chừng như anh đã thoát khỏi sự u ám, tăm tối của cuộc đời, nhưng nó vẫn không thể chiến thắng được sự nghiệt ngã của số phận và chính anh buộc phải tỉnh ngộ, trở về. với thực tế đau lòng.

Đến câu thơ tiếp theo “Nước buồn hoa rụng”, đúng với câu “Cảnh buồn bao giờ vui” của Nguyễn Du, trước nỗi buồn của số phận, Hàn Mặc Tử nghĩ về dòng sông Hương hiền hòa, Đã đi qua bao thăng trầm của lịch sử, dường như anh nhìn thấy dòng nước ấy cũng như hiểu được nỗi buồn của mình, buồn lặng lẽ, một nỗi buồn âm thầm không thể bày tỏ cùng ai, lẻ loi, lạc lõng không một bóng người. người chọn bạn. Hình ảnh “hoa ngô đẻ” là một hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt, bông ngô là loài hoa không màu, không hương, thoang thoảng, chóng héo. Dường như đó là hình ảnh của Hàn Mặc Tử về cuối đời, chỉ héo úa mặc cho gió đung đưa mà không thể chống lại số phận khiến người ta xót xa cho cuộc đời nghệ sĩ. số phận, cũng như nỗi đau mà ông phải chịu đựng suốt cuộc đời.

Trong lúc buồn bã, tuyệt vọng và cô đơn nhất, Hàn Mặc Tử lại nhớ đến vầng trăng, người bạn tri kỷ duy nhất có thể tâm sự và thấu hiểu mình. Cảnh bến thuyền, ánh trăng vằng vặc là một trong những hình ảnh thường xuất hiện trong thơ ca cổ điển, tả cảnh dòng sông yên ả, phẳng lặng, có phần cô quạnh. Đến thơ Hàn Mặc Tử, khung cảnh ấy còn độc đáo và sáng tạo hơn với câu hỏi “Thuyền ai cập bến sông trăng kia/ Có chở trăng về kịp đêm nay?”, một câu hỏi đầy tâm tình, trung dung. của một cảnh sông nước. nước mênh mông, ánh trăng trải dài trên mặt nước, có con thuyền nằm lặng lẽ, thật nên thơ và trữ tình biết bao. Lòng Hàn Mặc Tử chẳng mấy bình yên, người vội hỏi thuyền ai neo đậu, kẻ vội hỏi có đưa trăng về kịp, đưa tri kỷ về có kịp. Dường như ta thấy Hàn Mặc Tử vội vàng, lo lắng, đầy hoang mang, sợ rằng mình không còn bao nhiêu thời gian, không còn đợi được ánh trăng rọi vào lòng. Càng đọc, càng hiểu sâu nỗi lòng nhà thơ, càng biết nỗi ưu tư, cô đơn, bất lực của ông, càng thấy xót xa cho một kiếp người đau thương, khi cả tình yêu và cuộc đời đang nằm trước mặt. ngoài tầm với. Tất cả nỗi đau trong bài thơ và nỗi tuyệt vọng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử đều bộc lộ rõ nét tâm hồn khao khát sống, khao khát yêu thương dù trong lòng tác giả đã nhiều lần buông xuôi. , chấp nhận số phận, nhưng chỉ cần một chút niềm tin, trái tim ấy lại rạo rực và hạnh phúc hơn bao giờ hết. Mặc dù mọi thứ giống như một pháo hoa rực rỡ và đẹp đẽ, nó nở rộ và nhanh chóng tàn lụi.

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”

Từ cõi thực, Hàn Mặc Tử tiến vào cõi mộng, thể hiện rõ nét thơ ông phức tạp, khó hiểu nhất trong làng thơ Việt Nam đương đại. “Giấc khách phương xa, khách phương xa”, cũng là một câu thơ mơ hồ, không rõ ràng, “lữ khách phương xa” được lặp lại hai lần, như nhấn mạnh thêm diện mạo của nhân vật này, nhưng lại càng nổi bật hơn. thậm chí còn mơ hồ hơn. Vị khách ấy đến từ trong mơ, không rõ mặt, không rõ mặt, chỉ biết họ ngày càng xa dần, không bao giờ trở lại, ám chỉ sự vô vọng của Hàn Mặc Tử trong tình yêu dành cho Kim Cúc. Huế, cũng như sự tồn tại của anh trên cõi đời ngày càng trở nên mong manh và mờ mịt. Tác giả đã xa nhân gian, dần trở thành khách lạ, đi một chặng đường ngắn chừng 28 năm rồi ra đi không tiếng động, không màu sắc, sự liên tưởng khiến người ta vừa ám ảnh vừa xót xa. cho cuộc đời nhà thơ.

Đến câu thơ tiếp theo “Áo em trắng nhìn không thấy” là hình bóng thấp thoáng của người con gái anh yêu trong tiềm thức, cho thấy khoảng cách ngày càng xa giữa anh và nàng, đó không chỉ là khoảng cách địa lý. lý trí, mà còn là khoảng cách tinh thần, sự ngăn cách không thể thay đổi giữa sinh và tử. Chính những khoảng cách ấy đã khiến Hàn Mặc Tử ngày càng tuyệt vọng, hình bóng người con gái năm xưa ngày càng nhòe đi, anh không nhìn rõ, không thể chạm vào, muốn mà không thể chạm vào. Để giải thích cho sự mờ mịt, mông lung của nhân vật “em”, tác giả viết “Ở đây sương khói”, để giảm bớt khoảng cách, dựa vào nguyên nhân xứ Huế sương mù khiến anh không nhìn rõ mà nhấn mạnh sự mông lung, sự bế tắc, tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử trước cuộc đời, khi chính đôi tay mình không thể vén màn sương tìm bóng hình tình yêu. bị thương, không chống nổi số mệnh không chịu chết.

Nỗi đau đớn, mặc cảm của số phận đã khiến tác giả không thể mở lòng mình để hiểu được nỗi lòng của Kim Cúc, cũng như không thể bứt mình ra khỏi những mộng tưởng dày đặc, trước hoàn cảnh đó ông chỉ có thể thốt lên “Biết đâu tình người giàu sang”. , nó như một lời nhắn gửi cho người con gái xa xứ rằng liệu nàng có còn nhớ đến chàng trai đáng thương này không, đồng thời cũng là một lời trách móc đau đớn khi trái tim chàng đã sợ hãi chàng Kim. Cúc đã không còn hứng thú với phần tình cảm này từ lâu. Cuối cùng, đó vẫn có thể là một thông điệp tình yêu anh muốn gửi một cách thật tế nhị và kín đáo vì anh biết mình không còn sống được bao lâu với cô gái Huế, anh muốn cô biết tình cảm của mình, và cũng muốn cô không để. Biết đâu, sự phức tạp và mâu thuẫn đó là do một tâm hồn mang quá nhiều vết thương, đồng thời đang tiến dần đến những ngày cuối cùng của cuộc đời trần thế, chính vì thế không thể quá tin tưởng, hay gieo rắc hy vọng, yêu thương cho một ai khác. Thà rằng một mình ôm lấy nỗi đau, tình yêu tuyệt vọng ấy trong suốt quãng đời ngắn ngủi còn lại.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu và đặc sắc nhất trong đời thơ Hàn Mặc Tử khi chứa đựng đầy đủ phong cách sáng tác của ông, đồng thời nội dung thơ ấn tượng với nhiều cảm xúc phong phú. thể hiện trong tranh thiên nhiên từ sáng sớm đến chiều tối, từ cảnh thực đến cảnh mộng. Bộc lộ tài năng sáng tạo, cũng như một tâm hồn dù phải chịu nhiều đau thương, bất hạnh nhưng Hàn Mặc Tử vẫn vẹn nguyên niềm yêu đời, khát khao hạnh phúc, yêu thương bình dị. kỳ lạ, mặc dù điều đó đối với nghệ sĩ là quá xa vời.

Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11 – Văn mẫu 2

Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút “tài hoa” nhất của phong trào thơ mới những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, tác phẩm để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc có lẽ là “Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của ông. Bài thơ là một bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong lành, thuần khiết của xứ Huế với bức tranh của một cái tôi yêu đời, khao khát đồng cảm với cuộc đời và con người nhưng đầy lo toan, trăn trở. trở lại.

Câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như một lời quở trách nhẹ nhàng và như một lời mời tha thiết của người con gái Huế. Một lời trách móc nhẹ nhàng, nhưng đằng sau đó là một lời mời đầy ân cần và chân thành: “Sao anh không vào chơi”. Ở đây, tác giả không dùng từ “thăm” mà dùng từ “chơi” đủ thấy sự thân tình, chân chất, giản dị, gợi cảm giác thân thiết, gần gũi. Và hình như, đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ đang tự vấn, tự trách mình sao đã quá lâu không trở về chốn xưa, để người xưa nay chỉ còn lại những nuối tiếc, trăn trở trong cơn bạo bệnh. . Đoạn thơ chất chứa bao niềm khao khát được trở về Vĩ Dạ thân yêu.

Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt người đọc qua từng câu chữ thơ, một bức tranh Vĩ Dạ lung linh, tươi đẹp và tràn đầy sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Cau là loài cây dân dã cũng là linh hồn của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, miếng trầu gắn liền với tình yêu đôi lứa. Trong thơ Hàn Mặc Tử, câu văn gắn liền với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh “hàng cau tỏa nắng” là một hình ảnh đẹp gợi sự tinh khiết, trong trẻo của những tia nắng ban mai. Màu của cây cau là một màu rất mới mà trước Hàn Mặc Tử chưa nhà thơ nào có thể gợi ra được. Những giàn cau được bao phủ bởi nắng mới, nắng hòa với những giọt sương đọng trên lá tạo nên vẻ lung linh, duyên dáng. Thiên nhiên trở nên thanh thản, trong trẻo lạ thường, không gian trở nên cao ráo, rộng rãi. Ánh nắng của những cây cau làm bừng sáng cả một khu vườn thơ mộng và hữu tình.

Xa xa là bóng cây cau, khi lại gần khu vườn càng đẹp và tươi mát hơn. Có cây khen xanh tươi, xanh trong, xanh mượt, xanh mướt:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Câu thơ như sự ngỡ ngàng của tác giả trước vẻ đẹp của tạo hóa được tưới mát bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. Tính từ “mượt” gợi màu xanh, ngọc bích, sắc xuân đầy sức sống của khu vườn. Có thể thấy qua những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà bằng cách sử dụng từ ngữ độc đáo đã gợi lên bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp, sinh động và cao quý.

Cảnh thôn Vĩ càng trở nên hài hòa với dáng người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Cách nói cách điệu thể hiện vẻ đẹp e lệ, kín đáo, dịu dàng và rất Huế của người con gái. Sự xuất hiện của khuôn mặt hiền từ nhân hậu đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ thêm sống động khi có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.

Khổ thơ thứ hai gợi lên cảnh dòng sông êm đềm, mang theo nỗi buồn và niềm mong ước hão huyền:

“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ? “

Không gian có gió, mây, nước, nên thơ, đêm tĩnh mịch gợi nỗi buồn chia li. Cảnh chia ly “gió theo gió, mây đi theo mây” là nỗi mặc cảm của nhà thơ về tình yêu phải xa cách, không thể đi cùng người yêu. Vì lòng người đầy bi ai nên thiên nhiên cũng buồn theo. Dòng sông vẫn chảy nhưng “buồn bã”, gió xao xuyến, những bông ngô đồng trôi vô định trên mặt nước. “Nước buồn hoa ngô nằm” cảnh gợi sự cô đơn, thê lương, sầu muộn. Dòng sông buồn như chính tâm trạng của nhà thơ.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Những vần thơ “Có kịp mang trăng về kịp đêm nay?” chuyển tải một nỗi niềm của nhà thơ, một niềm khao khát tình yêu được cập bến, được ở bên người để tâm sự, giãi bày. Nỗi nhớ mong, nhớ nhung, khao khát mãnh liệt của tâm hồn được cất lên bằng lời thơ bình dị. Có lẽ lúc này tác giả đang lo sợ vì số phận ngắn ngủi của đời mình. Sợ rằng thời gian ngày càng ngắn lại mà lòng người vẫn không khỏi vơi đi nỗi trống trải, cô đơn, buồn tủi. Liệu chiếc thuyền kia có chở vầng trăng hạnh phúc ấy đến với người đàn ông may mắn này?

Hiện thực khắc nghiệt và hiu quạnh khiến tác giả phải đi tìm giấc mơ, nơi anh có thể nhìn thấy người con gái mình yêu, dù chỉ là một chút hạnh phúc trong ảo ảnh:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong giấc mơ đượm màu hy vọng, nhà thơ nhìn thấy từ xa có một vị khách trong tà áo dài trắng tinh, ẩn hiện trong làn sương mờ. Cái bóng dường như mờ đi và biến mất trong tích tắc. Sự thuần khiết, cao quý của cô gái trong ảo mộng khiến nhà thơ không khỏi ái ngại:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong bài thơ, tác giả ngập ngừng, lo sợ về một dự cảm vô định. Một trái tim khao khát yêu và được yêu nhưng không bao giờ có được tình yêu trọn vẹn khiến tác giả nghi ngờ về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Không biết tình người có phong phú như tình người của chúng ta không?

Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi chất chứa những hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ đẹp mà buồn, lòng người cũng buồn mà đẹp, tất cả tạo nên sự hài hòa giữa cảnh và tình.

Đây thôn Vĩ Dạ qua bao thế hệ người đọc vẫn có một sức sống dồi dào. Bài thơ không chỉ là bức tranh Vĩ Dạ êm đềm thơ mộng mà còn là bức tranh đẹp của tấm lòng tha thiết với thiên nhiên và khát vọng được sống, được yêu của Hàn Mặc Tử.

Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 3

Ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:

Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…”

(Bẽn lẽn)

“Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”

(Hãy nhập hồn em)

“Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”.

(Đêm không ngủ)

Nhà thơ còn nói về thuyền trăng, sông trăng, sông trăng… Cả một thế giới hư ảo, diệu kì. Thơ Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng, thể hiện một tâm hồn “say trăng” với tình yêu thiết tha với cuộc đời, vừa thực vừa mộng. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940), ông đã để lại cho nền thơ ca nước nhà hàng trăm bài thơ và một số vở kịch thơ đặc sắc. Thơ ông như chảy ra từ máu và nước mắt, với nhiều hình ảnh kinh dị. Không ai hiểu rõ về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về xứ Huế đẹp và chất thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” như Hàn Mặc Tử.

“Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong “Tuyển tập thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về phong cảnh thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, đặc biệt là những cô gái duyên dáng, đa tình và đáng yêu. Hàn Mặc Tử viết về một tình yêu – tình yêu đơn phương, nồng nàn nên thơ, lung linh trong sáng và huyền ảo. Đoạn thơ thể hiện một nỗi bâng khuâng, một niềm khao khát hạnh phúc của nhà thơ đa tình, có nhiều nhân duyên với cảnh và người Vĩ Dạ.

Câu đầu của khổ thơ đầu thật “ngọt ngào” như một lời mời gọi vừa hân hoan ngày đoàn tụ vừa nhẹ nhàng trách móc người thương về bao nhớ nhung, chờ đợi. Giọng thơ nhẹ nhàng, đằm thắm, trìu mến: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có rất xa. Những cảnh xưa người xưa thấp thoáng trong những vần thơ đẹp với nỗi nhớ da diết. Bao kỉ niệm ùa về trong hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc miệt vườn và con người xứ Huế mộng mơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới. lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Cảnh được nhắc đến là một buổi bình minh tuyệt đẹp ở thôn Vĩ. Nhìn từ xa, nhà thơ đang say sưa ngắm những ngọn cau, những tàu cau lấp lánh dưới nắng mới, “nắng mới” rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh quen thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào, như vẫy gọi.

Quên màu xanh ở đây đi. Nhà thơ đã thốt lên đầy thán phục khi đứng trước một vườn Vĩ Dạ xanh mướt: “Vườn ai xanh như ngọc bích”. Sương đêm ướt đẫm cỏ cây hoa lá. Màu xanh mơn mởn, non mơn mởn, óng ả dưới ánh mai hồng trông thật “mượt” một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu điều hòa, người dân cần mẫn chăm bón mới có màu “xanh ngọc” ấy. Thiên nhiên rực rỡ, trẻ trung và tràn đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã viết: “Đổ trời xanh ngọc bích qua kẽ lá…” (“Thơ tình”). Hai chữ “vườn ai” gợi bao bất ngờ xen lẫn xót xa. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ bên khóm trúc trong vườn xuân: “Lá trúc che mặt phông”. Mặt trái xoan, mặt phấn son, mặt búp sen là vẻ đẹp của một mỹ nhân. Khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt đầy đặn, vuông vức và phúc hậu. “Lá trúc giăng ngang” là nét vẽ truyền thần đã làm nổi bật vẻ đẹp của người con gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, đằm thắm. Hàn Mặc Tử đã hơn một lần nói về tre và những cô gái. Khóm tre như bóng mát xanh che chở cho một tình yêu đẹp đang chớm nở:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”

(Mùa xuân chín)

Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả tre và thiếu nữ với một cách phối màu nhẹ nhàng, thoáng đãng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc… mặt chữ điền). Cảnh và người ở Vĩ Dạ thật hiền hòa, thân thiện và dễ mến.

Vĩ Dạ là một ngôi làng nằm bên bờ Hương Giang, ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với con đò thơ mộng, vườn cây xanh tươi bốn mùa, hoa trái xum xuê. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng sau những hàng cau, rặng tre, nơi thường cất lên câu hát “Nam Ai, Nam Bình” qua tiếng đàn tranh, tiếng đàn tam thập lục huyền ảo, du dương. Đây thôn Vĩ Dạ đẹp và thơ mộng. Hàn Mặc Tử đã tặng Vĩ Dạ bài thơ đẹp nhất bằng tất cả tình cảm yêu thương của mình. Đã bao năm rồi Huế và Vĩ Dạ xa cách. Tuy nhiên, cảnh vật và con người thôn Vĩ vẫn được nhà thơ bao dung, càng trở nên lung linh huyền ảo, thể hiện niềm mong mỏi tha thiết được trở về cố đô thăm lại cảnh xưa. Bức tranh tâm trạng đã khéo léo thể hiện bức tranh thơ mộng, hữu tình của thôn Vĩ.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Câu 5, 6 là những hình ảnh miêu tả gió, mây, sông và hoa (hoa ngô đồng). Giọng thơ nhẹ nhàng, hơi buồn. Nghệ thuật tương phản tạo nên một khung cảnh hài hòa, cân đối và sinh động. Gió và mây lùi xa như tình yêu của nhà thơ, tưởng gần mà xa, xa lắm. Dòng sông Hương êm đềm trôi lặng lẽ, trong tâm tưởng nhà thơ trở nên “buồn bã” và đượm buồn. Những bông hoa ngô đung đưa, nhẹ nhàng đung đưa trong gió nhẹ. Nhịp điệu nhẹ nhàng, thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được miêu tả thật tinh tế! Những ám chỉ lôi cuốn gợi lên bao câu hỏi mơ mộng. Ngoại cảnh bao la ngăn cách như trái tim, như tâm tư nhà thơ;

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

Hai câu tiếp theo, nhà thơ tự hỏi “ai” hay tự hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ lại hình ảnh con thuyền mơ màng trên sông trăng. Dòng sông Hương quê tôi trở thành “sông trăng”. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã làm nên bài thơ hay về sông Hương với những con thuyền dưới trăng. Nguyễn Công Trứ từng viết: “Gió trăng chứa đầy thuyền”. Hàn Mặc Tử cũng đóng góp cho thơ ca Việt Nam hiện đại một câu thơ thất ngôn độc đáo:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn dòng sông trăng và con thuyền. Thuyền tôi hay “thuyền ai” vừa quen, vừa xa lạ. Chất thơ kỳ ảo trong “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là ở những chất liệu thơ ấy. Câu thơ gợi một hồn thơ xao xuyến trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, thể hiện một tình yêu thầm kín, nhẹ nhàng, thơ mộng và có chút buồn man mác. Ở đây, bức tranh tâm trạng tràn ngập ánh trăng, thấm đẫm một nỗi buồn cô đơn của khách đa tình.

Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm trạng của nhà thơ. Sinh thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về những cô gái sông Hương: “Những cô gái sông nước”

Hương – Da thơm là phấn, má hồng là son…”. Vĩ Dạ mưa nhiều, sáng chiều sương mù mịt. Khói lam mờ áo trắng em nhận không ra dáng người (người) hình ảnh) khi ngắm nhìn. Câu thơ chập chờn, thanh khiết, kín đáo và duyên dáng Gần mà xa mà thực. Mà thực mà mơ. Câu thơ rung động buồn ta biết Hàn Mặc Tử đã từng có một người đẹp mối tình ngang trái với một cô gái trẻ Huế mang tên một loài hoa đẹp, phải chăng nhà thơ đang nói về mối tình này?

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” Những ám chỉ, luyến láy ấy tạo nên một giai điệu sâu lắng, êm dịu, mênh mang. Khoảng cách và nỗi buồn chia ly dường như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc càng thêm thương cảm cho nhà thơ tài hoa, đa tình nhưng kém may mắn, từng say đắm mối tình đơn phương mà suốt đời phải sống trong cô đơn, bệnh tật.

Cũng cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả bốn lần từ “ai” xuất hiện đều mơ hồ và đầy ám ảnh: “Vườn ai sao xanh như ngọc?” – “Thuyền ai cập bến trên sông trăng kia?” – “Ai biết tình ai có giàu không?” Người mà nhà thơ nói đến là một người đã đi xa, trong nỗi nhớ nhung, tuyệt vọng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình lạc lõng, lạc lõng trước một tình yêu đơn côi. niềm hy vọng mong manh mà tha thiết như có phai mờ sương khói ?.

Hàn Mặc Tử đã để lại cho chúng ta một bài thơ tình hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, nồng nàn và buồn bã, ngỡ ngàng và dửng dưng… biết bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, thất ngôn tứ tuyệt. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ tình tuyệt tác. Màu xanh ngọc bích vườn ai, con đò cập bến sông trăng, màu trắng áo em như dẫn hồn anh về thôn Vĩ Dạ khói lửa một thời đã xa, tìm bóng giai nhân, để nhớ nhà. Có tài thơ, đa tình nhưng bạc mệnh. Bức tranh tâm trạng trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đọng lại mãi trong lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng tôi.

“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô”.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 4

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hoài cổ. Theo những tư liệu về Hàn Mặc Tử, khi còn làm việc ở Nha điền bạ Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái của chủ điền trang Quy Nhơn, người làng Vĩ, Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mặc Tử dồn hết vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã tính chuyện lấy chồng.

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi, hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,
Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.

Hàn Mặc Tử bị bệnh phong năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc, trong đó có ảnh phong cảnh xứ Huế, có sông, có thuyền, có bến có trăng và nhiều cảnh đẹp khác. hàng cau cao kèm theo lời Hoàng Cúc an ủi nhà thơ. Tấm bưu ảnh đã đánh thức cảm xúc của nhà thơ nên mới có bài thơ tuyệt vời này.

Khổ thơ đầu tiên mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ như một lời trách móc nhẹ nhàng pha chút tiếc nuối nhưng đằng sau đó là lời mời gọi tha thiết du khách hãy đến thưởng ngoạn cảnh đẹp “thôn Vĩ”.

Về thôn Vĩ để “ngắm mặt trời mới mọc”. Nhà thơ nhắc đến cây cau trước tiên bởi cây cau là một loài cây thanh cao, dáng đẹp, thân thẳng, tán lá xanh mướt, gợi lên lòng trung nghĩa, ngay thẳng. Hình ảnh cây cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, đó là “Nắng lên, nắng mới lên”. Từ “nắng” gợi cho ta hình ảnh ánh nắng ban mai, biểu tượng của sức sống và niềm vui lan tỏa khắp trái đất. Trong ánh ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lấp lánh như vươn mình lên để hấp thụ ánh vàng rực rỡ.

Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba như một tiếng kêu thích thú thể hiện sự ngạc nhiên và khâm phục. Cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái, được bàn tay khéo léo chăm sóc, được tắm mưa gió thường xuyên nên bóng mượt, lấp lánh như viên ngọc bích dưới nắng mai. Hình ảnh so sánh của tác giả trong đoạn thơ vừa chính xác vừa gợi cảm. Có thể nói, cách tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài ba.

Chỉ bằng vài nét chấm phá, Hàn Mặc Tử đã phác họa được khung cảnh sân vườn của một làng quê xứ Huế vừa thân thuộc, vừa bình dị, vừa thơ mộng độc đáo. Ngắm nhìn khu vườn xứ Huế trong “nắng mới” thật thanh thản. Nhưng khung cảnh Vĩ Dạ bồng bềnh sống dậy, khi xuất hiện bóng người: “Lá tre che mặt phông”. Mặt chữ điền thường gợi vẻ đẹp nhân hậu. trang trọng, quý phái, trong khi lá trúc gợi dáng người mảnh khảnh, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa hiện thực: thấp thoáng sau rặng tre có khuôn mặt rất hiền của ai đó hình như đang dõi theo khách từ xa, còn mang ý nghĩa tượng trưng, cách điệu.

Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh đẹp nên thơ, người cao thượng, nhân hậu. Tất cả tạo nên vẻ đẹp kín đáo, nhẹ nhàng. Nhờ vậy mà câu thơ đã làm nổi lên cái hồn của miệt vườn xứ Huế mà khổ thơ tập trung thể hiện.

Tóm lại, bằng những chi tiết hết sức thân thuộc, bình dị, Hàn Mặc Tử đã khắc họa nên một bức tranh thôn quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, sự hài hòa giữa cảnh và người. Bài thơ khơi dậy trong tâm hồn người đọc bao tình cảm đối với quê hương, làng quê Việt Nam.

Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của xứ Huế: sông Hương và vẻ đẹp trầm mặc, trầm mặc của Vĩ Dạ nói riêng và xứ Huế nói chung.

Về với Vĩ Dạ, về Huế, về núi Ngự, sông Hương, Hàn Mặc Tử cũng cảm nhận được tâm hồn, nhịp điệu rất Huế. Khung cảnh xứ Huế dưới ngòi bút Hàn Mặc Tử có sông, có bờ thiếp, có gió, có mây, có thuyền ai đậu dưới trăng bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh yên bình, thơ mộng.

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Hai dòng tả cảnh nhưng thấm đượm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia ly, buồn man mác. Phải chăng tình yêu đơn phương, không phút gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia tay, nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà buồn chia ly? Vì tôi đang trong tâm trạng buồn nên nhìn đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng nay lại đứt đoạn, như không gặp gỡ. Các từ “gió”, “mây” đã thể hiện điều đó. Và cả dòng nước vô tri vô giác cũng trở nên buồn bã cùng với những bông ngô đồng khẽ “rung rinh”. Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh mà dường như còn muốn tả nhịp điệu của cảnh. Đó là nhịp điệu uyển chuyển, bình dị, một nét trầm tư rất đặc trưng mà không nơi nào khác ở Huế có được. Hai câu thơ với nhịp điệu chậm rãi cũng đã thể hiện thành công cảm xúc trên.

Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử huyền ảo, lấp đầy vũ trụ, tạo nên một bầu không khí nửa thực nửa hư:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”

Chỉ trong mơ sông mới là sông trăng và thuyền chở trăng. Ở đây, Hàn Mặc Tử là một người có đôi mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật, sự thật biến thành một giấc mơ, nhìn vào giấc mơ, nó sẽ biến thành một con hạc huyền diệu. Thơ anh Tư tao nhã quá! Ngọt ngào cả người” (Bích Khê).

Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp của cuộc sống và thiên nhiên. Mặt trăng còn tượng trưng cho hạnh phúc bình yên. Chính vì vậy, hình ảnh thơ Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong lòng người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mỹ, thánh thiện. Lời thơ dậy lên như một câu hỏi vô vọng. Hai dòng khổ thơ sau thể hiện niềm khao khát được gặp mặt đồng thời cũng thể hiện sự xao xuyến. mô phỏng sự chậm trễ. Chỉ một từ “đúng giờ” câu thơ cuối đã nói lên tất cả.

Đến khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình yêu cuộc đời nồng nàn nhưng vô vọng của tác giả.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”

Cụm từ “lữ khách phương xa” vừa diễn tả nỗi nhớ nhung da diết, vừa diễn tả sự xa cách của một mối tình đơn phương vô vọng. Vì thế, “mộng khách đường xa” tác giả chỉ thấy “chiếc áo” mà “chẳng thấy đâu”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay cô thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ, khiến tác giả có một cảm giác bâng khuâng thực sự? Chỉ biết rằng đây là hình ảnh vừa rất gần gũi, vừa tha thiết, vừa xa xăm. Gần vì đã trở thành nỗi nhớ thường trực, xa vì khoảng cách thời gian, không gian và khói lửa của một tình yêu không hẹn ước “Áo em trắng quá nhìn không thấy” là một câu thơ khá hay. đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh Huế và cũng là màu gợi nên sự trong trắng tinh khôi rất phù hợp với cô gái trong mộng. Màu trắng bao trùm cả không gian, làm mờ đi tầm nhìn của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra hơn khi ẩn mình trong sương khói hư ảo của xứ Huế nắng mưa khói sương của một mối tình đơn phương. Vậy tình cảm của cô gái thôn Vĩ bao giờ mới bền chặt? “Có ai biết chữ đậm không?”.

Trong nỗi đau tột cùng, nhà thơ vẫn có những phút giây tâm hồn trong sáng để hướng về một miền quê thân thiết và một tình yêu mộng mơ để tạo nên một “viên ngọc thơ ngàn năm tuyệt vời, rực rỡ” Chế Lan Viên.

Tất nhiên, bài thơ có nguồn gốc và cảm hứng cụ thể, nhưng qua phân tích, ta thấy tác phẩm đã vượt ra khỏi ranh giới của cái cụ thể, đạt đến tầm khái quát nghệ thuật cao hướng tới cuộc sống rộng lớn.

Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là bài thơ bày tỏ tình yêu với một cô gái Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là một lời tỏ tình nồng nàn, một lời trăng trối. Mối tình cuối của nhà thơ Hàn Mặc Tử nói về tình yêu dày vò và quá sâu đậm với cuộc đời này.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 5

Hàn Mặc Tử là nhà thơ tài hoa của nền văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại nhắc đến một nghệ sĩ tài hoa và kém may mắn. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” ta cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.

Bài thơ viết về xứ Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là tiếng lòng thiết tha với quê hương nhưng cũng đầy u uất, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những vần thơ chan chứa tình Huế:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ, như một lời trách móc nhẹ nhàng, không chút giận hờn của một cô gái Huế đối với chàng trai mà mình thầm thương trộm nhớ. Câu thơ còn chứa đựng sự mong chờ, lời trách móc nhẹ nhàng sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ. Cũng là một lời mời gọi “ngọt ngào”, thôn Vĩ hiện ra, vẻ đẹp không hùng vĩ như cảnh “đèo Nàng” hay mang nét bí ẩn không nơi nào có, dưới ngòi bút của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất xứ Huế.

Vẻ đẹp được miêu tả từ “ánh nắng mới” trong ánh nắng ban mai, thứ ánh sáng dịu dàng, tinh khiết buổi sớm chiếu xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón những tia nắng đầu tiên. Vạn vật như được bao phủ bởi ánh sáng, một thứ ánh sáng thuần khiết, dưới ánh sáng ấy vạn vật như bừng lên sức sống căng tràn.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Một khu vườn hiện ra trước mắt, chỉ cần nhắm mắt lại ta cũng cảm nhận được màu xanh mượt mà, óng ả dưới ánh ban mai. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để gợi tả sức sống tươi mới, nhựa sống của cây cối đâm chồi nảy lộc.

Giữa khung cảnh thiên nhiên trữ tình ấy, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đó “Lá tre che mặt chữ điền”. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái xoan… hiếm ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ khuôn mặt hiền lành, đôn hậu.

Con người chập chờn, ẩn hiện sau những “Lá trúc” mơ màng, hư ảo. Phải chăng đây là người về thăm thôn Vĩ, người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng. Thôn Vĩ nằm bên dòng sông Hương êm đềm, xinh đẹp với những vườn cây xanh mướt, nằm bên bờ sông Hương vẻ đẹp hiện lên trong nỗi buồn:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chất chứa nỗi lòng của nhà thơ. Người ta thường nói “gió cuốn mây bay”, gió và mây đi cùng một hướng. Vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử “gió theo gió, mây theo mây”. Có sự chia ly đến tận tim. Nước sông Hương cũng đượm buồn man mác “hoa ngô” hai bên bờ. Cảnh vật như có sự ngăn cách, rung chuyển.

Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mình yêu, sự tiếc nuối khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và trăng” thường xuất hiện trong bài thơ “thuyền trăng gió trăng không đầy” – Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh trữ tình ấy để nói lên cảm xúc của mình “Thuyền ai đậu bến sông trăng ấy”.

Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của nhà thơ không còn mang hình ảnh đơn thuần mà trở thành “dòng sông trăng” khiến cho cả dòng sông và cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Ai ngờ “dòng suối buồn” vì “bông ngô đồng” bay trong nắng chiều lại có thể trở thành “dòng sông trăng” thơ mộng đến thế.

“Thuyền ai” là thuyền của ai xa lạ, hay là thuyền chở người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen vừa xa lạ. Câu hỏi tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có kịp đưa trăng về kịp đêm nay”. Câu hỏi mà không có câu trả lời, phải chăng là sự tiếc nuối, hay sự thất bại trong tình yêu, “đúng hẹn” làm cho câu thơ trở nên gấp gáp hơn, gấp gáp hơn, dường như đang cố chạy đua cho kịp với mong đợi, hay với tình yêu mà nhà thơ. trân trọng?

Nhưng tất cả những ưu tư, ký ức ấy chỉ còn trong tiềm thức, dễ dàng tan biến như ánh trăng dưới sông Hương. Thực tế chỉ là một giấc mơ tàn nhẫn:

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Nhà thơ đã sử dụng phép điệp ngữ “khách phương xa… khách phương xa” làm cho giọng thơ sâu lắng, luyến tiếc trong nhớ nhung, bùi ngùi trong hiện tại. Mọi thứ dường như mờ đi bởi màu áo trắng, màu trong sáng tinh khôi ấy hiện ra dưới ánh nắng nhẹ, màu tượng trưng cho màu áo đồng phục của nữ sinh Huế.

Và ở bài thơ này nó cũng mang màu sắc hoài niệm của chính tác giả. Dưới làn sương sớm, hình ảnh “khói sương” trắng xóa như mờ đi, như ẩn, như hiện, trở nên xa xăm, khó nắm bắt. Giữa khoảng trống ấy, câu thơ cuối như một nỗi thất vọng của chính tác giả “Biết tình ai có giàu không?”.

Nỗi thất vọng về một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời bài hát phảng phất nét u sầu. Bài thơ kết thúc trong nỗi buồn. Nhà thơ không nói với ai, mà chỉ nói với chính lòng mình, băn khoăn không biết cảm xúc kia là “đậm đà” hay chỉ là hư ảo như tà áo trắng trong sương sớm.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kết hợp tuyệt đối giữa cảnh và tình. Qua đó, ta càng khâm phục ý chí sống của chính tác giả, và tài năng của một người nghệ sĩ giàu lòng yêu nước.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 6

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã viết bằng rất nhiều tâm huyết. Đoạn thơ thể hiện tình yêu và nỗi nhớ quê hương xứ Huế mà tác giả đã từng công tác tại đây.

Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) quê ở Bình Định nhưng có một thời gian học ở Huế và làm việc tại đây. Với anh, Huế là quê hương thứ hai và cũng là nơi để lại cho anh nhiều dấu ấn, kỷ niệm nhất. Qua việc phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp ta hình dung được cảnh vật cũng như con người xứ Huế nơi đây.

Mở đầu bài thơ là những lời ngọt ngào mà tha thiết của cô gái dành cho chàng trai: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Thôn Vĩ là một ngôi làng xinh đẹp nằm bên dòng sông Huế thơ mộng. Thôn Vĩ hay còn gọi là Đây thôn Vĩ Dạ mà tác giả nhắc đến là một làng quê yên bình và xinh đẹp.

Đây cũng là nơi tác giả đã làm việc và học tập tại đây. Phải chăng đó là những lời thủ thỉ nhắc nhở của cô gái với chàng trai rằng hãy về Đây chơi thôn Vĩ Dạ vì nơi đây có rất nhiều cảnh đẹp và bí ẩn mà lâu rồi chàng trai chưa được đến thăm. Khung cảnh nơi đây đẹp đến lạ lùng khi tác giả đã miêu tả rõ nét từng hình ảnh bình dị nhất:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ở đây, cảnh vật có hai màu chủ đạo là xanh và nắng vàng. Cảnh quan nơi đây có những hàng cau cao vút, xanh mướt một màu. Hình ảnh cây cau mọc thành hàng, vào mùa ra hoa thật đẹp. Hoa cau vừa đẹp lại vừa thơm, đó là lý do cây cau không thể thiếu ở Huế. Nếu đã từng đến Huế, bạn sẽ có dịp chiêm ngưỡng những vườn cau đẹp mê hồn của người dân nơi đây.

Ở Huế, bạn cũng sẽ thấy những sân cỏ rộng rãi với những cây cau bên trong. Một không gian tràn ngập sắc xanh và điểm tô bởi ánh nắng vàng khiến không gian trở nên thơ mộng, trữ tình. Vườn nhà đã được tác giả nói: “thật mát” một từ cho thấy sự tươi tốt, màu mỡ của cảnh vật nơi đây. Những giọt sương long lanh còn đọng trên cây cỏ rồi ánh nắng nhẹ nhàng chiếu vào tạo nên những viên ngọc trai được tác giả miêu tả: “xanh như ngọc”.

Biện pháp so sánh được sử dụng ở đây khiến người đọc liên tưởng hoặc tưởng tượng ra một bức tranh nhiều màu sắc mà tác giả đã vẽ nên. Nhưng đến khổ thơ thứ hai, giọng thơ trở nên trầm lắng, thoáng chút buồn:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?’’

Hai thứ gió và mây khi nhắc đến bao giờ cũng gợi cho ta sự yêu thương. Mây và gió luôn không thể tách rời, tượng trưng cho tình cảm lứa đôi gắn bó, thân thiết. Nhưng ở đây, tác giả lại cho thấy điều ngược lại đó là sự ngăn cách, xa cách giữa gió và mây, mỗi người đi về một hướng. Phải chăng đây là lời nhắn nhủ của nhà thơ với người con gái Hoàng Kim Cúc? Họ xa nhau một thời gian dài khi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn viết báo và cô Cúc phụ giúp công việc cho cha.

Câu thơ thứ hai trong khổ thơ chính miêu tả cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày của người dân xứ Huế chậm rãi, yên bình như tả dòng nước chảy chầm chậm, chầm chậm. Những bông hoa ngô đung đưa nhẹ nhàng khi gió thổi.

Câu thơ tiếp theo là một phép gợi nhớ khiến người đọc liên tưởng nhiều nhất đến cảnh có trăng và thuyền. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và soi bóng cả một dòng sông khi ánh trăng soi bóng một con thuyền. Đêm nay thuyền chở trăng về kịp hay lỡ làng? Đây là cách nói ẩn ý của tác giả rằng chuyện tình của mình sẽ còn có thể quay lại và yêu thêm lần nữa hay hai người sẽ lạc mất nhau mãi mãi?

Khổ thơ cuối là lời thốt ra từ đáy lòng của tác giả và cũng là những suy ngẫm của tác giả về người con gái ấy:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Câu đầu trong khổ thơ cuối gây ấn tượng cho người đọc bởi sự lặp lại từ ngữ hai lần khách đường xa càng gợi thêm khoảng cách. Áo cô gái trắng đến nỗi tác giả không nhận ra nữa vì cô gái quá đẹp khiến tác giả không thể nhận ra người con gái mình đem lòng yêu. Sương khói dày đặc làm mờ hình ảnh của một người và tác giả tự hỏi liệu cô ấy có còn yêu và có tình cảm mãnh liệt với mình không? Câu thơ cuối là tiếng lòng của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.

Qua phần phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, ta sẽ biết đây là bài thơ hay nhất mà Hàn Mặc Tử viết trước khi qua đời vì bệnh phong. Qua bài thơ ta có thể hình dung được vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như con người ở mảnh đất Huế xinh đẹp, nơi từng là cố đô của nước ta. Đoạn thơ cũng khắc họa tình yêu chân thành mà nhà thơ dành cho người con gái Huế thật đậm đà và ngọt ngào!

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 7

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những kiệt tác mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho thế gian. Đây là những bài thơ ngọt ngào và mát mẻ. Trước khi viết bài thơ, nhà thơ mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ da diết, đau đáu với quê hương Vĩ Dạ, nơi đã trải qua biết bao thời gian tươi đẹp ở đây.

Huế là quê hương thứ hai của nhà thơ Hàn Mặc Tử khi ông còn là nhân sĩ, sau chuyển vào Sài Gòn viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong tác phẩm của nhà thơ với nhiều cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp không kém. Huế cũng là vùng đất đặc trưng bởi nhiều cau mà trong thơ Hàn Mặc Tử có nhắc đến:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Đó là một lời trách mắng nhẹ nhàng êm ái mà ai đọc qua cũng đoán được đó là lời trách móc của một cô gái dành cho một chàng trai. Nhưng nghe câu nói thấy êm tai nửa hờn dỗi quá! Cô gái trách chàng trai sao không về làng xem cau mới lớn và được nắng “đổ” vào.

Những cây cau cao vút lá xanh mướt trông thật đẹp mắt nay đã được nắng vàng bao phủ! Ôi, thật là một bức tranh thiên nhiên tràn ngập ánh sáng tuyệt đẹp. Chưa dừng lại ở đó, khi đọc hai câu thơ tiếp theo, ta còn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoàn mỹ đến khó tin:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Nếu bạn đã từng đến Huế, bạn sẽ thấy những khu vườn xinh xắn với cỏ và cau mọc bên vườn. Người Huế giản dị lắm, chỉ cần sống gần gũi với thiên nhiên mộc mạc nhưng trữ tình cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thật thi vị và đẹp biết bao khi chẳng cần nhà chọc trời hay cao ốc. Xe to, khi vào Huế mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của ngày xưa.

Đường phố đông đúc người đi bộ và người đi xe đạp, không ồn ào cũng không vội vã. Tác giả miêu tả: “Vườn ai xanh như ngọc” là vẻ đẹp của cây cỏ xanh tươi đọng lại bởi sương sớm. Khoảnh khắc ấy đã đẹp, bây giờ lại càng đẹp hơn khi những tia nắng chiếu vào.

Khung cảnh vẫn tráng lệ và đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Trời mát nên cây cỏ phát triển tươi tốt mà xanh mướt như ngọc bích. Viên ngọc xanh đại diện cho màu xanh lam. Tác giả đã khéo léo liên tưởng giữa màu xanh của cỏ và màu xanh của ngọc bích. Qua đây ta thấy được óc quan sát tinh tế cũng như tài tình của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Người dân xứ Huế thể hiện vẻ đẹp chân chất, hiền hòa biết bao qua câu thơ: “Lá tre che mặt phông”. Khuôn mặt vuông vức là biểu hiện cho sự nhân từ, vuông vức toát lên sự hiền hòa, nhân hậu của con người nơi đây. Ở khổ thơ thứ hai, tác giả đặc biệt khắc họa rõ nét nhịp sống của người dân xứ Huế chậm rãi mà nhịp nhàng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Dòng nước chảy chậm đến nỗi ngay cả những bông ngô “buồn bã” cũng di chuyển rất chậm. Câu thơ cũng nhắc ta về khoảng cách giữa gió thổi một chiều và gió thổi một chiều. Phải chăng đó là sự ngăn cách, là đường song song không bao giờ có điểm chung trong tình yêu giữa chàng trai Hàn Mặc Tử và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc – người con gái mà nhà thơ đã thầm yêu năm xưa? .

Và khi đọc câu thơ: “Thuyền ai cập bến sông trăng ấy, có chở trăng về kịp đêm nay?” khiến người đọc có thể hình dung ra một chiếc thuyền nằm trên sông và ở đó có vầng trăng sáng. Con thuyền đi đâu như mang theo cả vầng trăng. Liệu con thuyền có chở trăng ngược thời gian?

Khổ thơ cuối là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái Huế mà anh thầm thương trộm nhớ được diễn tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Tác giả mơ thấy một giấc mơ, trong đó có một vị khách lạ chính là người con gái mà ông đem lòng yêu mến. Chiếc áo trắng đến nỗi nhà thơ không còn nhận ra cô gái ấy nữa. Màu áo trắng cũng khiến ta dễ liên tưởng đến tà áo trắng của nữ sinh Huế. Câu thơ được lặp lại từ một người khách phương xa hai lần nữa cho thấy sự sâu xa, xa lạ giữa nhà thơ và nhân vật mà tác giả nhắc đến.

Sương khói đã làm mờ hình ảnh cô gái, khiến tác giả có cảm giác xa cách, khó gần. Tác giả tự hỏi lòng mình: “Biết rằng tình ai giàu?”. Không biết cô gái ấy có còn nhớ và yêu Mặc Tử hay không? Đọc xong bài thơ, tôi có chút chạnh lòng, đó là tình yêu dạt dào của tác giả đã gửi đơn phương cho một cô gái mà không được đáp lại.

Bài tập làm văn phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11 của Hàn Mạc Tử bao gồm dàn ý Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ và các bài văn mẫu chọn lọc. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất.
Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Dàn ý phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

1. Mở bài

Đây Thôn Vĩ Dạ là tác phẩm xuất sắc của Hàn Mạc Tử, tác phẩm nói lên bức tranh thiên nhiên nơi thôn vĩ và tâm hồn của con người hòa với không gian thiên nhiên.

2. Thân bài

Bài thơ mang nhiều cảm xúc sâu sắc, đó là hòa nhập với bức tranh thiên nhiên nhẹ nhàng của khung cảnh nơi thôn vĩ, bài thơ mang nhiều xúc cảm sâu sắc với người đọc.

+ Bài thơ đã mang đến cho người đọc một bức tranh thiên nhiên rộng lớn, ở đó có con người.
+ Bức tranh thiên nhiên nhẹ nhàng, hòa vào với không gian, thiên nhiên của cảnh vật của bức tranh thiên nhiên nơi phố Huế, có hình ảnh hàng cau, vườn cúc, có có bức tranh thiên nhiên tươi tắn, mang đến không gian diệu mát và tươi tắn cho không gian, đất trời.
+ Cùng với đó là tâm trạng buồn cô đơn của nhà thơ, khi phải chia xa nơi đây, sự chia cắt làm cho mọi cảnh vật trở nên tiêu điều, cảnh vật của phố Huế nhè nhẹ, gợi tả cảnh sắc có vẻ buồn cô đơn.
+ Khổ thơ đã mang đậm những cảm xúc của nhà thơ khi nhớ về khung cảnh cũ của thiên nhiên, đó là những cảnh tượng nhẹ nhàng, sâu lắng, mang những xúc cảm sâu sắc, trong tâm hồn của con người.+ Tâm trạng của nhà thơ khi trở về xứ Huế, tác giả đã hòa mình vào không gian thiên nhiên, làm cho cảnh vật nhuốm màu buồn thương, cảnh vật làm lay động trái tim của con người, khung cảnh đó biết buồn thương, bi ai và mang những không gian nhẹ nhàng, buồn thiu, làm cảnh sắc như có sự lay chuyển.
+ Tác giả đang mơ ảo trước không gian đó, xa xăm có hình ảnh mờ ảo của những khung cảnh, thiên nhiên, nhẹ nhàng và sâu lắng trong tâm hồn của con người.
+ Tình cảm của con người cũng tàn phai, trở nên vô vọng trước không gian và thời gian trước cảnh vật của cuộc sống, nó nhẹ nhàng, mang đến màu sắc, sự tươi tắn trước những khung cảnh của không gian thiên nhiên.
+ Bài thơ đã mang những xúc cảm đặc biệt của con người trước không gian thiên nhiên nơi đây, nó nhẹ nhàng, tinh tế và mang nhiều xúc cảm sâu sắc trước cuộc sống, thiên nhiên và con người.
+ Bài thơ đã mang đến cho người đọc những tình cảm chân thành, và bức tranh thiên nhiên nhẹ nhàng, mang đến nhiều xúc cảm sâu sắc cho người đọc.

3. Kết Luận

Bài thơ đã mang đến cho con người đọc không gian thiên nhiên rộng lớn, mênh mông, ở đó con người được hòa mình vào khung cảnh của thiên nhiên, đất trời.

Bài văn mẫu phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – bài 1

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào tronq thơ, những giây phút ông đã chắc lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau.

Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ.

Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.

Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu liên đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những lia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.

Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.

Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rõ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được dính vào chiếc choàng nhung xanh mịn:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đên thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo nhưưong giấc mộng:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tr thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa hắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối lăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui – thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Cỏ chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các hài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gởi, lả lơi:

Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa
Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.

Hay:

Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Thuyền ai đậu đên sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tôi nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?

Trái tim khao khái yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.

Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghe thuật gợi liên tưởng, hoà quyện thiên nhiên với lòng người.

Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – bài 2

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài hoa của văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại nhắc tới một người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta càng cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.

Bài thơ về xử Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Da”, là tiếng lòng tha thiết về quê hương, nhưng cũng đượm vẻ u buồn, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những câu hò đượm chút tình của Huế

Sao anh không về chơ thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Mở đầu bài thơ bằng một câu hỏi tu từ, như lời trách nhẹ nhàng, không có chút giận hờn nào của một cô gái Huế với chàng trai mà cô thầm thương trộm nhớ. Câu thơ còn chứa đựng sự mong đợi, sự trách móc nhẹ nhàng, sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ. Đó còn là một lời mời “dịu ngọt”, thôn Vĩ hiện lên, vẻ đẹp không mang nét hùng vĩ như cảnh “Đèo ngang” hay mang trong mình sự huyền bí hư không, dưới ngòi bút của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất Huế. Cái đẹp được tả từ ánh nắng ban mai “nắng mới”, ánh sáng tinh khiết nhẹ nhàng buổi sớm soi rọi xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón lấy những tia nắng đầu tiên đó. Tất cả như được phủ kín với ánh sáng, một thử ánh sáng tinh khôi, dưới ánh sáng đó tất cả vạn vật như rực lên sức sống đang tuôn trào.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Một khoảng vườn hiện lên trước mắt chúng ta, ta có thể cảm nhận được dù có nhắm mắt cũng có thể cảm thấy cái màu xanh mượt mà, ngời lên dưới ánh ban mai. Nhà thơ đã dùng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống tươi mát, nhựa sống của cây cối đang đâm chồi nảy lộc. Giữa khung cảnh thiên nhiễn trừ tình đó, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đây “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái xoan… hiếm ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ một khuôn mặt hiền lành, phúc hậu. Con người thấp thoáng, ẩn hiện sau “lá trúc” mơ màng, hình ảnh hư thực. Đây có phải là người ghé thăm thôn Vĩ, là người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng

Thôn Vĩ nằm cạnh dòng sông Hương hiền hòa, xinh đẹp, những thửa vườn xanh mát, nằm cạnh đôi bờ sông Hương, vẻ đẹp hiện lên bâng khuâng

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chứa đựng nỗi lòng của người thi sĩ. Chúng ta thường nói “gió thổi mây bay”, gió và mây cùng đi chung một hướng. Vậy mà trong thơ của Hàn Mặc Tử “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa đến não lòng. Dòng nước sông Hương cũng đượm vẻ buồn hiu hắt với “hoa bắp lay” hai bên bờ. Cảnh vật như có sự chia lìa, lay động. Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mà mình thương yêu, sự nuối tiếc khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và trăng” thường hay xuất hiện trong thơ ca “gió trăng chưa một thuyền đầy” – Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh đầy chất trữ tình đó để nói lên nỗi lòng của mình “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”. Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của thi nhân không còn mang hình ảnh đơn thuần mà trở thành “sông trăng”, làm cho cả dòng sông và cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Có ai ngờ được rằng “dòng nước buồn thiu” vì “hoa bắp” bay theo ánh chiều tà lại có thể trở thành một dòng “sông trăng” nên thơ như thế. “Thuyền ai” là thuyền của một người xa lạ, hay phải chăng là con thuyền mang theo người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen, vừa xa lạ. Câu hỏi tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay”. Câu hỏi nhưng không có câu trả lời, là sự nuối tiếc, hay là sự lỡ dở trong tình yêu c, “kịp” khiến cho câu thơ trở nên vội vàng, gấp gáp hơn, dường như đang cố gắng chạy đua để bắt kịp với những chờ mong, hay với tình yêu mà nhà thơ hằng ấp ủ?

Nhưng tất cả những khắc khoải, nhớ thương ấy chỉ là trong tiềm thức, dễ dàng tan biến như chính ánh trăng dưới dòng sông Hương kia. Hiện thực chỉ một giấc mơ đến phũ phàng

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Aó em trắng quá, nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đã?

Nhà thơ đã sử dụng những điệp ngữ “khách đường xa……….khách đường xa” làm cho giọng thơ trở nên sâu nắng, nỗi nhớ trong ký ức, nỗi buồn ở hiện tại. Tất cả như mờ đi bởi màu áo trắng, máu sáng tinh khôi ấy hiện lên dưới ánh sáng của mặt trời, là màu tượng trưng cho màu đồng phục của những nữ sinh Huế. Và trong bài thơ này nó còn là màu nhớ nhung của chính tác giả. Dưới làn sương mờ buổi sớm mai “sương khói mờ nhân ảnh” hình ảnh màu trắng ấy như nhạt nhòa, như ẩn, như hiên, trở nên xa vời, khó nắm bắt. Giữa cái hư không ấy, câu thơ cuối như một sự thất vọng cảu chính tác giả “Ai biết tình ai có đậm đà?” Sự thất vọng của một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời thơ như phảng phấp sự u sầu. Bài thơ kết thúc bằng sự ngậm ngùi. Nhà thơ không nói với ai mà chỉ nói với chính lòng mình, sự băn khoăn không biết tình cảm kia có “đậm đà” hay chỉ hư ảo như màu áo trắng trong không rõ ràng trong làn sương mờ buổi sớm

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kết hợp tuyết đối giữa cảnh và tình. Qua đó, ta càng khâm phục hơn nghị lực sống của chính tác giả, cùng sự tài hoa của một nghệ sĩ giàu tình yêu thương.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – bài 3

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút tài năng xuất sắc. Những tác phẩm của ông thường ít tả và kể mà thường hướng tâm, hướng nội. “ Đây thôn Vĩ Dạ” – một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong trái tim của độc giả. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình yêu đối với người con gái xứ Huế ông thầm thương, với mảnh đất đẹp nơi thôn Vĩ mà ẩn sâu trong đó còn có cả sự cô đơn, nuối tiếc và nỗi buồn chất chứa trong trái tim tác giả.

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ ẩn chứa nhiều ý nghĩa, đã tốn không ít giấy mực của các nhà các phê bình văn học:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”

Có ý kiến cho rằng, nhà thơ Hàn Mặc Tử khi đang nằm điều trị căn bệnh nan y, người con gái tên Hoàng Thị Kim Cúc mà ông thầm thương trộm nhớ đã gửi cho nhà thơ một tấm bưu ảnh với vài lời thăm hỏi trong đó có hỏi nhà thơ sao bấy lâu không về thăm thôn Vĩ. Nếu hiểu theo hoàn cảnh này, có lẽ nhà thơ đã mượn lời hỏi thăm ấy để mở đầu cho bài thơ của mình. Câu hỏi tu từ đầu tiên thể hiện một sự trách móc nhẹ nhàng của người con gái. Cũng có thể do nhà thơ tự phân thân hoặc tự vấn bản thân mình đã bấy lâu rồi không về thăm mảnh đất ấy với một niềm mong ước một lần được quay trở lại nơi đây.

Trong khổ thơ đầu, bài thơ cũng đã mang người đọc đến với một quê hương thôn Vĩ đẹp đẽ, thơ mộng:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Những hình ảnh thân thuộc bình dị và đặc trưng của thôn Vĩ như “hàng cau”, “vườn ai” đã được nhà thơ khéo léo tái hiện trong ba câu thơ. Trước mắt người đọc hiện lên là hình ảnh của những hàng cau tăm tắp vươn lên trước “nắng mới”, với khu vườn đã “mướt” lại “ xanh như ngọc”. Với cách sử dụng ngôn ngữ tài tình trong hai từ “ nắng mới”, “mướt” , câu thơ thể hiện một khung cảnh thật tươi đẹp và đầy sức sống. Biện pháp tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng khéo léo trong câu thơ thứ ba “xanh như ngọc” cho thấy thôn Vĩ không chỉ hữu tình, nên thơ mà còn rất trù phú. Cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ thì tuyệt vời đến thế, còn con người thì rất thật thà và đôn hậu qua hình ảnh “lá trúc” với “mặt chữ điền”. Chỉ hai hình ảnh ấy thôi cũng đủ để người đọc cảm nhận được điểu đó bởi người xưa thường ví cây trúc với người quân tử, còn gương mặt chữ điền thường là những người có tấm lòng nhân hậu. Không chỉ khắc họa hình ảnh tươi đẹp, con người đáng yêu của thôn Vĩ, bài thơ còn cho người đọc nhận thấy được sự ngợi ca, lòng yêu mếm của tác giả đối với con người và cảnh vật vùng đất yên bình đó.

Nếu như khổ thơ đầu mang đến một hình ảnh tươi vui, đẹp đẽ thì ở khổ thơ thứ hai lại mang ta đến với những hình ảnh chia lìa, một nỗi buồn trống trải chất chứa của nhà thơ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Người ta thường nói “gió thổi, mây bay” bởi gió và mây thường đi liền với nhau, gắn bó, hòa quện với nhau. Tuy nhiên trong câu thơ trên thì gió đi một lối, mây đi một đường. Kết hợp với nhịp thơ rứt khoát 4-3, câu thơ thể hiện một sư chia lìa, xa cách. Nhà thơ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa tài tình trong câu thơ tiếp theo với hình ảnh “dòng nước buồn thiu” kết hợp với hình ảnh “hoa bắp lay”. Điều đó dường như hé lộ một nỗi buồn mang mác của người thi sĩ lúc này bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Càng đọc những câu thơ tiếp, người đọc càng dần thấy được một Hàn Mặc Tử cô đơn, u sầu và hướng nội:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Trong thơ ca xưa nay, người ta thường thấy hình ảnh của trăng được rất nhiều thi nhân đưa vào trang viết của mình. Nếu nhà thơ Lý Bạch có “Ngẩng đầu ngắm trăng sang – Cúi đầu nhớ cố hương”, Bác Hồ có “trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Hàn Mặc Tử cũng góp vào nguồn cảm hứng vô tận ấy hình ấy một “bến sông trăng” và con thuyền “chở trăng”. Có lẽ hình ảnh ẩn dụ “sông trăng” và thuyền “chở trăng” là hai hình ảnh cực kỳ đắt giá và mang nhiều ý nghĩa nhất trong khổ thơ này. “Trăng” ở đây có thể hiểu như một người bạn tri kỷ mà lúc cô đơn này nhà thơ rất cần để giãi bày tâm sự. Nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác và kết hợp với nội dung khổ thơ đầu, người đọc cũng có thể hiểu rằng trăng chính là nhà thơ. Bởi lẽ ở khổ thơ đầu hình ảnh thôn Vĩ và con người đáng yêu đến thế thì hình ảnh thuyền “chở trăng về” chính là hình ảnh ẩn dụ một mong ước của thi nhân được trở về mảnh đất ấy. Hai từ “thuyền ai” cùng câu hỏi tu từ cuối khổ thơ dù thể hiện nỗi niềm đau đáu nhớ về thôn Vỹ, mong muốn về thăm nhưng dường như lại chất chứa cả một nỗi khác khoải, cô đơn của nhà thơ khi biết mình đang mang bệnh khó có thể trờ về.

Sau những hình ảnh buồn man mác và sự cô đơn trong nỗi lòng người thi sĩ thì bài thơ lại tiếp tục đưa ta đến với một cõi mộng ảo, hư hư thực thực với một sự chới với, vô vọng trong trái tim tác giả:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Aó em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Với điệp từ “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần, câu thơ thể hiện một sự xa cách vô cùng. Vậy vị ‘khách đường xa” ấy là ai? Có thể đó chính là nhà thơ – một vị khách đường xa muốn trờ về thăm xứ Huế. Khổ thơ không chỉ có vị khách mà còn có hình ảnh người em áo trắng. Trong một số tài liệu có viết rằng bà Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho ông một tấm bưu ảnh phong cảnh đẹp đẽ, một số tài liệu lại cho rằng đó là bức hình của bà mặc một chiếc áo dài. Và dù theo tài liệu nào thì người ta cũng vẫn ngầm hiểu rằng hình ảnh cô gái áo trắng trong bài thơ chính là Hoàng Cúc – người mà thi sĩ thầm thương bấy lâu. Hình ảnh “trắng” “ nhìn không ra” cùng “sương khói mờ nhân ảnh” đã đưa độc giả đến một cõi xa xôi nào đó, mờ mờ ảo ảo. Dường như niềm thương, nỗi nhớ và mong ước trở về thăm lại người xưa trốn cũ của nhà thơ với con thuyền chở trăng khó kịp nên ông đã vào tận trong cõi mơ để tìm kiếm. Nhưng có lẽ cuộc tìm kiếm ấy vẫn chới với, vô vọng khi thi sĩ thốt lên “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Lại một lần nữa nhà thơ tự hỏi lòng mình – một câu hỏi không biết có lời giải đáp ấy lại càng cho thấy rõ sự khắc khoải vô cùng của nhà thơ. Nếu khổ thơ đầu có “vườn ai”, khổ thơ thứ có “thuyền ai” thì khổ thơ thứ ba lại có “tình ai” nằm trong những câu hỏi tu từ ở mỗi khổ đều có sức truyền cảm lớn đến trái tim của người đọc và thể hiện tài năng sử dụng ngôn từ tài tình bậc thầy với lời ít nhưng ý nhiều của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Gấp lại trang thơ, hình ảnh miền quê tươi đẹp, trù phú và con người xứ Huế cùng tình yêu của nhà thơ với mảnh đất yên bình thôn Vĩ vẫn khắc sâu trong tâm trí độc giả. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ tài tình và các biện pháp tu từ một cách khéo léo, bài thơ cũng mang cho người đọc một sự thấu hiểu về sự cô đơn khắc khoải và mong ước trở về với mảnh đất đẹp đẽ cũng như mong ước trở về với cuộc sống đời thường của nhà thơ Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” sẽ mãi ghi dấu ấn trong trái tim bạn đọc, đóng góp một tác phẩm xuất sắc cho nền thi ca nước nhà.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – bài 4

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút tài năng xuất sắc. Những tác phẩm của ông thường ít tả và kể mà thường hướng tâm, hướng nội. “ Đây thôn Vĩ Dạ” – một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong trái tim của độc giả. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình yêu đối với người con gái xứ Huế ông thầm thương, với mảnh đất đẹp nơi thôn Vĩ mà ẩn sâu trong đó còn có cả sự cô đơn, nuối tiếc và nỗi buồn chất chứa trong trái tim tác giả.

Có ý kiến cho rằng, nhà thơ Hàn Mặc Tử khi đang nằm điều trị căn bệnh nan y, người con gái tên Hoàng Thị Kim Cúc mà ông thầm thương trộm nhớ đã gửi cho nhà thơ một tấm bưu ảnh với vài lời thăm hỏi trong đó có hỏi nhà thơ sao bấy lâu không về thăm thôn Vĩ. Nếu hiểu theo hoàn cảnh này, có lẽ nhà thơ đã mượn lời hỏi thăm ấy để mở đầu cho bài thơ của mình. Câu hỏi tu từ đầu tiên thể hiện một sự trách móc nhẹ nhàng của người con gái. Cũng có thể do nhà thơ tự phân thân hoặc tự vấn bản thân mình đã bấy lâu rồi không về thăm mảnh đất ấy với một niềm mong ước một lần được quay trở lại nơi đây.

Trong khổ thơ đầu, bài thơ cũng đã mang người đọc đến với một quê hương thôn Vĩ đẹp đẽ, thơ mộng:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Những hình ảnh thân thuộc bình dị và đặc trưng của thôn Vĩ như “hàng cau”, “vườn ai” đã được nhà thơ khéo léo tái hiện trong ba câu thơ. Trước mắt người đọc hiện lên là hình ảnh của những hàng cau tăm tắp vươn lên trước “nắng mới”, với khu vườn đã “mướt” lại “ xanh như ngọc”. Với cách sử dụng ngôn ngữ tài tình trong hai từ “ nắng mới”, “mướt” , câu thơ thể hiện một khung cảnh thật tươi đẹp và đầy sức sống. Biện pháp tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng khéo léo trong câu thơ thứ ba “xanh như ngọc” cho thấy thôn Vĩ không chỉ hữu tình, nên thơ mà còn rất trù phú. Cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ thì tuyệt vời đến thế, còn con người thì rất thật thà và đôn hậu qua hình ảnh “lá trúc” với “mặt chữ điền”. Chỉ hai hình ảnh ấy thôi cũng đủ để người đọc cảm nhận được điểu đó bởi người xưa thường ví cây trúc với người quân tử, còn gương mặt chữ điền thường là những người có tấm lòng nhân hậu. Không chỉ khắc họa hình ảnh tươi đẹp, con người đáng yêu của thôn Vĩ, bài thơ còn cho người đọc nhận thấy được sự ngợi ca, lòng yêu mếm của tác giả đối với con người và cảnh vật vùng đất yên bình đó.

Nếu như khổ thơ đầu mang đến một hình ảnh tươi vui, đẹp đẽ thì ở khổ thơ thứ hai lại mang ta đến với những hình ảnh chia lìa, một nỗi buồn trống trải chất chứa của nhà thơ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Người ta thường nói “gió thổi, mây bay” bởi gió và mây thường đi liền với nhau, gắn bó, hòa quện với nhau. Tuy nhiên trong câu thơ trên thì gió đi một lối, mây đi một đường. Kết hợp với nhịp thơ rứt khoát 4-3, câu thơ thể hiện một sư chia lìa, xa cách. Nhà thơ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa tài tình trong câu thơ tiếp theo với hình ảnh “dòng nước buồn thiu” kết hợp với hình ảnh “hoa bắp lay”. Điều đó dường như hé lộ một nỗi buồn mang mác của người thi sĩ lúc này bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Càng đọc những câu thơ tiếp, người đọc càng dần thấy được một Hàn Mặc Tử cô đơn, u sầu và hướng nội:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Trong thơ ca xưa nay, người ta thường thấy hình ảnh của trăng được rất nhiều thi nhân đưa vào trang viết của mình. Nếu nhà thơ Lý Bạch có “Ngẩng đầu ngắm trăng sang – Cúi đầu nhớ cố hương”, Bác Hồ có “trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Hàn Mặc Tử cũng góp vào nguồn cảm hứng vô tận ấy hình ấy một “bến sông trăng” và con thuyền “chở trăng”. Có lẽ hình ảnh ẩn dụ “sông trăng” và thuyền “chở trăng” là hai hình ảnh cực kỳ đắt giá và mang nhiều ý nghĩa nhất trong khổ thơ này. “Trăng” ở đây có thể hiểu như một người bạn tri kỷ mà lúc cô đơn này nhà thơ rất cần để giãi bày tâm sự. Nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác và kết hợp với nội dung khổ thơ đầu, người đọc cũng có thể hiểu rằng trăng chính là nhà thơ. Bởi lẽ ở khổ thơ đầu hình ảnh thôn Vĩ và con người đáng yêu đến thế thì hình ảnh thuyền “chở trăng về” chính là hình ảnh ẩn dụ một mong ước của thi nhân được trở về mảnh đất ấy. Hai từ “thuyền ai” cùng câu hỏi tu từ cuối khổ thơ dù thể hiện nỗi niềm đau đáu nhớ về thôn Vỹ, mong muốn về thăm nhưng dường như lại chất chứa cả một nỗi khác khoải, cô đơn của nhà thơ khi biết mình đang mang bệnh khó có thể trờ về.

Sau những hình ảnh buồn man mác và sự cô đơn trong nỗi lòng người thi sĩ thì bài thơ lại tiếp tục đưa ta đến với một cõi mộng ảo, hư hư thực thực với một sự chới với, vô vọng trong trái tim tác giả:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Aó em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Với điệp từ “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần, câu thơ thể hiện một sự xa cách vô cùng. Vậy vị ‘khách đường xa” ấy là ai? Có thể đó chính là nhà thơ – một vị khách đường xa muốn trờ về thăm xứ Huế. Khổ thơ không chỉ có vị khách mà còn có hình ảnh người em áo trắng. Trong một số tài liệu có viết rằng bà Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho ông một tấm bưu ảnh phong cảnh đẹp đẽ, một số tài liệu lại cho rằng đó là bức hình của bà mặc một chiếc áo dài. Và dù theo tài liệu nào thì người ta cũng vẫn ngầm hiểu rằng hình ảnh cô gái áo trắng trong bài thơ chính là Hoàng Cúc – người mà thi sĩ thầm thương bấy lâu. Hình ảnh “trắng” “ nhìn không ra” cùng “sương khói mờ nhân ảnh” đã đưa độc giả đến một cõi xa xôi nào đó, mờ mờ ảo ảo. Dường như niềm thương, nỗi nhớ và mong ước trở về thăm lại người xưa trốn cũ của nhà thơ với con thuyền chở trăng khó kịp nên ông đã vào tận trong cõi mơ để tìm kiếm. Nhưng có lẽ cuộc tìm kiếm ấy vẫn chới với, vô vọng khi thi sĩ thốt lên “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Lại một lần nữa nhà thơ tự hỏi lòng mình – một câu hỏi không biết có lời giải đáp ấy lại càng cho thấy rõ sự khắc khoải vô cùng của nhà thơ. Nếu khổ thơ đầu có “vườn ai”, khổ thơ thứ có “thuyền ai” thì khổ thơ thứ ba lại có “tình ai” nằm trong những câu hỏi tu từ ở mỗi khổ đều có sức truyền cảm lớn đến trái tim của người đọc và thể hiện tài năng sử dụng ngôn từ tài tình bậc thầy với lời ít nhưng ý nhiều của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Gấp lại trang thơ, hình ảnh miền quê tươi đẹp, trù phú và con người xứ Huế cùng tình yêu của nhà thơ với mảnh đất yên bình thôn Vĩ vẫn khắc sâu trong tâm trí độc giả. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ tài tình và các biện pháp tu từ một cách khéo léo, bài thơ cũng mang cho người đọc một sự thấu hiểu về sự cô đơn khắc khoải và mong ước trở về với mảnh đất đẹp đẽ cũng như mong ước trở về với cuộc sống đời thường của nhà thơ Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” sẽ mãi ghi dấu ấn trong trái tim bạn đọc, đóng góp một tác phẩm xuất sắc cho nền thi ca nước nhà.

Trên đây là bài tập làm văn phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Baitaplamvan chúc các bạn học tốt!

Hàn Mặc Tử là hồn thơ đau thương nhưng là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”, “Chơi giữa mùa trăng”… Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ” được trích trong tập “Thơ điên”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?

….

Ai biết tình ai có đậm đà”

“Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940. Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh do cô gái Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng. Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con đò, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô gái xứ Huế, ông đã xúc động viết bài thơ này.

Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh thơ đẹp còn tình người thì tha thiết nhớ mong:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Có lẽ, với bất cứ ai khi đọc bài thơ này, cũng đều bị cuốn hút ngay từ câu thơ đầu với những băn khoăn, vừa như hờn dỗi, như trách yêu. Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu thôi, câu hỏi nhưng lại chan chứa yêu thương. Tại sao lâu rồi anh không về chơi thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng, có người con gái anh thương? Nhà thơ sử dụng từ “chơi” mà không sử dụng từ “thăm”.

Nếu sử dụng từ “thăm” thì cấu trúc câu thơ không thay đổi nhưng nó trở nên khách sáo, từ “chơi” gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết, thân tình. Trong câu thơ, nhà thơ đã hé lộ cho người đọc tình cảm của mình đối với cô gái Huế, xem cô gái Huế là một người thân thương hay chính cô gái ấy xem nhà thơ như bạn tâm giao, tri kỷ.

Mặt khác, sắc thái tu từ trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: sao cảnh Huế đẹp vậy mà mình không trở về ? Đó là một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở về Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậy khao khát, hoài niệm. Vì không thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng. Ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Cảnh sắc thôn Vĩ được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy “nắng hàng cau nắng mới lên”. Câu thơ với điệp từ “nắng” và cách ngắt nhịp 4/3 gợi ra trong mắt người đọc một không gian tràn đầy ánh sáng. Cảnh hiện lên rõ nét sống động, đầu tiên là vẻ đẹp của “nắng hàng cau”. Cau là loài cây cao nên đón ánh nắng đầu tiên của ngày mới.

Không gian thôn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao, thoáng đãng, khoáng đạt. Đặc biệt sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” cho ta thấy đó là ánh nắng của buổi ban mai thật rực rỡ, trong sáng. Câu thơ vẽ nên một hàng cau đầy sức sống đang vươn lên mãnh liệt đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm.

Ánh nắng mới mẻ, tinh khôi như làm sáng bừng lên không gian khoáng đạt, rộng lớn. Nhớ đến thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hàng cau là hình ảnh quá đỗi thân thuộc với mỗi người dân thôn Vĩ. Hình ảnh tưởng chừng như đơn sơ, bình dị ấy lại có sức gợi hình, gợi cảm lớn và có ý nghĩa sâu sắc trong trái tim nhà thơ.

Nhắc đến cau còn là nhắc đến loại cây rất thân thuộc với làng quê Việt Nam, nơi có phong tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Nguyễn Bính – một nhà thơ cảnh quê, hồn quê cũng đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên cái nền phong cảnh có hình ảnh thân cau quen thuộc ấy:

“Nhà anh có một hàng cau

Nhà em có một giàn trầu”

Trong bài thơ “Hoa Lư” nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết:

“Đường cỏ lơ mơ nắng

Mái tranh chìm chơi vơi

Vài tán cau mộc mạc

Thả hồn quê lên trời”

Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên bởi vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy nhựa sống “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng Lư). Quả đúng như vậy, câu thơ đã gợi ra một khoảng không gian xanh của thiên nhiên Vĩ Dạ, cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của hàng cây khiến cho người đọc cảm nhận được một sức sống tràn trề, mơn mởn.

Bật mí:  Vẻ đẹp Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều (17 mẫu) mới nhất

Tác giả dùng màu xanh như ngọc để diễn tả sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một màu sắc cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu nồng nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến như vậy.

“Vườn ai”? không xách định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn cô gái Huế. “Mướt” là một tính từ khác với “mượt” bởi “mượt” chỉ gợi lên mịn màng mà “mướt” thì gợi sự sáng lên, tươi mới của cảnh vật. Xuân Diệu viết:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”

Thủ pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc”. Xanh ngọc tức là xanh trong, màu xanh đi liền với ánh sáng nhưng không chói chang mà lại rất dịu, người đọc có thể hình dung vẻ đẹp của viên ngọc đính giữa bầu trời xứ Huế. Câu thơ với “vườn ai mướt quá” như một lời trầm trồ, thán phục, ngợi ca cũng như lời thầm cảm ơn chủ nhân của khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.

Và cảnh vật thôn Vĩ càng đẹp hơn trước bởi sự xuất hiện hình bóng con người “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc – một loài cây họ tre được trồng trước ngõ. Trong tâm tưởng thi nhân bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc.

Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi sự vuông vắn, phúc hậu. Tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật đồng thời qua đó người đọc nhìn thấy không chỉ vẻ đẹp phúc hậu của người con gái Huế mà còn là vẻ đẹp của sự kín đáo, duyên dáng, e ấp rất thiếu nữ, rất Huế. Cũng viết về thôn Vĩ, nhà thơ Bích Khê viết:

“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn

Biếc che cần trúc không buồn mà say”

Viết về trúc, Hàn Mặc Tử không chỉ là “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” mà còn là:

“Thầm thỉ hỡi ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây”

Thiên nhiên và con người có sự gắn bó, hòa quyện hấp dẫn tạo xúc động mạnh trong lòng nhà thơ. Nhà thơ đã ghi lại linh hồn của tạo vật với những gì đặc sắc, lắng đọng trong ký ức hoài niệm, trong nỗi niềm nhớ thương. Bằng việc miêu tả vẻ đẹp thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng thiết tha đằm thắm đối với cảnh và người xứ Huế. Tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một niềm khát khao trở về thôn Vĩ yêu thương.

Nếu như ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì sang khổ thứ hai, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, đó chính là lúc mặc cảm chia lìa hiện ra rõ nét dưới từng câu chữ:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chảy lững lờ, chậm rãi – đó là “điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng lay động. Thế mà trong đôi mắt Hàn Mặc Tử thì cảnh vật hiện lên chia lìa “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Phép nhân hoá làm dòng sông như chở nặng nỗi sầu thương chất ngất của nhà thơ.

Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh. Nỗi buồn của thi nhân dường như phủ khắp cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa bắp… Gió và mây là hai sự vật luôn sánh đôi với nhau như thuyền và nước nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử thì gió mây chia lìa. Gió đóng khung trong gió, mây đóng khung trong mây “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Nhìn xuống dòng sông, thi nhân thấy dòng sông trở nên “buồn thiu”, còn hoa bắp chỉ khẽ “lay” – một cử động rất nhỏ tạo cho bức tranh nỗi buồn hiu hắt vắng lặng. Chữ “lay” ấy như từ trong ca dao bay về đậu vào thơ Hàn Mặc Tử :

Ai về Giồng Dứa qua truông

Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em

Không gian sông nước xứ Huế nhuốm màu sắc hư ảo. Nỗi buồn phủ khắp cảnh vật từ gió mây đến dòng nước và hoa bắp bên sông. Buồn đến não ruột, buồn đến mềm lòng. Gió và mây vốn gắn kết cũng đã có sự chia lìa đôi ngả, dòng sông mang đầy tâm trạng chảy về niềm tâm tưởng. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, đơn phương. Ths Phan Danh Hiếu

Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người đọc vào cõi mộng. Vẫn là dòng sông Hương, là Huế thơ mộng nhưng không còn nắng, còn xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc là không gian ngập đầy ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền trăng, dòng sông thì sông trăng, bến thì thành bến trăng.

Từ xưa đến nay, có thuyền trăng, bến trăng nhưng nay lại có sáng tạo sông trăng độc đáo của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Đọc câu thơ, người đọc có cảm tưởng như đang trôi vào cõi mộng, dường như đang sống trong khắc khoải hoài mong của thi nhân. Đây không phải lần đầu Hàn Mặc Tử viết về trăng mà trong thế giới thơ ca của Hàn Mặc Tử, trăng là một người bạn, một người tình không thể thiếu trong đời sống tâm hồn thi nhân:

“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi”

“Không gian đắm đuối toàn trăng cả

Anh cũng trăng mà em cũng trăng”

Hay:

“Gió lùa ánh sáng vào trong bãi

Trăng ngập dòng sông chảy lãng lai”

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ

Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”

Thơ Hàn Mặc Tử ít nhiều nhuộm màu sắc trường phái tượng trưng siêu thực của phương Tây vì thế nên có nhiều hình ảnh khó nắm bắt, ví như câu viết về trăng trong tác phẩm này. “Thuyền ai” phải chăng đó là con thuyền của cô gái Huế, con thuyền mà nhà thơ đang mơ ước chở trăng và phải chăng trăng chính là tình yêu mà nỗi chờ mong của Hàn Mặc Tử. “Tối nay” là tối nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của nhà thơ là cuộc chạy đua với thời gian.

“Tối nay” phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết. Có phải vì thế mà câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu rồi con thuyền ấy có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Từ “kịp” vì thế mà chất chứa tâm trạng hoài mong và cả tin yêu lẫn bi kịch và hoài nghi của con người. Ths Phan Danh Hiếu

“Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi ẩn chứa một sự day dứt, mong ước và lo sợ. Một niềm hy vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân. Hàn Mặc Tử cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính vì vậy mà người đọc càng thấu hiểu hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng đồng cảm hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.

Mặc dù sống trong mơ nhưng thi nhân không mất hết hy vọng mà vẫn mong ước một cách riết róng:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ “Khách đường xa” được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng khắc khoải chờ đợi và niềm khát khao đến mãnh liệt. Từ “mơ” nằm đầu câu đã thể hiện rõ tâm trạng mong chờ ấy của thi nhân. Thầy Phan Danh Hiếu. “Mơ” chứ không phải là “mong”, vì không mong được nên mơ, vì sống trong mơ có lẽ sẽ bớt đi nỗi cô đơn thì phải. “Khách đường xa” có lẽ chính là cô gái Huế, và khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng.

Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng tinh khôi của cô gái Huế – nhất là Hoàng Cúc từng là nữ sinh của trường Đồng Khánh. Trong sự đa nghĩa của câu thơ, màu trắng còn là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương; màu trắng ở đây vượt lên trên mức bình thường nên đã hóa thành màu của ảo ảnh và chính vì nhìn vào ảo ảnh nên hình bóng của giai nhân cứ mờ nhoè, hư ảo.

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây” – nơi nhà thơ dưỡng bệnh – nơi mà Hàn Mặc Tử luôn xem là lãnh cung giam lỏng mình. “Ở đây” và “ngoài kia” có xa xôi mấy đâu vậy mà một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Bởi thế câu thơ như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đó giai nhân trong mộng đang lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm làm điên đảo mộng thi ca:

“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói

Gió trăng có sẵn làm sao ăn

Làm sao giết được người trong mộng

Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”

Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ trong trạng thái bị dày vò vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào trống trải. Ths Phan Danh Hiếu. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn, mang theo nỗi buồn vô vọng và những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau thương chới với, bất lực trong mặc cảm chia lìa nhưng cũng hết lòng thiết tha với cuộc đời.

Bài thơ sử dụng một số biện pháp tu từ như: điệp từ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu từ… Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Thầy Phan Danh Hiếu.

Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất đỗi thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. Nhắc đến Huế, ta không thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, và nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là không thể quên vẻ đẹp thôn Vĩ trong thi phẩm để đời của ông. Huế đẹp, Huế thơ, xin được mượn bốn câu thơ của Thu Bồn thay cho lời kết gửi đến tình yêu xứ Huế, với thi nhân Hàn Mặc Tử:

“Xin chào Huế một lần anh đến

Để ngàn lần anh nhớ trong mơ

Em rất thực nắng thì mờ ảo

Xin đừng lầm em với Cố Đô”

-Thầy Phan Danh Hiếu-

ĐÂY THÔN VĨ DẠ – HÀN MẶC TỬ

Hàn Mặc Tử là một ngôi sao lạ trên bầu trời với muôn ngàn vì sao của thơ Mới. Những năm tháng tồn tại trên dương gian ngắn ngủi nhưng đầy đau thương của Hàn lại là những năm tháng của sáng tạo và thăng hoa. Thơ văn ông vừa chứa đựng tình yêu cuộc sống mãnh liệt vừa là nỗi tuyệt vọng đến đau thương. Trong những thi phẩm mà nhà thơ để lại, Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ khá độc đáo. Nó như một nẻo riêng trong sáng tinh khiết, không có những bóng ma hay máu chảy, không rên xiết quằn quại mà tràn đầy tình yêu cuộc sống với những hình ảnh tươi đẹp huyền ảo. Phải chăng vì vậy mà thi phẩm còn đọng lại mãi trong lòng người yêu thơ?

Đây thôn Vĩ Dạ được gợi cảm hứng từ một câu chuyện có thật của tác giả với người con gái mang tên Hoàng Thị Kim Cúc. Hai người quen nhau trong những năm tháng Hàn Mặc Tử còn làm ở Sở Đạc điền tỉnh Bình Định. Lúc đó Hàn Mặc Tử đã thầm yêu con gái ông chủ Sở chính là nàng Kim Cúc. Khi thi sĩ quay lại Quy Nhơn thì Kim Cúc lại theo cha về hẳn Huế. Mối tình thầm kín của thi sĩ từ đó đã rơi vào vô vọng. Khi hay tin Hàn Mặc Tử bị bệnh, Kim Cúc có gửi cho chàng thi sĩ si tình ấy một bức bưu thiếp in hình phong cảnh Huế, với lời thăm hỏi sức khỏe. Nhận được tấm bưu ảnh ấy, Hàn Mặc Tử vô cùng xúc động và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã ra đời. Có lẽ tấm bưu ảnh đó là tác nhân gọi dậy tiếng lòng thầm kín của thi sĩ, là tiếng gõ cửa để nỗi khát khao sống, niềm thiết tha được gắn bó với cuộc đời của Hàn Mặc Tử được tràn ra. Bài thơ được in trong tập “Thơ Điên” sau đổi thành “Đau thương”, một tập thơ với hai cái tên như hai mặt đối lập mà lại thật hài hòa. Bởi Điên hay Đau thương cũng chính là xuất phát từ tình yêu cuộc sống cháy bỏng, từ nỗi đau khi gặp phải “hoạn nạn nơi trần thế”. Nó là hai cung bậc cảm xúc của một trái tim đã sống trọn vẹn kiếp người. Bài thơ gồm ba khổ, mỗi khổ như một cảnh sắc riêng mà thoáng nhìn bề mặt người ta ít thấy sự liên hệ gần gũi. Nhưng nhìn sâu hơn vào mạch ngầm của thi phẩm bạn đọc sẽ thấy một sợi dây liên kết chặt chẽ. Đó có chính là ở trạng thái cảm xúc của thi nhân, nó như một dòng chảy với những đứt nối, như một hành trình từ quá khứ đến tương lai cùng với một khắc khoải không nguôi về tình yêu cuộc sống.

Mở đầu bài thơ là khổ thơ tả cảnh một khu vườn xứ Huế mang vẻ đẹp tinh khôi trong trẻo. Câu thơ đâu tiên là một câu hỏi tu từ như chứa đựng biết bao hàm ý, biết bao xúc cảm xa xôi:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

phân tích dây thôn vĩ dạ

Bạn đọc hẳn sẽ nhận ra sự đa thanh của câu thơ. Người hỏi ở đây phải chăng là cô gái xứ Huế muốn nhắn gửi tới chàng trai đã xa Huế lâu ngày chút trách giận, lại chút mời gọi quay trở về thăm lại Vĩ Dạ xưa? Nhưng cũng có thể lắm chứ đó là tiếng lòng của chính người xa Huế đang tự hỏi mình: sao còn chưa thể về thôn Vĩ, bao giờ mới có thể về thôn Vĩ lần nữa đây? Hiểu cách nào hẳn nhiên cũng có cái lý riêng. Nhưng chúng ta đều phải thừa nhận rằng dẫu hiểu ra sao thì nó cũng chỉ ra một hiện thực đó là “anh” đang ở xa Huế, đang cách biệt với Huế với Vĩ Dạ, chỉ có thể hồi tưởng và nhớ về một Vĩ Dạ mộng mơ trong hồi ức. Câu thơ có 6/7 chữ là thanh bằng như gợi đến những kỉ niệm ngọt ngào, tha thiết, những hồi ức êm đềm, sâu lắng. Rồi dòng hồi ức ấy cứ chảy ra, cảnh sắc khu vườn dần hiện lên qua từng nét bút:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Một thôn Vĩ chỉ còn như vậy thôi, chỉ còn mơ hồ vài nét vẽ nhưng đó hẳn là những ấn tượng được lưu giữ mãi mãi không phải trong miền kí ức của thi nhân. Đó là nắng thứ nắng trong trẻo đến tinh khôi của ngày mới. Nó không phải là thứ nắng chang chang hay ửng hồng ta gặp trong “Mùa xuân chín”:

– Trong làn nắng ửng khói mơ tan
– Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang
Nó cũng không phải cái “Nắng xuống trời lên sâu chót vót” trong thơ Huy Cận, không phải cái nắng hạ bừng chiếu như mặt trời chân lý trong thơ Tố Hữu. Trong Đây thôn Vĩ dạ, Hàn Mặc Tử không tả nắng mà thi nhân muốn gợi nên trong lòng bạn đọc cái tinh khôi, trong trẻo. Nắng trong thi phẩm là những tia nắng đầu tiên của một ngày. Trong câu thơ 7 chữ nhà thơ nhắc đến “nắng” hai lần như muốn nhấn mạnh màu nắng trong trẻo tinh khôi ấy, như muốn mở ra cả một khu vườn với sắc nắng ngập tràn. Đó là “nắng mới lên” trên những thân cau thẳng mướt. Chúng ta đều biết cau là loài ưa nắng, thân thẳng không xòe tán, là thứ cây dường như luôn được đón những tia nắng đầu tiên của một ngày. Vì vậy nắng trên hàng cau có lẽ ánh nắng tinh khôi vẹn nguyên nhất. Dường như sau một đêm thấm đẫm sương giăng, buổi ban mai đến những hàng cau lại đón nắng mới, cành lá lung linh hồi sinh sức sống. Cho nên ánh nắng đó là nắng ướt, tươi mới và long lanh. Nó vừa đủ ấm áp, vừa đủ trong trẻo lại không quá chói lóa, không quá gay gắt. Để rồi dưới ánh nắng ấy cả khu vườn như bừng lên một sức sống thanh tân:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Đại từ phiếm chỉ “ai” như khiến khu vườn trở nên xa xôi mờ ảo. Nó gợi bao nhớ thương vừa thân thiết lại vừa xa vắng. Đặc biệt cách dùng từ và so sánh trong câu thơ này cũng rất tinh tế tài hoa. Để tả cái xanh của cây lá thi nhân dùng chữ “mướt” chứ không phải “mượt”. “Mướt” đâu chỉ là màu xanh tươi của cây lá mà còn gợi thêm cái non tơ, mềm mại, óng ả, cái sức sống thanh xuân căng tràn tươi tốt của khu vườn. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” vốn không xa lạ trong thơ văn nhưng trong câu thơ này khi được cộng hưởng với những câu chữ khác lại tạo ra một hình ảnh mang nét đẹp riêng. Người đọc như thấy trước mắt cái sắc xanh của khu vườn, nó không chỉ mượt mà, tươi tốt mà còn có gì đó rất sáng, rất trong như sắc ngọc lung linh. Từ “quá” gợi như tiếng reo lên trầm trồ mà ngỡ ngàng, như một giây phút thi nhân không thể nén kìm được cảm xúc trước cái đẹp ngời sáng, thanh tú của cỏ cây. Cả khu vườn vì thế mà như vừa thực vừa ảo, căng tràn sức sống lại cao quý thanh tân. Một khu vườn như vậy làm sao có thể không nhớ, không yêu?

Trong cái mướt mát của cây lá ấy thấp thoáng ẩn hiện một gương mặt chữ điền. Xưa nay vẫn có nhiều ý kiến tranh luận về cách hiểu gương mặt chữ điền này. Đó là gương mặt đàn ông hay đàn bà? là gương mặt của cô gái Huế hay của chàng trai xa Huế, là gương mặt của người Vĩ Dạ hay của người đang nhớ về Vĩ Dạ. Có một đặc trưng của bút pháp lãng mạn mà chúng ta nên lưu ý để có thể hiểu đúng về câu thơ này. Các nhà thơ lãng mạn khi tả người thường chỉ gợi những cảm nhận chung mà ít đi vào miêu tả chỉ tiết đường nét cụ thể. Hàn Mặc Tử cũng không phải là một ngoại lệ. Gương mặt chữ điền gợi cho người đọc về một vẻ đẹp phúc hậu, chất phác là cái đẹp của tâm tính hơn là của dung nhan. Vì vậy ở đây dẫu hiểu thế nào chúng ta đều có thể cảm nhận thấy sự hòa hợp giữa cảnh và người, thấy được vẻ thấp thoáng như có như không của gương mặt người ẩn lấp sau tàng lá, như mách bảo ta về một khoảng cách xa xôi, về một không gian chia cắt của người nơi này và ngoài kia.

Như vậy có thể thấy khổ thơ thứ nhất là những nét vẽ đơn sơ nhưng tinh tế và tài hoa về vẻ đẹp của Vĩ Dạ của xứ Huế hay của chính cuộc sống tươi đẹp ngoài kia. Nó là bức tranh về một khu vườn trong ánh nắng ban mai vừa trong trẻo, tinh khiết vừa tràn đầy sức sống. Tất cả mọi chỉ tiết đều hòa hợp trong sự thanh tân vừa giản dị gần gũi vừa lôi cuốn người đọc. Khi viết những câu thơ này, nhà thơ đã ở một nơi rất xa Vĩ Dạ, đang chịu cái đau đớn dày vò của bệnh tật, của mặc cảm và sự cô đơn. Nhưng những hồi ức về Vĩ Dạ vẫn hiện lên trong trẻo, tươi nguyên, nhà thơ vẫn hướng về cuộc đời với một tình yêu mãnh liệt. Có lẽ phải yêu lắm, phải gắn bó lắm, phải nhớ thương lắm, người ta mới có thể quên đi những đau đớn mà mình đang phải chịu để chỉ nhớ về những tươi đẹp nên thơ. Phải chăng vì tình yêu mãnh liệt ấy mà độc giả không thể không rung động trước bức tranh thi nhân vẽ ra?

Từ cảnh sắc khu vườn trong trẻo ở khổ thơ thứ nhất, khổ thơ thứ hai mở rộng không gian đến dòng sông Hương với gió mây, sông nước, thuyền trăng:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Thơ Hàn thường có lối chuyển tứ nhanh, đột ngột đến bất ngờ như vậy. Ở bài thơ này ta cũng bắt gặp đặc điểm ấy. Trong thoáng chốc khu vườn trong trẻo xinh xắn đã được chuyển sang cảnh mây trời, sông nước quạnh vắng đượm một nỗi buồn chia lìa. Cảm xúc ấy được gợi lên ngay từ câu thơ mở đầu khổ thơ. Chúng ta dễ dàng nhận ra sự đứt gãy, chia ly khi câu thơ bị ngắt làm hai vế với nhịp thơ ¾ như ném hai sự vật về hai phía trái ngược nhau. Trong tự nhiên, gió và mây là hai sự vật gắn liền với nhau, gió thổi mây trôi. Vậy mà ở hai câu thơ này hai hình ảnh lại bị tách rời trong hai nhịp thơ gợi cảm giác chìa lìa, tan tác. Gió theo đường của gió, mây theo đường của mây. Chúng dường như chẳng còn gắn bó liên quan gì với nhau nữa. Có lẽ bút pháp lãng mạn đã tạo ra những hình ảnh đầy nghịch lý đi ngược lại quy luật của tự nhiên giúp nhà thơ diễn tả nỗi niềm tâm sự của mình. Căn bệnh hiểm nghèo mà Hàn Mặc Tử mắc phải khi tuổi còn quá trẻ, phải sống với những đau thương, mặc cảm và cách biệt với cuộc đời đã khiến thơ ông luôn phảng phất một nỗi đau, niềm bi ai, sự chia lìa.

Từ sự chia ly của mây gió trên bầu trời quạnh vắng đã in bóng xuống dòng Hương giang:
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa để thể hiện nỗi buồn từ lòng người tràn ra cả không gian cảnh vật. Đâu chỉ mây gió chia ly, buồn tan tác mà đến cả dòng Hương giang cũng đìu hiu, quạnh vắng mang nỗi buồn mênh mang. Vẫn là dòng Hương giang ấy, vẫn là con sông của biết bao thi phẩm ấy nhưng trong thơ Hàn lại chứa đựng một nỗi niềm khác, một tâm tư khác. Không chỉ trên dòng nước phẳng lặng in bóng mây trời buồn thiu, mà hai bên dòng sông những bông hoa bắp như có như không lay động khe khẽ. Hoa bắp vốn là một thứ hoa dung dị của đời thường, không sắc, không hương, bông rất nhẹ và mỏng manh. Nhà thơ thật tinh tế khi dùng từ “lay” để gợi chuyển động của hoa bắp. “Lay” là những chuyển động rất nhẹ, rất khẽ chỉ là một chút thoáng qua. Nó là một động từ mà dường như ko để diễn tả hành động mà thể hiện nhiều hơn những tâm tình, xúc cảm. Chúng ta từng bắt gặp trong thơ hình ảnh những bông hoa lay động bên bờ sông vắng. Từ trong ca dao:

Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió đưa bông sậy bỏ buồn lòng ai
Đến thơ ca hiện đại sau này:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có nhớ hồn lau nẻo bến bờ

(Quang Dũng – Tây Tiến)

Dường như những câu thơ này đều gợi đến một cảm giác chung, trong cái lay động của hồn hoa là nỗi bi thương của lòng người, là sự tĩnh lặng của không gian.

Hai câu sau của khổ thơ thứ hai đưa thời gian đến một đêm trăng huyền ảo:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Các thi liệu trong hai câu thơ là các thi liệu đã rất quen thuộc. Đó là hình ảnh thuyền, bến, sông, trăng… Những hình ảnh chảy trong thi ca từ ca dao tới thơ trung đại rồi hiện đại. Các hình ảnh này thường gợi đến một không gian lãng mạn, một cảnh sắc nên thơ và thường gắn với những hẹn hò của lứa đôi. Trong thơ Hàn Mặc Tử trăng cũng là một hình ảnh đặc biệt đã trở thành một mã hóa ám ảnh những người yêu thơ ông. Hình ảnh trăng trong thơ Hàn có một sự vận động rất rõ nét qua các thời kì. Có những khi “Trăng nằm sõng soài trên cành liễu”, có những lúc “mở cửa nhìn trăng trăng tái mặt”, lại có lúc “hôm nay có một nửa trăng thôi/ một nửa trăng ai cắn vỡ rồi”… Trăng trong thơ Hàn Mặc Tử gắn với những đau thương tột cùng, khát vọng tột cùng của ông. Vì thế trăng ko chỉ là hình ảnh lãng mạn mà nhiều khi còn là trăng ứa máu, trăng điên loạn. Nếu nhìn trong sự vận động ấy, vầng trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ thật đặc biệt. Đó không phải là ánh trăng gợi tính dục cũng ko phải là ánh trăng đau thương điên loạn như trong nhiều bài thơ khác của nhà thơ bạc mệnh. Đó là ánh trăng lấp lánh, là ánh trăng huyền ảo, là ánh trăng cô đơn nhưng không ghê sợ mà gợi một vẻ đẹp đặc biệt. Cả một dòng sông lấp lánh ánh trăng và những con thuyền như chở đầy trăng đang trôi nhẹ giữa dòng nước. Một không gian tương phản giữa đêm tối mịt mờ và ánh sáng lấp lánh, tương phản giữa không gian tĩnh mịch với con thuyền chở trăng. Có cô đơn, có đau đớn nhưng lộng lẫy và huyền ảo. Đại từ phiếm chỉ “ai” một lần nữa góp phần làm nên sự hư ảo cho câu thơ. Song có lẽ chữ đắt nhất trong hai câu thơ này và cả trong toàn bài thơ chính là chữ “kịp” đi cùng với câu hỏi tu từ ở câu cuối, gợi đến cái khắc khoải và đau thương trong tâm can của thi sĩ họ Hàn. Chữ “kịp” ấy đã gói trọn những âu lo, tuyệt vọng, đau đớn của nhà thơ, đã thể hiện trọn vẹn khát vọng sống đến tột cùng nhưng số phận lại bất hạnh và bi thương. Hàn Mặc Tử đang phải chạy đua với thời gian, với bệnh tật với cái chết. Trong cuộc chạy đua ấy dường như những nỗ lực của người thi sĩ đã đi đến tuyệt vọng. Nhưng tình yêu với cuộc đời, khát vọng sống, khát vọng giao cảm với thế giới ngoài kia vẫn mạnh mẽ cháy bỏng. Chính những thôi thúc đó khiến Hàn Mặc Tử luôn đau đớn, khắc khoải về cuộc trở về. Như vậy ở khổ thơ thứ hai chúng ta đã thấy được sự vận động của tứ thơ sự thay đổi không chỉ về không gian, thời gian mà hơn cả là dòng cảm xúc. Từ hồi ức về thôn Vĩ dường như thi sĩ đã quay trở lại thực tại để nhìn thấy những bi thương bất hạnh cuộc đời mình. Phải chăng vì thế cả khổ thơ thấm đẫm sự chia lìa?

Khổ thơ thứ ba là mở đầu bằng hình ảnh khách đường xa

Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Hình ảnh khách đường xa được lặp lại hai lần như nhấn mạnh một bóng dáng ngày càng mờ ảo xa xôi. Ở vế thứ hai của câu thơ, chữ mơ mất đi hình ảnh khách đường xa dường như bé nhỏ dần, mờ ảo dần, như ngày một xa hơn, khó nắm bắt hơn. Phải chăng vì thế mà dù xuất hiện con người nhưng không mang đến cảm giác vui tươi, sum họp ngược lại càng làm tăng hơn cảm giác chia lìa, xa cách. Hình ảnh khách đường xa đó hòa cùng với sương khói mờ nhân ảnh với sắc trắng tới hư vô nhìn không ra. Tất cả tạo nên một không gian của hư ảo, một không gian của tâm tình sâu lắng nhất của thi sĩ chứ không còn là không gian thực. Hàn Mặc Tử đặc biệt yêu sắc trắng. Chúng ta từng gặp trong thơ ông sắc màu này ở nhiều bài thơ khác

Tôi sẽ đi tìm mỏn đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn thơ

Có lẽ cũng bởi màu trắng là màu của thanh khiết, của trinh nguyên nên Hàn Mặc Tử dành những xúc cảm đặcbiệt trong màu này. Câu thơ thứ hai lạ về cách diễn đạt, lạ trong cách bộc lộ cảm xúc. Nó vừa như một tiếng reo lên ngỡ ngàng ngạc nhiên trước vẻ đẹp trắng trong mà như không có thực của “em”. Sắc trắng đó như xòa mọi ranh giới chỉ còn lại một không gian mờ nhòa trong “mộng trắng trong”. Không gian ở khổ ba chỉ còn một sự phân định duy nhất “ở đây”. Ở đây có lẽ là để phân biệt với ở kia, ngoài kia. Vậy là không gian không còn là Vĩ Dạ, là Hương giang hay là xứ Huế nữa. Không gian chỉ còn ở đây – nơi của bệnh tật, khổ đau, tuyệt vọng, mặc cảm và chìa lìa và ngoài kia – cuộc đời với những yêu thương, khao khát, với kí ức, kỉ niệm và hi vọng. Ta bỗng nhớ một câu thơ khác, một ý thơ khác mà chung nhiều đau thương:

Tôi đang ở đây hay ở đâu
Ai đem tôi bỏ dưới trời sầu?

Sự chia định không gian đó cũng là một biểu hiện của đau thương và tuyệt vọng. Vì vậy nỗi khác khoải về tình người mới càng trở nên đau đáu khôn cùng

Ai biết tình ai có đậm đà?

Đại từ phiếm chỉ “ai” xuất hiện 2 lần, câu hỏi tu từ kết thúc bài thơ, về mặt hình thức là sự liên kết với hai khổ thơ trên, về mặt cảm xúc là biểu hiện tột cùng của đau thương dâng trào. Còn gì đau đớn hơn khi khát khao giao cảm với cuộc đời mà phải chịu càng chia lìa, cô độc. CÒn gì đau đớn hơn khi ta thương nhớ về ngoài kia, mà với ngoài kia ta sẽ dần bị lãng quên? Liệu còn tình ai sẽ đậm đà? Còn ai sẽ thương nhớ?……

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ lạ trong phong trào thơ mới. Đây thôn Vĩ Dạ là thi phẩm lạ trong gia tài thơ của thi sĩ. Bài thơ không ma quái, ko ám ảnh mà trong trẻo đến lạ kì. Có lẽ đó là phần kí ức đẹp tươi của thi sĩ về cuộc đời, là ước vọng trong khổ đau và khao khát. Vì thế bài thơ có đau thương nhưng lại gợi đến những xúc cảm tích cực và trong trẻo khiến ta hiểu thêm, trân trọng hơn tâm hồn người thi sĩ và tình yêu với cuộc đời.


Bài làm của Minh Thu – Học sinh lớp Văn cô Ngọc Anh

Xem thêm:

Đây thôn Vĩ Dạ – một giấc mơ về cuộc đời Hàn Mặc Tử

Tham khảo các bài viết về Đây Thôn Vĩ Dạ tại: https://thichvanhoc.com.vn/tag/day-thon-vi-da/

Tham khảo các bài văn mẫu nâng cao tại chuyên mục: https://thichvanhoc.com.vn/van-mau/nang-cao/

Đón xem các bài viết mới nhất trên fanpage FB Thích Văn Học

Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ luôn nằm trong trọng tâm thường diễn ra trong những cuộc thi cuối năm lớp 11. Và nói đến những tác phẩm thơ nổi bật của nhà thơ Hàn Mặc Tử thì có lẽ Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thể hiện được tốt nhất cảm xúc & chất thơ trong cuộc đời nhiều biến cố của ông.

Để hiểu hơn về xuất thân & các thông tin chi tiết của nhân vật Hàn Mặc Tử, bạn có thể tham khảo tại LINK NÀY (nguồn Wikipedia)

Trong nội dung dưới đây, topAZ gửi đến bạn 5 bài phân tích văn mẫu, chi tiết về lối phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ, ngoài ra chúng tôi cũng có lập dàn ý đại cương và giới thiệu đến bạn Video phân tích bài thơ này một cách đầy đủ nhất.

Phân tích đây thôn vĩ dạ của hàn mặc tử
Đây thôn Vĩ Dạ, bài thơ hay của Hàn Mặc Tử (ảnh minh họa)

5 bài phân tích thơ Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử) hay & đẩy đủ nhất

Trước khi đưa nội dung sắp xếp này, chúng tôi đã nghĩ đến việc gửi tới các bạn dàn ý và video phân tích chi tiết của bài thơ này trước, tiếp theo là gợi 5 bài phân tích. Tuy nhiên, vì nhiều lý do nên chúng tôi sẽ đảo ngược lại, gửi tới các bạn bài văn mẫu trước. Nếu bạn cần dàn ý và coi video phân tích rất sinh động và đầy đủ ý trước. Hãy bấm vào THAO TÁC NHANH này để đến đúng vị trí đó

#01

Đây thôn Vĩ Dạ: Bài phân tích mẫu 1

Đây thôn Vĩ Dạ là tâm sự của Hàn Mạc Tử trước cảnh thiên nhiên thôn Vĩ

Hàn Mặc Tử một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, trân trọng cuộc sống. Ông cũng là người từng yêu và cảm giác dang dở trong tình yêu của mình. Nhưng ông lại là một con người lạc quan, hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là những tâm sự của ông trước cảnh thiên nhiên thôn Vĩ cùng với nỗi niềm tâm trạng của mình.

Bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong. Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niềm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn Vĩ chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đặc trưng của thiên nhiên xứ Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ của thôn Vĩ trong hoài niệm. Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tinh khôi của một ngày.

Chỉ miêu tả nắng thôi mà đã gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp. Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao tràn xuống thấp và tràn đầy cả khu vườn, thôn Vĩ như được khoác lên một chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.

Đến câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai ngời sáng lên như một viên ngọc sáng diệu kì: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Câu thơ như một tiếng reo đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh như ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Chữ “mướt” tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc ấn tượng vẻ mượt mà loáng mướt của khu vườn. Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai” chỉ một chữ mà khiến cho cảnh đang gần gũi bỗng bị đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm hưởng nhẹ bẫng của tiếng này khiến hơi thơ như thoáng xuôi về một cõi hư ảo mơ hồ.

Và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến “ai” lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người.

Cảm giác về cái đẹp mơ hồ mong manh ấy càng rõ hơn ở khổ 2 trong bức tranh mây trời sông nước:

“Gió theo lối gió, mây đường mây 

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay 

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hai câu đầu: Bức tranh có những nét rất đặc trưng của xứ Huế: gió thổi, mây nhẹ trôi, dòng nước lặng lờ và hoa bắp khẽ lay động ven sông. Tả thực mà gợi lên cái hồn xứ Huế: gió mây nhẹ nhẹ bay, dòng sông trôi lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa. Nhưng ngắm kĩ sẽ thấy đường nét chia lìa, rời rạc của tạo vật, sự sống hiện lên lắt lay, mệt mỏi, âm điệu câu thơ buồn bã, xa vắng. Tả cảnh thực hay là cảnh đã được tâm trạng hoá, bộc lộ nỗi niềm thi nhân. Cái ngược chiều của gió, mây khơi gợi sự chia lìa đôi ngả của tình đời, tình người, như rạch vào nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của chủ thể trữ tình khi viết bài thơ này.

Hai câu kết đoạn cũng đem đến ấn tượng về bức tranh tâm cảnh như vậy. Cảnh đẹp song vẫn thoáng bâng khuâng gợi nên từ những hình ảnh: thuyền ai – sông trăng… Dòng sông dường như bị ảo hóa, không còn là sông nước mà là sông trăng, lấp ánh ánh trăng vàng, là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian thơ trở nên hư ảo. Đại từ phiếm chỉ “ai” nghe thật mơ hồ xa vắng; và con thuyền chở trăng trên dòng sông kia thật mong manh như một ảo ảnh. Để rồi chỉ cần một chữ “kịp tối nay” là lập tức đủ kéo thi nhân về với thực tại, đối diện với nỗi cô đơn của chính mình.

Ba chữ thôi nhưng gợi lên thật nhiều những khắc khoải, mong ngóng, hi vọng, lo âu, vừa mới khao khát đấy rồi lại chợt vội vàng hoài nghi. Tín hiệu mong chờ thật mong manh nhưng vô cùng da diết. Khao khát của thi nhân hướng tới cái đẹp của tình đời tình người không tránh khỏi những nghi ngại băn khoăn.

Khổ cuối bài thơ là tiếng nói giúp nhà thơ hiểu thêm nỗi thiết tha dường như vô vọng đó:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hình ảnh “khách đường xa” đã từng xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử: khách xa gặp lúc mùa xuân chín. Hành trình của người khách từ xa xôi – em – là cả một giấc mộng dài say đắm của Hàn Mặc Tử. Bản thân “khách” đã diệu vợi, khách đường xa càng diệu vợi xa xăm hơn. Phải chăng vì hoàn cảnh đặc biệt của mình, vì mối quan hệ với cuộc đời trong tâm trí nhà thơ trở nên xa xăm cách trở. Nhà thơ cảm thấy mình chỉ đi song song với tình yêu, hạnh phúc mà không bao giờ nắm bắt được. Phải chăng vì thế mà mọi hình bóng đều xa vời hư ảo: áo em trắng quá nhìn không ra.

Câu thơ đầy đam mê “áo em trắng quá” nhưng cũng thật hụt hẫng xót xa “nhìn không ra”. Sắc trắng thiên thần tinh khôi ấy sao cứ vượt khỏi tầm tay. Hai câu kết là lời lí giải: xuất hiện một lí do thật khách quan “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Xưa nay xứ Huế vốn bảng lảng sương khói, nhưng còn lí do chủ quan: trái tim trong tà áo trắng kia cũng hư vô bí mật như sương khói. Đó là sương khói của thời gian, hay sương khói của một mối tình mong manh chưa một lời ước hẹn, sương khói phủ lấy một trái tim biết mình sắp từ giã cõi đời… sương khói ấy che phủ khiến nhà thơ không thể nhận ra, không thể nắm bắt.

Câu kết bài đọng lại nỗi buồn khắc khoải băn khoăn “ai biết tình ai” có đậm đà không hay chưa kịp nồng trên mà khác đã phôi pha”. Câu thơ gợi lên nhiều cách hiểu; nhà thơ sao có thể biết tình người xứ Huế có đậm đà hay không; người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ với cô rất đậm đà?

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp bức tranh xứ Huế trầm mặc cổ kính mà rất tao nhã quý phái. Nó gợi nên cái linh hồn của mảnh đất cố đô nhưng không thể nói rằng bài thơ chỉ đơn thuần tả cảnh. Bài thơ đã làm chúng ta thêm yêu cuộc sống hơn.

#02

Đây thôn Vĩ Dạ: Bài phân tích mẫu 2

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.

Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ” đã ra đời. Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.

Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tâm thức.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Câu thơ này xuất hiện hai từ “nắng”. Một cái nắng được phát hiện được miêu tả “nhìn nắng hàng cau” và một cái năng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo lên như trẻ con “nắng mới lên”. Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh. Nó thắp nên trên những hàng cau.

Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết phải có một cuộc dạo chơi như vậy.

Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạt vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn vĩ.

“Vườn ai mướt qua xanh như ngọc”

Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã “vườn ai mướt quá” lại còn phát hiện ra cái “mướt quá” ấy là “xanh như ngọc”. Tất cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì “vườn ai” chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lí.

Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên – bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là “mặt chữ điền” là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.

Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, thế giới kì lạ. Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế.

Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình tượng “lá trúc che ngang” càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng về buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên.

“Gió theo lối gió, mây đường mây”

Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lí mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng gió để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.

Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua cách nói nóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kể phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tưởng dại khờ.

Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất ngờ con người ấy bỗng dưng hiện ra thật nhân từ và độ lượng.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.

Nhân vật “ai” ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy đang cắm thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho nhà thơ tối nay. Đó là sự yêu thương cao cả, là sự thấu hiểu đến tường tận những khao khát của Hàn Mặc Tử.

Thế nhưng chữ “kịp” ở đây lửng lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? Có thể kip và cũng có thể không còn kịp nữa… Tối nay là một khái niệm thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây phúc ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa” Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy “khách đường xa, khách đường xa”. Thế mà, lại có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình. Con người đó càng lúc càng trở nên xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:

“Người đã đi rồi không níu lại

Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi đến dại khờ”.

Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hi vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình.

Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu mình như “khách đường xa”. Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ thấy người ấy quay trở lại với mình, cô gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ “em” thật giản dị, gần gũi biết bao: “Áo em trắng quá nhìn không ra”.

Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự tuyệt vọng. Đáng lẽ “áo em trắng quá” thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao…

Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật “em” trở lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình. Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lí nhân sinh: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:

“Con quay búng sẵn lên trời

Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”

Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được “nhân ảnh” chứ không thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không chủ động được với chính mình, mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu.

Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa “nhân ảnh” của nhân vật “em”… Đó là một nhận thức thật chua chat, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có chỗ nào để bám víu: “Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Hai đại từ “ai” ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh có biết tình em có đậm đà không?

Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy “mờ nhân ảnh”, càng tuyệt vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng.

Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế nào, yêu như thế nào trong cuộc đời tuyệt đẹp ở trần thế đáng sống này.

Đây thôn vĩ dạ thơ hàn mặc tử ngữ văn lớp 11

#03

Đây thôn Vĩ Dạ: Bài phân tích mẫu 3

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới. Bài thơ lần đầu in trong tập “Nắng xuân” (1937). Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng, quãng đời sống và sáng tác của ông là rất ngắn ngủi (1912 – 1940). Cuộc đời của Hàn Mặc Tử cũng phát triển không bình thường: ông phải chịu đựng những đớn đau giày vò của bệnh tật và sống trong trạng thái cô đơn giữa cuộc đời.

Hàn Mặc Tử là một người đa tình, ông khơi nguồn cho thơ từ nhiều nguồn cảm xúc: lòng tin nơi Đức chúa Trời mà tác giả có lúc tự nhận mình là “Thi sĩ của đội quân Thánh giá” với bao lời cầu nguyện vẻ đẹp của quê hương, một tình yêu than thiết với nhiều cái tên đẹp: Ngọc Sương, Mộng Cầm, Thương Thương, Hoàng Cúc… “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử được sáng tạo nên từ hai nguồn cảm hứng – cảnh đẹp của Vĩ Dạ mà có lần Bích Khê đã viết:

“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn

Biếc che cần trúc không buồn mà say”.

Thiên nhiên đẹp, làng quê đất đai trù phú tạo cho tác giả tình yêu cuộc sống, yêu con người. Nguồn mạch thứ hai là tấm lòng yêu mến, tình yêu nửa thực, nửa hư như một mong ước muốn được bày tỏ. Nhà thơ Quách Tấn cho biết Hoàng Cúc đã gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm bưu ảnh có phong cảnh xứ Huế và dòng Hương có con đò, bóng tre cần trúc hai bên bờ. Tấm ảnh cũng gợi cho Hàn Mặc Tử những tình cảm, xúc động để từ đó tạo nên cảm hứng trong thơ.

Nhà nghiên cứu Văn Tâm lại nói thêm: “Khoảng năm 1937, nghe tin Hàn Mặc Tử mắc bệnh nan y, Hoàng Cúc đã gửi vô Quy Nhơn cho Hàn Mặc Tử một tấm hình chụp hồi còn mặc áo dài trắng trường Đồng Khánh có kèm lời thăm hỏi sức khỏe và trách Hàn Mặc Tử sao lâu nay không ra thăm Vĩ Dạ?” Và đó là nguyên nhân trực tiếp cho sự ra đời của “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Câu thơ mở đầu như một lời chào mời, một lời thăm hỏi hay một lời trách móc, dường như tất cả đều có và ẩn ý trong lời thơ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Thôn Vĩ Dạ bên bờ sông Hương là một làng quê đẹp, có nhiều khu vườn xanh tươi, buổi sáng khi mặt trời mọc, khung cảnh thiên nhiên rất gợi cảm, ánh nắng ban mai và vườn cây tươi tốt dễ tạo nên những tình cảm gắn bó và thiết tha với cuộc sống. Ở đây tác giả miêu tả những hàng cau thân vút cao trong buổi bình minh gợi một cái gì khỏe khoắn của thiên nhiên:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”.

Hàng cau còn gợi lên không khí của làng quê như đã có từ lâu đời. Nhà thơ Vũ Quần Phương cũng nhận xét : “Cái “nắng hàng cau nắng mới lên” sao lại gợi một nỗi niềm làng mạc quê hương đến thế.”

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.

Chữ “mướt” ở đây được dùng rất khéo, nói lên cái tốt tươi của sự sống trong khu vườn, nói “mướt” là nói đến trạng thái mượt mà, mềm dịu đang độ phát triển tơ non. Màu “xanh như ngọc” là màu xanh như được lọc qua ánh sáng rất đẹp và gợi cảm. Đó là màu xanh được miêu tả ban mai hoặc khi bầu trời đang bừng sáng thì mới có một màu xanh như ngọc. Có thể so sánh với nhiều từ ngữ khác nhau, những trạng thái, sắc thái của màu xanh: xanh lơ, xanh lục, xanh nõn, xanh thẳm, xanh biếc…Vườn cây vừa chiếm lĩnh chiều cao của không gian với những hàng cau cao vút và bề rộng với cây xanh tươi tốt. Trong những vườn đó ẩn hiện những khuôn mặt phúc hậu:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.

Ở đây tác giả miêu tả quan hệ giữa người và cảnh như hài hòa, phù hợp và gắn bó với nhau.Tuy chỉ là những nét thấp thoáng nhưng cũng gợi lên được ấn tượng về những con người chân chất ở vùng quê, những người lao động trung thực với khuôn mặt chữ điền. Nhìn chung, trong khổ một tác giả đã miêu tả được vẻ đẹp của vùng quê xứ Huế, đất đai trù phú, cây cối xanh tươi, một vẻ đẹp của làng quê thịnh vượng đã có từ lâu đời; về phía chủ quan là tình cảm mến yêu cuộc sống.

Ngoài lòng yêu đời có thể còn là những tình cảm riêng gắn bó với mảnh đất, với người thân quen. Khổ một của bài thơ như gây ấn tượng về sự hiện diện của nhà thơ trong cách miêu tả làng quê đẹp bên bờ sông Hương. Tuy nhiên, đọc kĩ cả bài thơ thì tất cả trôi trên dòng tâm tưởng của một tình cảm thiết tha và dè dặt của một nỗi nhớ thương như nén lại trong cảnh ngộ riêng của mình.

Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ mà tứ thơ vận động theo cảm xúc ở bên trong rồi bộc lộ qua những hình ảnh phù hợp bên ngoài. Cũng vì thế mà tứ thơ path triển không theo một dòng chảy liên tục và có lúc như gián cách, như bất ngờ xuất hiện những ý tứ và hình ảnh mới. Đất Huế không chỉ có một vẻ đẹp mà thiên nhiên có nhiều sắc thái, khung cảnh có vui, có buồn và tấm lòng của tác giả với những thiết tha nhớ mong về nơi ấy và về con người ấy nên tránh sao khỏi buồn. Tác giả lại miêu tả một bức tranh thiên nhiên khác gợi buồn gợi nhớ:

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.

Dòng nước trôi nhẹ, ngọn gió hiu hiu thổi, những cánh hoa bắp lay lay, nỗi buồn nhẹ nhưng không kém phần da diết, đây là một khung cảnh thiên nhiên có thực nhưng đồng thời cũng phản ảnh tâm trạng của chính tác giả. Tình cảm buồn xuất phát từ nhiều lý do, nỗi bâng khuâng trước một miền đất lạ, nhiều mơ ước, nhiều dè dặt, những thoáng nghi ngờ.

Nói đến Huế, các nhà thơ đều đặc biệt quan tâm đến dòng sông Hương với vẻ đẹp đặc biệt của một dòng sông nước trong chảy lững lờ giữa thành phố. Các nhà thơ Nam Trân, Tố Hữu đều có nhiều bài thơ đẹp viết về sông Hương, như câu thơ rất chân tình của Tố Hữu:

“Hương Giang ơi, dòng sông êm

Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình”.

Với Tố Hữu, đó là dòng sông tuổi thơ, dòng sông quê hương đã nuôi dưỡng tâm hồn tác giả. Còn với Hàn Mặc Tử đây là dòng sông thơ mộng như thực như hư, nhất là trong đêm trăng, đó là một dòng sông trăng. Không gian ngời ngợi ánh trăng, con thuyền cũng đầy trăng và ghé nhiều bến trăng. Hàn Mặc Tử là nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của trăng với nhiều sắc thái lạ:

“Không gian đắm đuối toàn trăng cả

Tôi cũng trăng và nàng cũng trăng”.

Tác giả đã nhân cách hóa vầng trăng theo con mắt đa tình:

“Mới lớn lên trăng đã thẹn thò

Thơm như tình ái của ni cỏ

Trang nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi”.

Trong bài thơ, dòng sông Hương được miêu tả rất thơ mộng như một dòng sông trăng và con thuyền cũng trở đầy trăng và cập bến như vừa xác định vừa mơ hồ. Cảm xúc với Huế là những cảm xúc đẹp.

Ở khổ thơ cuối tác giả bộc lộ tâm trạng:

“Mơ khách đường xa, khách đường

Áo em trắng quá nhìn không ra”.

Phải chăng khách đường xa nhớ đến miền đất thân yêu này để tìm lại một hình ảnh, một kỉ niệm như đã có ở trong đời hay đúng hơn chỉ một niềm mong ước? Tất cả như thực như hư; hình ảnh áo trắng của người con gái là hình ảnh đẹp gợi lên sự trong trắng, thanh khiết mà một số nhà Thơ Mới thường dùng. Câu thơ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” đã được dùng trong thơ xưa để nói lên cái hư ảo của kiếp người: “Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.

Hàn Mặc Tử nói đến hình ảnh “mờ nhân ảnh” là chân thực vì hình ảnh của một người thân yêu nào đó còn mờ ảo, như thực, như hư. Đó là một tình cảm lãng mạn, một bóng dáng xa xôi, một ước mơ đẹp. Cũng vì thế mà trong lòng tác giả nảy sinh một câu hỏi rất thực mà cũng có tính chất văn chương của nghệ thuật tu từ:

Ai biết tình ai có đậm đà?

Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hay, thiên nhiên đẹp và tình người với những mơ ước, những dè dặt, tình đời như nửa thực nửa hư. Bài thơ bộc lộ tấm lòng của tác giả, một nhà thơ mang theo nhiều nỗi niềm mơ ước và cũng hiểu rõ giới hạn mà mình có thể tìm đến với cuộc đời. Nhà phê bình Lê Đình Kỵ nhận xét: “Hai bài thơ được thừa nhận rộng rãi đến thành cổ điển của Hàn Mặc Tử: Mùa xuân chínĐây thôn Vĩ Dạ không xa lạ với những trình tự quê hương và vào loại trong sáng nhất của Thơ Mới”.

#04

Đây thôn Vĩ Dạ: Bài phân tích mẫu 4

Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào tronq thơ, những giây phút ông đã chắt lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hòa vào nhau.

Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.

Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu trên đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng:

Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu

Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh

Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu

Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.

Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rõ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc choàng nhung xanh mịn:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn.

Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy.

Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thía những vần thơ này:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền – khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay ?

Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tử thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối tăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bến bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui – thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạn khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử.

Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng.

Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này.

Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa   

Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.

Hay:

Trăng nằm sõng soài trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi.

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra;

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Trái tim khao khát yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.

Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhoà đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hoà quyện thiên nhiên với lòng người.

Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.

#05

Đây thôn Vĩ Dạ: Bài phân tích mẫu 5

Hàn Mặc Tử là hồn thơ đau thương nhưng là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”, “Chơi giữa mùa trăng”… Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ” được trích trong tập “Thơ điên”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?

….

Ai biết tình ai có đậm đà”

Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940. Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh do cô gái Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng. Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con đò, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô gái xứ Huế, ông đã xúc động viết bài thơ này.

Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh thơ đẹp còn tình người thì tha thiết nhớ mong:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Có lẽ, với bất cứ ai khi đọc bài thơ này, cũng đều bị cuốn hút ngay từ câu thơ đầu với những băn khoăn, vừa như hờn dỗi, như trách yêu. Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu thôi, câu hỏi nhưng lại chan chứa yêu thương. Tại sao lâu rồi anh không về chơi thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng, có người con gái anh thương? Nhà thơ sử dụng từ “chơi” mà không sử dụng từ “thăm”. Nếu sử dụng từ “thăm” thì cấu trúc câu thơ không thay đổi nhưng nó trở nên khách sáo, từ “chơi” gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết, thân tình.

Trong câu thơ, nhà thơ đã hé lộ cho người đọc tình cảm của mình đối với cô gái Huế, xem cô gái Huế là một người thân thương hay chính cô gái ấy xem nhà thơ như bạn tâm giao, tri kỷ. Mặt khác, sắc thái tu từ trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: sao cảnh Huế đẹp vậy mà mình không trở về ? Đó là một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở về Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậy khao khát, hoài niệm. Vì không thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng.

Ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Cảnh sắc thôn Vĩ được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy “nắng hàng cau nắng mới lên”. Câu thơ với điệp từ “nắng” và cách ngắt nhịp 4/3 gợi ra trong mắt người đọc một không gian tràn đầy ánh sáng. Cảnh hiện lên rõ nét sống động, đầu tiên là vẻ đẹp của “nắng hàng cau”. Cau là loài cây cao nên đón ánh nắng đầu tiên của ngày mới. Không gian thôn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao, thoáng đãng, khoáng đạt. Đặc biệt sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” cho ta thấy đó là ánh nắng của buổi ban mai thật rực rỡ, trong sáng.

Câu thơ vẽ nên một hàng cau đầy sức sống đang vươn lên mãnh liệt đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm. Ánh nắng mới mẻ, tinh khôi như làm sáng bừng lên không gian khoáng đạt, rộng lớn. Nhớ đến thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hàng cau là hình ảnh quá đỗi thân thuộc với mỗi người dân thôn Vĩ. Hình ảnh tưởng chừng như đơn sơ, bình dị ấy lại có sức gợi hình, gợi cảm lớn và có ý nghĩa sâu sắc trong trái tim nhà thơ. Nhắc đến cau còn là nhắc đến loại cây rất thân thuộc với làng quê Việt Nam, nơi có phong tục ăn trầu từ ngàn đời nay.

Nguyễn Bính – một nhà thơ cảnh quê, hồn quê cũng đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên cái nền phong cảnh có hình ảnh thân cau quen thuộc ấy:

“Nhà anh có một hàng cau

Nhà em có một giàn trầu”

Trong bài thơ “Hoa Lư” nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết:

“Đường cỏ lơ mơ nắng

Mái tranh chìm chơi vơi

Vài tán cau mộc mạc

Thả hồn quê lên trời”

Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên bởi vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy nhựa sống “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng Lư). Quả đúng như vậy, câu thơ đã gợi ra một khoảng không gian xanh của thiên nhiên Vĩ Dạ, cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của hàng cây khiến cho người đọc cảm nhận được một sức sống tràn trề, mơn mởn. Tác giả dùng màu xanh như ngọc để diễn tả sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một màu sắc cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu nồng nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến như vậy.

“Vườn ai” không xác định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn cô gái Huế. “Mướt” là một tính từ khác với “mượt” bởi “mượt” chỉ gợi lên mịn màng mà “mướt” thì gợi sự sáng lên, tươi mới của cảnh vật. Xuân Diệu viết:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”

Thủ pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc”. Xanh ngọc tức là xanh trong, màu xanh đi liền với ánh sáng nhưng không chói chang mà lại rất dịu, người đọc có thể hình dung vẻ đẹp của viên ngọc đính giữa bầu trời xứ Huế. Câu thơ với “vườn ai mướt quá” như một lời trầm trồ, thán phục, ngợi ca cũng như lời thầm cảm ơn chủ nhân của khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.

Và cảnh vật thôn Vĩ càng đẹp hơn trước bởi sự xuất hiện hình bóng con người “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc – một loài cây họ tre được trồng trước ngõ. Trong tâm tưởng thi nhân bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc. Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi sự vuông vắn, phúc hậu. Tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật đồng thời qua đó người đọc nhìn thấy không chỉ vẻ đẹp phúc hậu của người con gái Huế mà còn là vẻ đẹp của sự kín đáo, duyên dáng, e ấp rất thiếu nữ, rất Huế. Cũng viết về thôn Vĩ, nhà thơ Bích Khê viết:

“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn

Biếc che cần trúc không buồn mà say”

Viết về trúc, Hàn Mặc Tử không chỉ là “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” mà còn là:

“Thầm thì hỡi ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây”

Thiên nhiên và con người có sự gắn bó, hòa quyện hấp dẫn tạo xúc động mạnh trong lòng nhà thơ. Nhà thơ đã ghi lại linh hồn của tạo vật với những gì đặc sắc, lắng đọng trong ký ức hoài niệm, trong nỗi niềm nhớ thương. Bằng việc miêu tả vẻ đẹp thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng thiết tha đằm thắm đối với cảnh và người xứ Huế. Tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một niềm khát khao trở về thôn Vĩ yêu thương.

Nếu như ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì sang khổ thứ hai, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, đó chính là lúc mặc cảm chia lìa hiện ra rõ nét dưới từng câu chữ:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chảy lững lờ, chậm rãi – đó là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng lay động. Thế mà trong đôi mắt Hàn Mặc Tử thì cảnh vật hiện lên chia lìa “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Phép nhân hoá làm dòng sông như chở nặng nỗi sầu thương chất ngất của nhà thơ. Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh.

Nỗi buồn của thi nhân dường như phủ khắp cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa bắp… Gió và mây là hai sự vật luôn sánh đôi với nhau như thuyền và nước nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử thì gió mây chia lìa. Gió đóng khung trong gió, mây đóng khung trong mây “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Nhìn xuống dòng sông, thi nhân thấy dòng sông trở nên “buồn thiu”, còn hoa bắp chỉ khẽ “lay” – một cử động rất nhỏ tạo cho bức tranh nỗi buồn hiu hắt vắng lặng. Chữ “lay” ấy như từ trong ca dao bay về đậu vào thơ Hàn Mặc Tử:

Ai về Giồng Dứa qua truông

Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em

Không gian sông nước xứ Huế nhuốm màu sắc hư ảo. Nỗi buồn phủ khắp cảnh vật từ gió mây đến dòng nước và hoa bắp bên sông. Buồn đến não ruột, buồn đến mềm lòng. Gió và mây vốn gắn kết cũng đã có sự chia lìa đôi ngả, dòng sông mang đầy tâm trạng chảy về niềm tâm tưởng. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, đơn phương.

Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người đọc vào cõi mộng. Vẫn là dòng sông Hương, là Huế thơ mộng nhưng không còn nắng, còn xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc là không gian ngập đầy ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền trăng, dòng sông thì sông trăng, bến thì thành bến trăng. Từ xưa đến nay, có thuyền trăng, bến trăng nhưng nay lại có sáng tạo sông trăng độc đáo của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Đọc câu thơ, người đọc có cảm tưởng như đang trôi vào cõi mộng, dường như đang sống trong khắc khoải hoài mong của thi nhân.

Đây không phải lần đầu Hàn Mặc Tử viết về trăng mà trong thế giới thơ ca của Hàn Mặc Tử, trăng là một người bạn, một người tình không thể thiếu trong đời sống tâm hồn thi nhân:

 “Trăng nằm sõng soài trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi”

“Không gian đắm đuối toàn trăng cả

Anh cũng trăng mà em cũng trăng”

Hay:

“Gió lùa ánh sáng vào trong bãi

Trăng ngập dòng sông chảy lãng lai”

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ

Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”

Thơ Hàn Mặc Tử ít nhiều nhuộm màu sắc trường phái tượng trưng siêu thực của phương Tây vì thế nên có nhiều hình ảnh khó nắm bắt, ví như câu viết về trăng trong tác phẩm này. “Thuyền ai” phải chăng đó là con thuyền của cô gái Huế, con thuyền mà nhà thơ đang mơ ước chở trăng và phải chăng trăng chính là tình yêu mà nỗi chờ mong của Hàn Mặc Tử. “Tối nay” là tối nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của nhà thơ là cuộc chạy đua với thời gian. “Tối nay” phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết.

Có phải vì thế mà câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu rồi con thuyền ấy có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Từ “kịp” vì thế mà chất chứa tâm trạng hoài mong và cả tin yêu lẫn bi kịch và hoài nghi của con người.

“Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi ẩn chứa một sự day dứt, mong ước và lo sợ. Một niềm hy vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân. Hàn Mặc Tử cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính vì vậy mà người đọc càng thấu hiểu hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng đồng cảm hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.

Mặc dù sống trong mơ nhưng thi nhân không mất hết hy vọng mà vẫn mong ước một cách riết róng:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ “Khách đường xa” được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng khắc khoải chờ đợi và niềm khát khao đến mãnh liệt. Từ “mơ” nằm đầu câu đã thể hiện rõ tâm trạng mong chờ ấy của thi nhân. “Mơ” chứ không phải là “mong”, vì không mong được nên mơ, vì sống trong mơ có lẽ sẽ bớt đi nỗi cô đơn thì phải. “Khách đường xa” có lẽ chính là cô gái Huế, và khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng. Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng tinh khôi của cô gái Huế – nhất là Hoàng Cúc từng là nữ sinh của trường Đồng Khánh.

Trong sự đa nghĩa của câu thơ, màu trắng còn là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương; màu trắng ở đây vượt lên trên mức bình thường nên đã hóa thành màu của ảo ảnh và chính vì nhìn vào ảo ảnh nên hình bóng của giai nhân cứ mờ nhoè, hư ảo.

 “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”

“Ở đây” – nơi nhà thơ dưỡng bệnh – nơi mà Hàn Mặc Tử luôn xem là lãnh cung giam lỏng mình. “Ở đây” và “ngoài kia” có xa xôi mấy đâu vậy mà một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Bởi thế câu thơ như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đó giai nhân trong mộng đang lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm làm điên đảo mộng thi ca:

“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói

Gió trăng có sẵn làm sao ăn

Làm sao giết được người trong mộng

Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”

Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ trong trạng thái bị dày vò vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào trống trải. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn, mang theo nỗi buồn vô vọng và những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau thương chới với, bất lực trong mặc cảm chia lìa nhưng cũng hết lòng thiết tha với cuộc đời.

Bài thơ sử dụng một số biện pháp tu từ như: điệp từ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu từ… Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình.

Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất đỗi thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. Nhắc đến Huế, ta không thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, và nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là không thể quên vẻ đẹp thôn Vĩ trong thi phẩm để đời của ông. Huế đẹp, Huế thơ, xin được mượn bốn câu thơ của Thu Bồn thay cho lời kết gửi đến tình yêu xứ Huế, với thi nhân Hàn Mặc Tử:

“Xin chào Huế một lần anh đến

Để ngàn lần anh nhớ trong mơ

Em rất thực nắng thì mờ ảo

Xin đừng lầm em với Cố Đô”

Dàn ý chi tiết Đây thôn Vĩ Dạ (ngữ văn lớp 11) giúp bạn được điểm cao

Video ở trên đã giúp bạn có được lối phân tích từ thầy Phạm Minh Nhật đầy đủ ý nhất của bài phân tích. Tuy nhiên, nếu bạn cần ghi chép thì chúng tôi tổng hợp lập dàn ý dưới đây:

Sơ đồ tư duy đây thôn vĩ dạ hàn mặc tử văn học lớp 11

MỞ BÀI

– Giới thiệu vài nét về tác giả Hàn Mặc Tử và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

+ Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn.

+ Đây thôn Vĩ Dạ (1938) in trong tập thơ Điên, là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, ra đời trong hoàn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mạc Tử với cô gái gốc Huế rơi vào tuyệt vọng.

– Có thể trích dẫn nội dung bài thơ.

THÂN BÀI

* Khái quát chung:

– Bối cảnh sáng tác bài thơ: Bài thơ được lấy cảm hứng từ bức ảnh do cô gái Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng. Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con đò, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được bức ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô gái mà mình thầm thương trộm nhớ, ông đã xúc động viết bài thơ này.

* Phân tích khổ thơ đầu: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế (thôn Vĩ)

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

– Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?“: lời trách móc, mời mọc tha thiết của cô gái Huế, cũng có thể là lời tự trách móc và dự cảm không hay về cuộc đời mình của chính tác giả.

– Hồi tưởng của nhà thơ về thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

+ Nắng mới lên ở những hàng cau: những tia nắng ban mai rực rỡ, phủ đầy không gian, trên tàu lá cau còn ướt sương đêm và xanh rời rợi.

+ Vườn xanh như ngọc: một màu xanh mơn mởn trong sớm mai tràn đầy sức sống, gợi sự trù phú, non tươi, mỡ màng tràn đầy sinh khí của khu vườn thôn Vĩ.

– Hình ảnh con người xứ Huế:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

+ Mặt chữ điền: biểu tượng của nét đẹp phúc hậu, hiền lành, trung thực.

+ Lá trúc chen ngang: lá trúc mảnh mai, gợi nét đẹp duyên dáng, kín đáo, dịu dàng của con người xứ Huế.

-> Nghệ thuật cách điệu hoá: trong những ngôi nhà vườn xinh xắn, sau những hàng tre trúc, thấp thoáng có bóng ai đó kín đáo, dịu dàng phúc hậu.

=> Con người và cảnh vật hòa quyện hài hòa tạo nên bức tranh tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Qua đó thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng thiết tha đằm thắm đối với cảnh và người xứ Huế. Tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một niềm khát khao trở về thôn Vĩ yêu thương.

* Phân tích khổ thơ thứ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

– Cảnh không gian mênh mông hiện lên với gió, mây, dòng nước, hoa bắp lay.

+ “Gió theo lối gió / mây đường mây”: gió đi một đường mây đi một ngả → sự xa cách chia lìa.

-> Nội tâm và dự cảm không lành trước sự chia li, cách biệt của sinh tử.

+ “Dòng nước buồn thiu / hoa bắp lay”: dòng sông lặng lờ như mang một nỗi buồn, hắt hiu không có bóng dáng của sự sống.

-> Sự bừng tỉnh của tác giả trước cảnh ngộ thê lương của bản thân, trước con đường tăm tối vô hương, vô sắc hiện hiện tại. Nhà thơ đã gửi nỗi buồn vào dòng sông.

=> Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa

– Không gian mờ ảo đầy ánh trăng: thuyền, bến, sông trăng

+ “Sông trăng”: hình ảnh lạ, đẹp, đầy thi vị. Dòng sông tràn ngập ánh trăng vàng. Con thuyền vốn là hình ảnh có thực được nhìn qua con mắt của thi nhân trở thành một hình ảnh mộng tưởng. Thuyền đậu trên bến sông trăng để trở trăng về một nơi nào đó trong mơ. Gợi lên vẻ đẹp lãng mạn, nhẹ nhàng, tất cả đang đắm chìm trong bồng bềnh mơ mộng, như thực như ảo.

+ “ai”: Đại từ phiếm chỉ gợi cảm giác mơ hồ, xa lạ, đầy ảo mộng.

– Câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?”: nỗi mong chờ, niềm hi vọng thiết tha cùng nỗi buồn man mác của nhà thơ.

-> Khát vọng một tình yêu đằm thắm, kín đáo, tha thiết, sự lo lắng của tác giả trước sự hữu hạn của đời mình, lo rằng liệu bản thân còn kịp tận hưởng ánh trăng sáng hay không.

=> Bức tranh sông Hương nên thơ, huyền ảo nhưng phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn. Sự chuyển biến cảm xúc đột ngột từ niềm vui của hi vọng gặp gỡ sang trạng thái lo âu đau buồn thất vọng khi tác giả nhớ và mặc cảm về số phận bất hạnh của mình.

* Phân tích khổ thơ thứ 3: Bức tranh cảnh vật, tâm trạng con người chìm sâu vào mộng ảo

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

– Mơ: trạng thái vô thức, nhà thơ đang đắm chìm trong cõi mộng.

– Điệp ngữ “khách đường xa”: nhấn mạnh khoảng cách xa rời, chỉ là khách trong mơ.

-> Tác giả nhận thức được nỗi cô đơn và trống trải của mình trước cuộc sống trần thế, tình yêu đang dần vụt mất.

– “Áo em trắng quá nhìn không ra”: sự choáng ngợp, thảng thốt trước sắc trắng không thực, trắng một cách kì lạ – màu trắng trong tâm tưởng.

– “Ở đây”: nơi nhà thơ dưỡng bệnh

– “mờ nhân ảnh”: sương khói làm mờ ảo cả bóng người.

-> mối tình mong manh, xa vời, không trọn vẹn.

=> Xứ Huế mơ mộng lắm khói sương và áo em trắng quá “mờ nhân ảnh” khiến nhà thơ không nhận ra. Lúc này đối với nhà thơ, tất cả như một màn sương hư ảo, cuộc đời như cách xa tầm tay với.

– Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?” : vừa như hỏi mình lại vừa hỏi người, vừa như gần gũi lại vừa xa xôi, vừa như hoài nghi lại vừa như giận hờn, trách móc.

=> Tâm trạng bâng khuâng, bất lực trong mặc cảm chia lìa của nhà thơ trước cảnh cũ người xưa, nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu cuộc đời và con người.

KẾT BÀI

– Khái quát lại giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm.

+ Giá trị nội dung: Bài thơ vừa là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước nhưng đồng thời cũng là khao khát sống đến cháy bỏng của nhà thơ.

+ Đánh giá về nghệ thuật: Biện pháp tu từ điệp từ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu từ…, thủ pháp liên tưởng và lấy động gợi tĩnh; hình ảnh sáng tạo, có sự hòa quyện giữa thực và ảo; sự hòa điệu giữa tả thực, tượng trưng, lãng mạn và trữ tình.


Hy vọng những gợi ý trên sẽ giúp được bạn hoàn thành tốt hơn với đề bài văn phân tích được đưa ra.

CÓ THỂ BẠN QUAN TÂM: