sự tha hóa và thức tỉnh — Đọc là đỗ mới nhất
Trong số các nhà văn hiện thực phê phán trước 1945, Nam Cao nổi bật với những tác phẩm đi sâu khai thác bi kịch của những kiếp người đau khổ trong bóng tối của xã hội. Thông qua các bài viết Luận Văn Chí Phèo Có thể khẳng định rằng Chí Phèo là một trong những kiệt tác của hắn về tài năng và phong cách nghệ thuật.
Ông đã dùng ngòi bút sắc sảo của mình để miêu tả cuộc sống vô cùng khó khăn của nhân dân ta. Họ bị bóc lột nặng nề, hay chính họ là nô lệ cho tầng lớp quan lại, bí bách không lối thoát. Trước thực tế đó, đã có biết bao nhà văn đứng lên bênh vực lẽ phải, phê phán hiện thực bằng ngòi bút của mình. Là một cây bút xuất sắc trong trào lưu văn học hiện thực, các tác phẩm của Nam Cao chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc, độc đáo không lẫn vào đâu được. Trong đó, “Chí Phèo” là kiệt tác viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám của ông. Qua câu chuyện nhân vật Chí Phèo đã truyền cho người đọc niềm tin yêu đối với những người lao động bất hạnh, đồng thời thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.
Hướng dẫn soạn 5 câu phân tích Chí Phèo dễ nhất trong các đề thi
TOP3 dàn ý và bài văn mẫu phân tích nhân vật Chí Phèo chi tiết nhất
Nghị luận văn học: Tóm tắt tác phẩm Chí Phèo

Truyện ngắn Chí Phèo được Nam Cao tái hiện hình ảnh nông thôn của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ (trước Cách mạng tháng Tám). Đó là một xã hội được đặc trưng bởi một bên là Bá Kiến, một bên là Lý Cường, một bên là Đội Tảo. Đây là nhóm cường hào, thống trị, thống trị bóc lột sức lao động của nhân dân. Nhưng nó cũng nằm trong mâu thuẫn nội tại này. Chúng giống như một đàn cá tranh giành con mồi. Mồi ngon nhưng bè nào cũng muốn ăn nên luôn chờ cơ hội lấn lướt nhau, muốn hạ gục nhau để đè đầu cưỡi cổ nhau. Xung đột khá phổ biến và gay gắt, liên quan đến số phận của Bình Chức, Năm Thọ và đặc biệt là Chí Phèo.
tiêu điểm phân tích Luận Văn Chí Phèo là lớp thứ hai. Đó là những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Bình Chúc, họ thành lập một nhóm riêng. Họ là những người dân bình thường, những người lao động nghèo khổ nhưng đã bị tha hóa, mua chuộc và trở thành tay sai cho bọn địa chủ, cường quyền, dối trá và gây ra nhiều tội ác. cho người lương thiện. Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội đầy kịch tính hiện lên, chứa đựng những mâu thuẫn bùng nổ.
Nghị luận văn học Chí Phèo điểm 1: Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo
Từ nông dân lương thiện đến du côn:
Chí vốn là một chàng trai không cha không mẹ, không người thân thích, không nhà cửa, không bạn bè, suốt tuổi thơ sống một cuộc đời cô độc: “đi tá túc từ nhà này sang nhà khác”. Lớn lên, ông làm quan canh ruộng cho các cường hào trong vùng. Lúc bấy giờ, Chí vẫn là một người nông dân lương thiện, khỏe mạnh về thể xác và lành mạnh về tinh thần – một con người “hiền như đất”, giàu lòng tự trọng, biết phân biệt tình yêu cao thượng với nhục dục thấp hèn. Chí đã từng mơ về một gia đình “chồng cày thuê, vợ dệt vải” – một ước mơ giản dị và rất nhân văn. Tuy nhiên, cơn ghen vô cớ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù, bắt đầu quá trình xa lánh một người. TRONG Luận Văn Chí Phèo thì đây là bước ngoặt quan trọng của tính cách nhân vật
Nhà tù vốn là nơi để tội nhân chuộc tội, là công cụ để cải tạo con người. Tuy nhiên, nhà tù thực dân đã tiếp tay cho những kẻ cường quyền, ác độc, giết người trong Chí Phèo, để Chí mãi mãi trượt dài trên con dốc của sự tha hóa. Trở về sau 7,8 năm ngồi tù, Chí Phèo trở thành “kẻ ngoại đạo” ở làng Vũ Đại bởi nỗi sợ hãi về ngoại hình: “Cái đầu hói… nhìn ghê quá!”. Không chỉ biến dạng về ngoại hình, hình dáng đến trang phục, khí chất cũng khác hẳn: “Nó mặc cái quần nái đen… trông gớm ghiếc”.
Còn Chí, giữa một xã hội mà ai cũng nghĩ “chắc là trừ mình”, lạnh lùng xa lánh anh. Anh chuốc rượu, chửi bới, dọa đốt quán, rạch mặt ăn vạ… Anh đã trở thành một phần tử du côn một cách mù quáng.
Từ côn đồ đến ác quỷ làng Vũ Đại
Không dừng lại ở đó, dưới bàn tay xảo quyệt của Bá Kiến, Chí Phèo đã trở thành công cụ phạm tội trong mắt dân làng Vũ Đại. Người đẩy Chí vào bước đường đó là Bá Kiến nhưng Chí Phèo không thể đòi lại công bằng cho mình. “Hắn đã làm quái thai bao nhiêu dân làng, phá bao nhiêu cơ nghiệp, phá bao cảnh yên bình, phá bao hạnh phúc, làm bao người lương thiện phải đổ máu và nước mắt… “.
Và cứ như thế, Chí Phèo lún sâu vào tội ác, vực thẳm của đau thương và tội lỗi, bị kẻ thù lợi dụng và trượt dài trên con đường tha hóa không lối thoát => Đây là bước ngoặt thứ hai trong cuộc đời Chí Phèo . Luận Văn Chí Phèo. Bi kịch đầy nghịch lý, vừa là nạn nhân của cường hào, thống lý độc ác, vừa là ác quỷ của làng, bị mọi người xa lánh, quay lưng. Ngòi bút nhân đạo của nhà văn Nam Cao đã phơi bày hiện thực trước mắt người đọc, đó là sự nghèo nàn của hoàn cảnh sống, sự nham hiểm, độc ác của bọn cường hào, địa chủ ở nông thôn, vô nhân tính. của nhà tù thực dân và những định kiến của đồng loại đối với những người nghèo khổ, khốn khổ như Chí Phèo. Chính xã hội bất nhân đã đẩy con người vào con đường phạm pháp, tha hóa.
Văn nghị luận chí phèo lập luận 2: Quá trình thức tỉnh của Chí Phèo
Sau đêm gặp Thị Nở
Lần đầu tiên sau cơn say triền miên, “chàng tỉnh” và nhận ra cuộc sống xung quanh qua những âm thanh: “Chim hót… cá…”. Những âm thanh của cuộc sống thực tại bên ngoài đang đánh thức anh dậy, kéo anh ra khỏi những tháng ngày tăm tối, thê lương, gợi nhớ về giấc mơ rất con người mà anh từng ấp ủ. Chí bừng tỉnh và sống lại với tình cảm và ý thức của con người cũng đã trở lại với mình.
Sự chăm sóc của Thị Nở đã thực sự hồi sinh tâm hồn Chí Phèo
Đó là lần đầu tiên Chí được chăm sóc bởi bàn tay đàn bà, bằng bát cháo hành giản dị, chân chất của Thị Nở. Chính bát cháo từ đôi bàn tay ấm áp yêu thương ấy đã khiến Chí “ngỡ ngàng”, “hết hồn”. bất ngờ, mắt anh hình như ươn ướt”. Bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm trong lành, những tình cảm rất con người. Đây là bước ngoặt thứ ba trong Luận Văn Chí Phèo. Anh ấy đã khóc. Bởi vì “đây là lần đầu tiên anh ấy được cho”, anh ấy được đối xử như một con người. Trước đây, để có miếng ăn, anh phải đe dọa, cướp của, rạch mặt ăn vạ… Đó là hương vị của bát cháo hành – hương vị của tình yêu chân thành và cảm động. Niềm hạnh phúc giản dị mà thấm thía mà Chí nhận được lần đầu tiên đã đánh thức phần nhân tính bị chôn vùi bấy lâu nay: “Trời ơi! Anh ấy khao khát sự trung thực… sự thân thiện của những người trung thực.” Thật kỳ diệu. Bản chất cao đẹp của người nông dân lương thiện bị chôn vùi bấy lâu đã bừng sáng trong tâm hồn Chí Phèo.

Thức tỉnh nhân quyền và bi kịch bị tước quyền làm người lương thiện
Trong lúc tưởng chừng như hạnh phúc đã thuộc về mình thì anh cay đắng nhận ra mình “không thể làm người lương thiện được nữa”, Thị Nở từ chối anh, mọi người từ chối anh. Anh ta đã gây ra bao nhiêu bất hạnh cho biết bao nhiêu người. Mọi con đường trở về cuộc sống giản dị lương thiện đã bị đóng lại. Anh thức tỉnh nên ý thức rất rõ bi kịch của đời mình, thấm thía và đau đớn.
Anh tìm đến rượu không làm anh say nhưng “càng uống càng tỉnh”. Ý thức của Chí là ý thức của một người mang quá nhiều nỗi đau và ý thức rất rõ cuộc đời của mình trong bất lực, buông xuôi. Sự từ chối của Thị Nở đã chấm dứt hy vọng của anh. Hơn bao giờ hết, anh cảm nhận được nỗi bất hạnh lớn đè nặng tâm hồn, để rồi chỉ biết bất lực “ôm mặt khóc”.
Từ cao trào thứ tư – cao trào cuối cùng trong Luận Văn Chí Phèo, không còn cách nào khác, Chí Phèo vác dao đến nhà Bá Kiến. Những vết cắt của cảm giác tội lỗi hằn sâu trên khuôn mặt anh, và anh biết đã quá muộn để quay đầu lại. Chí Phèo vung dao giết Bá Kiến nhưng hắn không để mình trở lại cuộc sống của một con quỷ như trước. Và lưỡi dao tàn ác cũng đã kết thúc một kiếp người đau khổ. Cái chết của Chí Phèo đầy uất hận nhưng đó là khát vọng của người nông dân tha hóa muốn được làm lương thiện. Chí Phèo chết vì muốn làm người lương thiện nhưng định kiến xã hội không cho hắn cơ hội. Chí Phèo chết trong chính sự nhận thức về bản thân và bi kịch bị chối bỏ.
Nghị luận văn học: Đánh giá chung
Việc miêu tả quá trình tha hoá và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo chính là yếu tố làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Tác phẩm là tiếng nói mạnh mẽ, tố cáo chế độ thực dân phong kiến đã đẩy bao người dân lương thiện đến bước đường cùng của sự tha hóa. Tác phẩm còn là niềm tin yêu đối với người lao động nghèo
Thể hiện quá trình tha hoá và thức tỉnh, Nam Cao đã thể hiện bản lĩnh của một ngòi bút hiện thực sắc sảo, tạo nên hình tượng nghệ thuật đa nghĩa, có sức sống nội tâm, để lại nhiều suy ngẫm trong lòng người đọc. . Quá trình tha hóa và thức tỉnh trong Luận Văn Chí Phèo được nhà văn Nam Cao thể hiện rất thành công. Bằng bút pháp nghệ thuật chặt chẽ của một cây bút văn học hiện thực xuất sắc và cảm nhận của một trái tim “đang sống, đang sống” giàu tình yêu thương con người và cuộc sống đã làm cho “người gần người hơn”.
Chí Phèo chính là tác phẩm về đề tài nông dân tiêu biểu nhất. Linh hồn của câu chuyện chính là nhân vật cùng tên được nhà văn miêu tả với một tấn bi kịch của số phận, cũng là bi kịch của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám nhưng dù bị tha hóa biến chất vẫn sáng lên nét đẹp về tâm hồn, vẫn khát khao được làm người lương thiện. Chúng ta hãy cùng đọc tham khảo một số bài văn phân tích tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao mà chúng tôi tổng hợp trong bài viết sau.

Phân tích Chí Phèo – Mẫu 1
“Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.
“Chí Phèo” thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao. Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác.
Tôi cho rằng “Chí Phèo” là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi – một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi.” Hắn – cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo – là một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi.
Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say, Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo.
Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều, đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật…
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác.
Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”.
Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.
Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say.
Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được.
Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân lương thiện”. Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: “Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.
Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội – một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “chó đểu”. Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào, có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo.
Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người.
Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Cũng lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại “đã già mà vẫn còn cô độc”, về quá khứ với ước mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với “đói rét, ốm đau và cô độc”. Con người ấy lần đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm.
Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng dõi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương – trở về với xã hội loài người.
Hắn tin rằng “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”; “Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi người lại không thể”. Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”.
Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương.
Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi “Ai cho tao lương thiện?” vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh.
Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thoại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngày nay Chí Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 2
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sáng tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.
Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nông dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong cái xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.
Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.
+ Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.
Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngẩn ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu. Chí Phèo ngạc nhiên ,xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí Phèo. Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hỏi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỷ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiên, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của Chí Phèo.
Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bi kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 3
“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam.
Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay.
Nam Cao không nói về sưu thuế dã man, không nói về tô tức mà ông có những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, có một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”, sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một mái lều che thân, không một tấc đất cắm dùi “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến.
Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là 20 năm trời đắng cay không chốn nương thân. Bi kịch của anh canh điền ngày bắt đầu từ chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà “lại cứ hav ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí không phải là gỗ đá, nhưng hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”. Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu. Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí giải lên huyện, bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Cái nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.
Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại “lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn: “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy… Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt. Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vô cùng ngang ngược. Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra Bá Kiến là kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho “Chí Phèo vô cùng hả hê”. Hắn mơ hồ về chuyện hắn “còn có họ” với lí Cường nữa đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù “bẩm quả đi ở tù sướng quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai sinh sự: “Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật”. Hắn nghiến răng hăm dọa: con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Cụ Bá cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi. Cùng kể từ đáy, Chí mất phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ, và chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”. Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?’’. Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như “cái mặt của con vật lạ” với màu ‘‘vàng vàng mà lại muốn xạm màu gió” với bao nhiêu là sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội lỗi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại: “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.
Chí Phèo đã bị cả xã hội ruồng bỏ. Cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Hắn chửi, ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó”, ai cũng chẳng thèm nghe, khác nào “những người say rượu hát”. Hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một người điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng. Hắn chửi tuốt, chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, “tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn!”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Hắn bị bao vây bởi một “sự im lặng đáng sợ”. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Hắn đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh liều mạng để tồn tại. Năm Thọ “đầu bò đầu bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết lại nở ra Chí Phèo. Biết đâu thị Nở lại không đẻ nơi lò gạch cũ một Chí Phèo con trong cái váy đụp nữa? Bọn hào lí, một mặt bóp nặn dân lành đến tận xương tủy, mặt khác “lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn là dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm thuê chém mướn, bằng cướp giật. Cái xã hội ấy đã cướp đi của họ cả bộ mặt lẫn linh hồn người, hủy diệt nhân tính và đã cự tuyệt quyền làm người của họ. Nhân vật Chí Phèo đã cho thấy cái quy luật tàn bạo ghê sợ đó trong xã hội cũ.
Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng là một tình tiết làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Tự Lãng có “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng và hoạn lợn. Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi. Lão cũng cô đơn như Chí Phèo. Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau mà cười”. Say rượu, lão Tự “bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra mà vuốt râu lão. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” đó một cách… Chí Phèo! Cuộc làm tình của Chí Phèo lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” mà thôi! Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ từng rạch mặt ăn vạ và đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm, thị Nở đã “quàng tay vào nách hắn” và “hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!”. Cũng lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền”… Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” mà thôi!
Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cả… Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!”, Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, là cô độc, cái này còn đúng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. “Nếu không còn sức mà cướp giật, dọa nạt nữa thì đã sao?”. Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!
Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện “cái bản tính của hẳn ngày thường bị lấp đi”. Cùng với “tình yêu” sự săn sóc của thị Nở, “trận ốm thay đổi hắn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm lí nữa” của Chí Phèo. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tâm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này đối với những con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.
Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Đàn bà cũng như thị Nở “không có men như rượu”, nhưng Chí “say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy là một câu nói “tình tứ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát, bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!… Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.
Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo “bám” được thị Nở cứ tưởng là vớ được cọc, đâu ngờ chỉ là rễ bèo. Chí Phèo “say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị nghĩ bụng: “hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà “sao mà đĩ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên “như con ma dại”. Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là “quỷ dữ” mất rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra; hắn “muốn làm hòa với mọi người” nhưng ai nhận! Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người’’ khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị, nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”.
Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn lấy một hòn gạch toan đập đầu ăn vạ! Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt khóc rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền“ như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”. Câu nói của Chí Phèo: “… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh. Chí không muốn sống nữa, vì giờ đây, ý thức về nhân phẩm đã trở về. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa, ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.
Chí Phèo là một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang tính chất điển hình, có ý nghĩa kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người dân cày nghèo vào kiếp sống tối tăm thú vật, cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện?” là câu hỏi chứa chất phần uất, đau đớn, mãi mãi làm day dứt lòng người. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống lương thiện, bình dị trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Với cảm quan hiện thực sắc sảo đặc biệt, Nam Cao đã vạch ra mối mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở nông thôn và tình trạng tha hóa phổ biến trong cái xã hội vô nhân đạo đó. Truyện “Chí Phèo” vừa chứa chan tình cảm nhân đạo, vừa mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đào, xứng đáng được coi là một kiệt tác.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 4
Khi Chí Phèo: “Ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gi gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ”. (Nguyễn Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y.
Đó cũng là chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.
“Bi kịch là tình cảm éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải chịu đựng” Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những câu văn ngắn, nhịp văn gấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng “cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người” … Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí, giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống – dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã. dẫu là vô ý thức, để tìm ra căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khó thay. Chí càng bế tắc. Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng cũng như sau đó, thị Nở “Không chỉ biết cho mà còn biết giữ” … giá như… giá như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người ở làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ không có cơ hội xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ dễ dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Chí là một “đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà góa bụa”. Năm từ “một” tồn tại trong một câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng với những người lao động. Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, “biết không thích những cái gì mà người ta khinh”. Anh khát khao có “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Nhưng đời đã không dành cho Chí cái mà anh có thế với trong tầm tay.
Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy – tám năm. Đây là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. “Hắn về lần này trông khác hẳn”. Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp đi của y một phần nhân hình. Ở tù ra trông hắn như một thằng “sững đá” (lính tẩy), đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất “cơng cơng” – “câng câng” thì còn ra cái mặt người. “Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết” Đó là hình dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau. Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì Bá Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với chính kẻ thù. Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua.. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn trên đời. Có thể nói, trước khi gặp Thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát, Chí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.
Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết cốt cách người ta sản sinh ra hắn là tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh của nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở lại làm người lương thiện. Vai trò, vị trí của thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn”, lại là nguồn sáng duy nhất còn lại ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí. Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của thị đã gợi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với thị Nở. Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn “sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc – cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu – dù là tình thương yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật vô biên. Nam Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở. Thị có thể sống chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay cho Chí. Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”.
Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã hội tước đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: “Không được nữa rồi chỉ còn cách này”, Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói những câu cuối cùng “đòi lương thiện” với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người.
Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức mở và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi khổ của người nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện cho cái phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể, nếu không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám “nuôi dưỡng”.
Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 5
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.
Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 6
Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng: “Trong mảnh sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao, có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật “có vấn để” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”.
Và nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật “có vấn đề” như thế, nhưng chính những lời văn mà tác giả viết về nhân vật này và những bi kịch mày phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.
Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”.
Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và cũng chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách.
Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình và rồi trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền.
Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.
Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”.
Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên sự có mặt của hắn ở trên đời.
Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm, lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí.
Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay nào hắn có thấy ai tự cho ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, hắn bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ và cùng với đó là khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập cùng mọi người, họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn tự đặt ra câu hỏi cho mình: hắn có thể làm bạn được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người mà Chí đặt niềm tin vào, Chí tin Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc sống đó.
Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa.
Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.
Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình yêu của hắn chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn ý thức được ai mới chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình.
Hắn xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến tột cùng, Chí đã tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó là cái chết, chết để kết thúc tất cả bi kịch của cuộc đời Chí.
Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của mình đối với những người có số phận bất hạnh. Ở sâu thẳm trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 7
Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã khắc họa bức chân dung của người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát. Kết cục tha hoá lưu manh hoá là tất yếu như một sự giải thoát. Qua nhân vật Chí Phèo nhà văn đã mang đến cho người đọc những giá trị nhân văn sâu sắc mà mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chí “chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”.
Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa.
Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”.
Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.
Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cong hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”.
Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”.
Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám.
Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.
Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc.
Con người xấu đến “ma chê quỷ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí.
Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy.
Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất.
Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó.
Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Thì nay chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ…
Ôi sao mà hắn hiền!“. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Đó là giây phút Chí “thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người”. Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở “hay là cậu sang đây ở với tớ một nhà cho nó vui”.
Từ một con quỷ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!
Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo.
Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.
Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe thoang thoảng mùi cháo hành rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến.
Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu trong con người của Chí, anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:
– Tao muốn làm người lương thiện– Ai cho tao lương thiện?
Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ.
Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 8
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nổi lên hình tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.
Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khó đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khó và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến số nhọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.
Đen năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình lí Kiến. Đen cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỷ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.
Ớ Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỷ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu biệt hắn với những người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thể ngay trong những hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hơn khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.
Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đời sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.
Sông, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chang khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thể khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tự’ ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mắt và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giới người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.
Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đời trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó hon.
Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại ở đó, Thị Nở đã từ’ chối “lời cầu hôn” của hắn bởi bà cô Thị không cho phép cháu bà lấy một thằng “chỉ có độc một cái nghề rạch mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong xã hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn là con quỷ dữ không ai còn tin hắn, hắn đã bị cả xã hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi kịch tuyệt vọng muốn làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn tìm đến rượu “hắn càng uống càng tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời bằng tiếng chửi, còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng nước. Vậy là đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn cũng chỉ là kiếp chó mà thôi. Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến. Đoạn văn được Nam Cao mô tả vô cùng tinh tế và hợp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa say, say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi theo thói quen của tiềm thức sâu xa như một tất yếu. Đến nhà bá Kiến Chí Phèo không xin tiền mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai cho tao lương thiện?”. Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là “Một câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến vô cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu trong cái xã hội ngục tù tăm tối ấy. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.
Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thể hiện được nhiều ý tưởng sâu xa góp phần tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm. Chí Phèo chết đã trở thành một bản án tố cáo xã hội đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của những người dân lương thiện. Chí chết cũng có nghĩa là anh ấy không chịu quay lại con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác. Anh ấy thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người.
Khi miêu tả bi kịch trong số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những nguyên nhân tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó có nguyên nhân khách quan, xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng có nguyên nhân chủ quan với bản thân những người nông dân cùng cảnh ngộ lại quay lưng vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô Thị Nở. Bị xua đuổi, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống trả (dẫu sự chống trả vô cùng tiêu cực, nhưng họ còn biết làm gì hơn?) bằng con đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với tư cách là những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Kết thúc tác phẩm, Nam Cao để Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng và thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ” hiện ra vắng người qua lại. Rất có thể một Chí Phèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao khắc hoạ thành công và khái quát thành quy luật bản chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt xã hội ấy đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp đế đòi lại quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hơn, trân trọng hơn hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.
Trên đây là Tổng hợp các bài văn nghị luận về tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao do dean2020.edu.vn đã tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hi vọng các bạn sẽ chọn cho mình một bài văn nghị luận thích hợp để phân tích tác phẩm Chí Phèo – Nam Cao hay nhé! Chúc các bạn học tốt!
TOP 17 mẫu Phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo siêu hay trong bài viết dưới đây sẽ giúp cho các thầy cô giáo và các em học sinh lớp 11 ôn tập, củng cố những kiến thức và kĩ năng đã học trên lớp. Đồng thời phân tích Chí Phèo sẽ là người bạn đồng hành hỗ trợ cho các em trau dồi vốn văn chương của mình, hoàn thiện bài văn khi ôn tập để đạt được kết quả cao trong các bài kiểm tra, bài thi học kì 1.

Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng. Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Hãy cùng Download.vn theo dõi 17 bài văn mẫu phân tích nhân vật Chí Phèo siêu hay trong bài viết dưới đây nhé. Ngoài ra các em xem thêm: phân tích tác phẩm Chí Phèo, Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, Cảm nhận nhân vật Chí Phèo và nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 11.
TOP 17 mẫu phân tích nhân vật Chí Phèo hay nhất
Dàn ý phân tích Chí phèo chi tiết
I. Mở bài
– “Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao.
– Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam-đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao.
II. Thân bài.
A. CON NGƯỜI CHÍ PHÈO CHẲNG NHỮNG BỊ TƯỚC ĐOẠT NHÂN TÍNH MÀ CÒN BỊ HỦY HOẠI CẢ NHÂN HÌNH NỮA.
1. Chí Phèo bị hủy hoại nhân hình.
Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo là một đứa con hoang, bị bỏ rơi bên một lò gạch cũ. Được dân làng nuôi, Chí Phèo, lớn lên như cây cỏ, tuổi thơ hết đi ở nhà này lại đi ở nhà nọ, tuổi thanh niên ra sức làm thân trâu ngựa cho nhà lí Kiến. Vì một chuyện ghen tuông vớ vẩn, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng, Chí Phèo đã hoàn toàn biến đổi. Ngoại hình thật kinh tởm, cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gườm trông gớm chết.
Chí Phèo chuyên đập đầu, rạch mặt và đâm chém người cho nên cúi mặt hắn vàng mà lại muốn xạm màu gio, nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo.
Người cố nông ấy hoàn toàn bị tước đoạt nhân hình, biến thành nửa người nửa vật: nó không còn phải là mặt người: nó là mặt của một con vật lạ.
2. Chí Phèo bị tước đoạt nhân tính.
Từ lúc về làng, Chí Phèo hoàn toàn không kiểm soát được hành động của mình. Khi mua chịu rượu, bà hàng ngần ngừ không muốn đưa thì hắn rút bao diêm, đánh cái xòe, châm lên mái lều của mụ. Mụ hoảng hốt kêu gọi om sòm, vội dập tắt được ngọn lửa mới chạy, rồi khóc lóc mêu mêu, mụ đưa ra chai rượu.
Chí Phèo hoàn toàn bị tha hóa, hành động như người mất trí. Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm. Trong cơn say, Chí Phèo hành động tàn bạo như một con quỷ dữ, hoàn toàn mất nhân tính. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn say, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận (…). Hắn biết đâu đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện!.
B. NGƯỜI NÔNG DÂN BỊ LƯU MANH HÓA ẤY CUỐI CÙNG ĐÃ THỨC TỈNH.
1. Người nông dân bị tha hóa.
Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá, thậm chí bị huỷ hoại hoàn toàn của Chí Phèo, bản chất lương thiện ngày thường bị che lấp đi, vẫn le lói một ánh lương tri, sẽ bừng sáng khi gặp được cơ hội. Lúc được thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn phải dọa nạt hay giật cướp mới có.
Tình cảm chân thật của thị Nở đã khơi dậy ý thức và lương tâm của Chí Phèo. Từ lúc này, Chí mới ý thức tình trạng tha hóa của mình và bi kịch bắt đầu diễn ra trong đời sống nội tâm.
2. Cuối cùng đã thức tỉnh
Sau khi được thị Nở chăm sóc, lần đầu tiên khi tỉnh giấc, Chí Phèo bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ thì niềm ao ước có một gia đình nho nhỏ bừng lên. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù?.
Bản chất tốt đẹp của người lao động thức tỉnh trong lòng Chí: Trời ơi. Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!… Người ta sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện .
C. ĐIỀU BI THẢM LÀ ANH TA CHỈ MUỐN TRỞ LẠI LÀM NGƯỜI MÀ KHÔNG ĐƯỢC
1. Chí Phèo lại rơi vào bế tắc
Chí Phèo tha thiết muốn trở về sống lương thiện với mọi người, nhưng tất cả làng Vũ Đại đều sợ hãi, xa lánh anh ta. Thị Nở lại “cắt đứt” với Chí Phèo. Chí lại rơi vào tình thế hoàn toàn tuyệt vọng: Sống lương thiện thì không được chấp nhận, làm lưu manh như cũ thì không thể và cũng không muốn.
Những lời lẽ cuối cùng của Chí Phèo bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm đó: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này! Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không!”.
2. Bi kịch biến thành thảm kịch
Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch đời Chí, rồi tự sát.
Nhân vật Chí Phèo được xây dựng thành công: vừa có nét khái quát, vừa có cá tính. Người cố nông đó đã vừa bị hủy hoại nhân hình, vừa bị tước đoạt cả nhân tính. Nhân vật được miêu tả sâu sắc từ chân dung đến tính cách, từ bộ mặt đến những diễn biến tâm lí.
III. Kết bài.
Tác phẩm Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện ở tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ. Tác giả phát hiện những phần sâu kín nhất trong tâm hồn của họ, những gì còn lại của tình người, sự khát khao hạnh phúc, ước muốn yêu thương, nhất là quyền được làm người lương thiện.
Chí Phèo là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh: Hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện, để họ được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ mất cả nhân hình lẫn nhân tính đầy bi kịch xót xa.
Phân tích nhân vật Chí Phèo ngắn gọn
Giai đoạn những năm trước Cách mạng tháng 8 là thời kỳ vô cùng đen tối trong lịch sử dân tộc, trong đó số phận của những người nông dân dưới ách thống trị của thực dân phong kiến đã trở thành đề tài được nhiều nhà văn đương thời chú ý và khai thác tập trung, triệt để. Nổi bật trong số đó, phải kể đến các tác giả như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan với Tinh thần thể dục 1, 2, hoặc Kim Lân với Vợ Nhặt,… Nhưng có lẽ chưa bao giờ người ta lại thấy số phận người nông dân đau đớn, tuyệt vọng đến tột cùng như trong các tác phẩm của Nam Cao, một nhà văn có lối viết lạnh lùng, chân thực đến trần trụi của nền văn học hiện thực Việt Nam. Chí Phèo là một nhân vật điển hình và gây ấn tượng mạnh mẽ trong văn đàn với số phận trái ngang và những bi kịch đớn đau tàn phá cả thể xác lẫn tâm hồn, từ chuyện bị lưu manh hóa, cho đến bị tha hóa thành con quỷ dữ, rồi cuối cùng đớn đau nhất là bi kịch bị từ chối quyền làm người.
Bi kịch của Chí Phèo có lẽ đã bắt đầu từ khi hắn mới lọt lòng mẹ, một đứa trẻ đỏ hỏn bị người ta bỏ rơi bên cái lò gạch cũ trên người chỉ quấn độc một cái váy đụp cũ, có biết bao nhiêu đáng thương và xót xa cho một kiếp người mới khởi đầu đã đầy đau thương? Hắn được đặt cho một cái tên dẫu đơn giản nhưng nhiều ý nghĩa, phải tên hắn là Chí, một cái tên hiền lành, đáng yêu biết bao. Đứa trẻ tội nghiệp ấy cũng chẳng có lấy nửa phần may mắn là được một gia đình tử tế nhận nuôi, mà bị truyền tay hết từ người này sang người khác, rồi cuối cùng lớn lên trong cái nôi nghèo khó của làng Vũ Đại. Thế rồi Chí cũng lớn lên yên ổn, trở thành một chàng trai khỏe mạnh, hiền lành, chất phác, tu chí làm ăn, trở thành anh canh điền cho nhà Bá Kiến, kiếm sống bằng chính mồ hôi công sức của bản thân. Không chỉ vậy con người anh còn nổi bật với những ước mơ dẫu giản dị nhưng cao đẹp, Chí ao ước có một mái ấm hạnh phúc, chồng làm ruộng vợ dệt vải, có mảnh vườn xinh, có vài con lợn. Đó không phải là mơ ước gì quá cao xa bồng bột, nhưng có lẽ đối với cuộc đời của chàng trai hơn 20 tuổi đầu này lại là một thứ viển vông, thậm chí còn là căn nguyên dẫn đến những tột cùng bi kịch. Điều ấn tượng thứ hai về con người hiền lành, chất phác này ấy là tấm lòng tự trọng, biết giữ liêm sỉ, trước sự ve vãn mời gọi của bà ba – vợ Bá Kiến, nhưng một chàng trai đang độ tuổi thanh xuân là Chí lại chẳng hề có chút suy chuyển, Chí chỉ thấy nhục nhã. Cái lương tâm con người không cho phép anh làm chuyện bại hoại ấy, dù là về thể xác hay cả về những lợi ích tiền tài khác, trong tâm hồn anh hiện lên một triết lý rất đáng để người ta trân trọng yêu thương rằng “Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. người ta không thích cái gì người ta khinh”. Thế mà, lẽ sống lương thiện, sạch sẽ ấy lại phải chịu cái kiếp vùi dập dưới ách thống trị của chế độ tàn ác, thực dân nửa phong kiến bởi chính cái lòng lương thiện của mình.
Từ Chí biến thành Chí Phèo, cũng chỉ bởi cái xấu xa đê tiện của lũ người thống trị, một người đàn bà đa dâm, lăng loàn, một người đàn ông sợ vợ, bất lực là Bá Kiến chẳng biết trút cái sự ghen tức, phẫn nộ của mình vào đâu ngoại trừ anh canh điền tội nghiệp. Và thế là Chí nghiễm nhiên được ban cho cái tội ăn cắp, ăn trộm, rồi bị tống thẳng vào tù 7, 8 năm trời, dở sống dở chết với lũ quan sai. Nhưng nó đâu phải là một cái nhà tù bình thường cho người ta cơ hội được sống, được cải tạo, mặc dù Chí cũng chẳng làm gì sai. Mà cái nhà tù ấy đã đày đọa, nhào nặn biến con người ta thành một kẻ ghê gớm, bặm trợn, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người từ biết tự trọng, liên sỉ thành một kẻ lưu manh, suy đồi về đạo đức, cũng chẳng thèm biết đến tự trọng là gì nữa. Còn đâu một chàng trai độ hai mươi tuổi sung sức, trẻ trung mà giờ đây người ta chỉ thấy ái ngại, khiếp sợ trước một con người có dáng vẻ khác thường, khác người “trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Người ta đã không còn nhận ra anh canh điền hiền lành, chất phác ngày xưa nữa, mà trước mắt chỉ thấy một kẻ giống đặc như lưu manh, và rồi người ta lại càng chắc chắn điều đó hơn khi chứng kiến hắn uống rượu ăn thịt chó ở ngoài chợ suốt từ trưa tới chiều. Đến lúc đã say khướt thì chân nam đá chân chiêu mò đến nhà Bá Kiến vừa đi vừa chửi, không ai dám tiếp hắn hay chửi lại, thành thử ra người ta thấy xuất hiện một hình ảnh bi hài, người chó xướng ca khi “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Rồi người ta còn bất ngờ hơn khi thấy thằng say rượu ấy sống chết lăn vào đánh nhau với Lý Cường con trai của Bá Kiến, đánh không lại thì nằm lăn ra ăn vạ, và ăn vạ một cách vô cùng cực đoan ghê rợn. Chí Phèo đập nát vỏ chai rồi tự rạch mặt mình, máu me chảy bê bết, sẵn sàng lên giọng thách thức với Bá Kiến “Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đây thôi”. Như thế có thể thấy rõ rằng, Chí Phèo đã hoàn toàn bị tha hóa về nhân cách trở thành một kẻ lưu manh chính hiệu, cực đoan và ghê gớm
Thế nhưng, những tưởng sự liều mạng và ngoại hình kinh khủng của Chí sẽ khiến Bá Kiến sợ, nhưng trái lại nó lại trở thành món lợi cho kẻ gian xảo lọc lõi như Bá kiến, bởi vốn dĩ ông ta đã quá hiểu và quá quen với những kẻ như Chí Phèo. Sự u mê, ít học của Chí đã khiến hắn trượt dài trên con đường tha hóa nhân cách vào mức đường không thể vãn hồi. Bá kiến chỉ bằng vài lời ngon ngọt, êm tai, thêm vài đồng tiền đã có thể dỗ dành Chí Phèo trở thành tay sai cho mình, thay mình đâm thuê chém mướn, trở thành con qủy dữ của làng Vũ Đại. Còn đắng cay thuê Chí Phèo lại không hề nhận ra mình đang tiếp tay cho kẻ thù, đang tiếp tay cho cái ác, mà vẫn ngày ngày bán lẻ nhân cách để lấy vài đồng bạc uống rượu triền miên hơn chục năm trời. Để rồi trong tầm mắt của làng Vũ Đại, Chí đã trở thành một con gì ấy rất lạ, không phải một con người có nhân tính mà là một gương mặt “vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo”. Đọc mà thấy xót xa cho một kiếp người chẳng được làm người, mà lại được xem như một “con vật lạ”, từ một kẻ vốn chỉ ham rượu chè đến một kẻ triền miên trong những cơn say dài, “cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận” Suốt 15 năm, nhưng đời người có được bao nhiêu cái 15 năm ấy, Chí Phèo đang tự tay chôn vùi cuộc đời mình với sự ủng hộ tuyệt đối của bè lũ thống trị phong kiến tay sai, thật xót xa và đau đớn. Rượu đã dẫn lối cho Chí lao vào những cuộc thanh trừng mà Bá Kiến chỉ đạo, biết “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!”, rồi riết hắn nghĩ đó chính là cuộc đời mình. Nhưng người ta vẫn có thể nhận ra rằng, Chí Phèo dẫu có tha hóa, lưu manh hóa thì hắn vẫn khao khát được giao tiếp lắm, nhưng cái cách giao tiếp của hắn làm người ta ngày càng sợ và xa lánh. Hắn chửi trời, đất, chửi tất cả và “chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo?”, để khiến hắn đớn đau, lay lắt trên đời hơn 40 năm ròng rã. Cuối cùng thì chẳng ai thèm quan tâm đến cái thằng chuyên chửi ấy, người ta chỉ cốt sao tránh cho thật xa, Chí Phèo phải nhận bi kịch thất bại trong giao tiếp, bị từ chối quyền làm người trong cô độc và tuyệt vọng.
Có lẽ bi kịch của Chí chỉ dừng lại ở đấy thôi, nhưng không cái xã hội thối nát này nó không dồn con người ta vào đường cùng thì có lẽ vẫn không chịu buông tha. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở, chính là bước ngoặt lớn nhất trong đời Chí, kể từ cái ngày hắn bị tống vào tù. Người đàn bà xấu đau xấu đớn ấy, lại đem đến cho Chí những nhận thức sáng sủa về thế giới xung quanh, đó là tiếng chim hót ríu rít, tiếng người nói chuyện cười đùa, và cả thứ ánh sáng mặt trời qua vách nứa mà có lẽ gần 20 năm qua hắn chẳng hề ngó ngàng tới. Sau khi nhận thức được sự sống ngoài kia, hắn mới nhìn lại cái thân thể yếu ớt, rã rời của mình, hắn chợt nhận ra mình đã bước sang hẳn bên kia con dốc của cuộc đời trong vô thức. Rồi Chí Phèo cũng dường như dự đoán được tuổi già ốm yếu, bệnh tật và sự cô độc. Hắn còn sợ cái đói cái rét hơn cả sự cô đơn, bởi vốn dĩ hắn đã cô đơn lắm rồi. Những lời tình tứ, ân cần và bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở đã làm bùng cháy dậy những khao khát hạnh phúc, khao khát được quay về cuộc đời lương thiện, làm sống lại những mơ ước thời trai trẻ “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!(…). Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện…”.. Sau ngần ấy năm bê tha, cuối cùng cái tâm hồn thiện lương, đã quay trở lại với Chí, hắn khóc vì xúc động trước cái tình người của Thị Nở, rồi sau đó là tình yêu với thị, và những mong ước có lẽ sẽ trở thành hiện thực. Và Thị Nở sẽ trở thành cầu nối dẫn hắn về với cuộc sống bình thường, được hưởng hạnh phúc và hắn lại như xưa, sống chan hòa trong vòng tay yêu thương của làng Vũ Đại.
Nhưng trời nào có chiều lòng người, chỉ một câu nói chua ngoa gay gắt của bà cô, người đàn bà ế chỏng trơ, thấy cháu gái có chồng thì liền không cam lòng, và sự dở hơi của Thị Nở đã hoàn toàn chặt đứt mọi hy vọng của Chí, đẩy hắn vào vực sâu không lối thoát. Khiến hắn nhận ra sự thật nghiệt ngã rằng xã hội và những định kiến sẽ chẳng bao giờ cho hắn làm lại từ đầu, không bao giờ. Việc Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát có thể xem là một cái kết hợp lý nhất cho những bi kịch chất chồng của nhân vật. Là minh chứng cho sự quay lại của tính người, bản chất lương thiện bất diệt trong tâm hồn Chí Phèo, đồng thời cũng là nhận thức của Chí về bộ mặt của những kẻ cầm quyền, mà chỉ khi tiêu diệt chúng thì bi kịch mới kết thúc triệt để.
Chí Phèo của Nam Cao là một tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất cho nền văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng. Phản ánh sâu sắc số phận cùng khổ của người nông dân trong xã hội cũ và sự tàn ác, vô nhân đạo của giai cấp thống trị đã đẩy con người ta vào bước đường tha hóa, bi kịch đến tột cùng. Bên cạnh đó một giá trị không kém phần quan trọng của tác phẩm đó chính là bộc lộ được vẻ đẹp bất diệt của tấm lòng lương thiện, tình người còn ẩn sâu trong tâm hồn nhân vật, dẫu rằng nó có bị giày vò, chà đạp bởi đủ thứ bất công.
Phân tích nhân vật Chí Phèo
Nhân vật Chí Phèo – Mẫu 1
Để chọn một tác phẩm hay nhất phản ánh được tận cùng thân phận của người nông dân trong xã hội cũ thì không thể không nhắc đến tác phẩm Chí Phèo. Mới đầu người ta nghĩ nhân vật anh Pha trong “Bức đường cùng” của Nguyễn Công Hoan bị sưu thuế đè nặng và đẩy vào tình cảnh nghèo đói, không lối thoát. Rồi cho đến nhân vật chị Dậu người ta lại thấy tình cảnh người nông dân khổ sở thêm mức nữa bởi chị phải bán chó bán con để đóng sưu. Tưởng chừng không còn gì để khổ hơn thì Chí Phèo trong trang sách của Nam Cao ngật ngưỡng bước ra thì người ta mới cảm nhận thấy được đây mới là sự tận cùng của cái khổ. Chí Phèo bán cả nhân hình lẫn nhân tính của mình để nhận được cái kết là trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhân vật Chí Phèo chí là hiện thân đầy đủ nhất về nỗi khổ của người nông dân trong xã hội và khiến cho tác phẩm “Chí Phèo” vẫn còn sống đến tận bây giờ.
Có thể thấy được nhân vật Chí Phèo hiện lên với một nỗi bi kịch. Đó chính là bi kịch của một nông dân cùng khổ đã bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, Chí Phèo đã bị cự tuyệt quyền làm người. Nói một cách dễ hiểu thì số phận bi thảm của một con người muốn được làm người – đây là quyền ai cũng có cả thế nhưng với Chí Phèo lại không được như thế. Nhà văn Nam Cao thật tài tình khi đã viết về tấn bi kịch của nhân vật vô cùng sắc sảo. Thêm với đó thì luôn biết biến hóa lúc kể, lúc tả, có lúc thì triết lí thì thấm thía vô cùng trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật. Đồng thời cũng đã lại làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỷ nay.
Nhà văn Nam Cao dường như không nói về sưu thuế đã khiến con người có được những khám phá riêng về chính số phần của người lao động. Người lao động bị chà đạp và đồng thời họ cũng có một cái nhìn thật mới mẻ và cũng thật độc đáo, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức, bóc lột đến tàn tệ trong xã hội nửa thực dân, nửa phong kiến.
Xây dựng lên nhân vật Chí Phèo bất hạnh chính ngay từ khi sơ sinh theo lời kể của nhà văn Nam Cao “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Thế rồi có anh thả ống lươn thấy và đem cho một người đàn bà góa mù nuôi, sau đó Chí Phèo cũng lại bị đem bán cho bác phó cối. Chí Phèo – một anh nông dân lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, lại còn nghèo đến mức không một mái lều che thân cũng chẳng có lấy một tấc đất cắm dùi. Chí Phèo sống cứ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ cho đến năm 20 tuổi thì nhân vật Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến.
Nam Cao nói về trang đời thơ ấu vô cùng bất hạnh của Chí Phèo đó chính là khoảng thời gian 20 năm trời đắng cay. Chính tấn bi kịch của anh canh điền này bắt đầu từ câu chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà bà Ba lại cứ “hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí Phèo là người chứ không phải là gỗ đá, nhưng hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ. Thế rồi xuất phát chỉ một chuyện ghen tuông không đau thôi mà Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí Phèo giải lên huyện, đồng thời cũng lại bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Khi Chí Phèo ở nhà tù thực dân đã biến anh từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, trở thành một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.
Chí Phèo đi tù biệt tăm và rồi khi trở về thì trông ngoại hình của Chí đã khác hẳn. Câu văn miêu tả “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy”… Tất cả đó là một hình ảnh của Chí Phèo, đã vậy Chí lại chuyên rạch mặt ăn vạ. Ra tù phải đến nhà Bá Kiến để hỏi tội và Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vô cùng ngang ngược. Thế nhưng chỉ một bữa rượu thịt, một vài câu mơn trớn thêm với đó là một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho Chí Phèo vô cùng hả hê và quên hết Bá Kiến đã đẩy mình vào tình trạng như thế.
Chưa hết, Bá Kiến hiểu được “Thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ 2 sợ kẻ cố cùng liều thân” cho nên đã ngon ngọt nịnh Chí Phèo trở thành đầy tớ chân tay mới của Bá Kiến. Chí Phèo đã bán mình cho quỷ dữ cũng chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm khiến ai ai cũng phải sợ. Chí như cứ triền miên, chìm ngập vào trong vũng bùn vô cùng tăm tối và tội lỗi với hơi rượu. Rượu đã làm cho Chí Phèo mất hết ý niệm về thời gian, tuổi tác, Chí không nhớ một điều gì nữa cả. Hình ảnh Chí Phèo hiện lên là một con vật lạ, trên mắt có đầy những vết rạch mặt dọc ngang thật ghê sợ. Chí Phèo đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu, cứ những cơn say của Chí như cứ từ cơn say này sang cơn say khác. Chí đã bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh hóa bao nhiêu tội lỗi. “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.
Chí Phèo lúc này đây cũng đã bị cả xã hội ruồng bỏ, ngay cả cái thẻ có biên tên tuổi của Chí Phèo cũng không có trong sổ làng. Thế rồi chính người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán đã rất lâu năm không về làng. Thực sự giờ đây mỗi khi hắn xuất hiện thì cả dân làng đều sợ hắn, thậm chí là còn tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua. Chí Phèo chửi thì ai cũng nghĩ chắc “nó chừa mình ra”, tiếng chửi như xuất hiện ngay đầu câu chuyện khiến nó cứ ám ảnh về một con người nhưng lại bị cả xã hội không công nhận. Người ta giao tiếp với nhau bằng tiếng nói còn đối với Chí Phèo thì lại dùng tiếng chửi. Thế nhưng cũng không ai để ý đến Chí nữa, Chí Phèo như đã bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.
Thông qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến đồng thời cũng có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc. Trong chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến cũng có rất nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào chính con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh liều mạng để tồn tại. Qua tác phẩm “Chí Phèo” nhà văn Nam Cao đã gửi gắm một điều đó chính là chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, nhẫn tâm, độc ác và áp bức bóc lột tàn tệ dân lành thì chừng đó chắc chắn sẽ còn người lao động lương thiện, hiền lành bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi. Chính cái xã hội đó cũng đã lấy mất đi linh hồn của Chí Phèo, hủy diệt nhân tính, nhân hình của một anh nông dân chất phác. Nhà văn Nam Cao cũng đã cho thấy được quy luật bạo tàn, ghê sợ trong xã hội cũ.
Và rồi cho đến khi Chí Phèo gặp Thị Nở. Thị Nở được miêu tả là một người xấu đến ma chê quỷ hờn. Sau cuộc làm tình mang tính bản năng của Chí Phèo thì với sự chăm sóc cẩn thận của Thị Nở Chí Phèo lúc này cũng đã khiến cho Chí Phèo thay đổi. Sáng hôm sau, lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh dậy trong cơn say triền miên tưởng không dứt. Chí Phèo bị cảm và Thị Nở đã chăm sóc cũng như nấu cho Chí một bát cháo hành. Cuộc đời Chí muốn ăn thì phải cướp, giành lấy chứ chưa bao giờ được ăn và lại được người khác mang cho như này. Chí Phèo – một con quỷ dữ của làng Vũ Đại ai ai cũng sợ hắn và duy chỉ có thị Nở mới nhận ra Chí Phèo sao mà hiền!
Chí Phèo tỉnh trong cơn say triền miên thì có những tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói có cả tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cả… Tất cả những điều này đó chính là những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy rõ nhất, đó chính là tiếng của nhịp sống mà lâu nay Chí đã bỏ quên. Trong lòng Chí Phèo như cũng vô cùng buồn và mong muốn có thể làm hòa với mọi người, muốn trở thành người lương thiện. Bất giác Chí như nhớ về ước mơ bình dị bấy đó là ước mơ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”. Chí nhớ lắm và Chí lại lo sợ về cuộc đời, Thị Nở chính là người đã khiến cho Chí nhận ra được cuộc sống ý nghĩa.
Bằng con mắt tinh tế, thấu hiểu nhân vật nhà văn Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện. Ở Chí thì cái bản tính của hẳn ngày thường bị lấp đi và được sự chăm sóc của thị Nở thì nay đã hồi sinh trở về. Thực sự đó cũng chính là một cái nhìn vô cùng sâu sắc cùng với tấm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn đối với những kiếp người lương thiện mà bị xã hội xa lánh.
Khi mà linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra thì bỗng nhiên Chí Phèo bỗng thấy thèm lương thiện thế những định kiến xã hội – bà cô thị Nở cấm đoán đã khiến cho Chí không thể hoàn lương. Ở Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng và muốn “đâm chết con đĩ Nở kia, đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Chí lại tìm đến rượu, và khác với những cơn say khác Chí rất tỉnh táo khi nhận ra được kẻ thù của mình chính là Bá Kiến. Chí xách dao đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện bằng cách đâm chết Bá Kiến sau đó cũng tự kết liễu đời mình. Khi ý thức về nhân phẩm đã trở về thì Chí Phèo không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ và không thể chấp nhận được kiếp sống như thú vật được nữa. Cái chết của Chí Phèo rất bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình. Anh chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, ám ảnh vì anh chết ngay trên ngưỡng cửa về cuộc đời.
Nhân vật Chí Phèo là một nhân vật, một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang tính chất điển hình. Ở nhân vật cũng đã lên án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người dân cày nghèo vào kiếp sống tối tăm thú vật, xã hội đó cũng đã cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người để trở thành quỷ dữ. Câu nói của Chí Phèo kết thúc chuyện thực sự ám ảnh, nó giống như một lời tố cáo đanh thép của nhà văn trước xã hội đầy bất công đã đẩy người nông dân vào mức đường cùng không lối thoát. “Ai cho tao lương thiện?”
Với tác phẩm “Chí Phèo” nhà văn đã viết lên một câu chuyện như vừa chứa chan tình cảm nhân đạo, đồng thời cũng lại mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật độc đáo. Tất cả từ hình thức đến nội dung của truyện đã đạt đến độ độc đáo, xứng đáng được coi là một kiệt tác văn học của dòng văn học hiện thực phê phán.
Nhân vật Chí Phèo – Mẫu 2
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nổi lên hình tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.
Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khó đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khó và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến số nhọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.
Đen năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình lí Kiến. Đen cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỷ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.
Ớ Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỷ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu biệt hắn với những người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thể ngay trong những hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hơn khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.
Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đời sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.
Sông, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chang khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thể khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tự’ ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mắt và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giới người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.
Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đời trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó hon.
Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại ở đó, Thị Nở đã từ’ chối “lời cầu hôn” của hắn bởi bà cô Thị không cho phép cháu bà lấy một thằng “chỉ có độc một cái nghề rạch mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong xã hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn là con quỷ dữ không ai còn tin hắn, hắn đã bị cả xã hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi kịch tuyệt vọng muốn làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn tìm đến rượu “hắn càng uống càng tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời bằng tiếng chửi, còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng nước. Vậy là đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn cũng chỉ là kiếp chó mà thôi. Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến. Đoạn văn được Nam Cao mô tả vô cùng tinh tế và hợp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa say, say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi theo thói quen của tiềm thức sâu xa như một tất yếu. Đến nhà bá Kiến Chí Phèo không xin tiền mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai cho tao lương thiện?”. Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là “Một câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến vô cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu trong cái xã hội ngục tù tăm tối ấy. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.
Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thể hiện được nhiều ý tưởng sâu xa góp phần tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm. Chí Phèo chết đã trở thành một bản án tố cáo xã hội đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của những người dân lương thiện. Chí chết cũng có nghĩa là anh ấy không chịu quay lại con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác. Anh ấy thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người.
Khi miêu tả bi kịch trong số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những nguyên nhân tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó có nguyên nhân khách quan, xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng có nguyên nhân chủ quan với bản thân những người nông dân cùng cảnh ngộ lại quay lưng vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô Thị Nở. Bị xua đuổi, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống trả (dẫu sự chống trả vô cùng tiêu cực, nhưng họ còn biết làm gì hơn?) bằng con đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với tư cách là những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Kết thúc tác phẩm, Nam Cao để Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng và thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ” hiện ra vắng người qua lại. Rất có thể một Chí Phèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao khắc hoạ thành công và khái quát thành quy luật bản chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt xã hội ấy đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp đế đòi lại quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hơn, trân trọng hơn hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.
Nhân vật Chí Phèo – Mẫu 3
Chí Phèo là một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong dòng văn học hiện thực Việt Nam đầu thế kỉ XX. Qua Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên bức tranh ám ảnh về vùng quê nghèo Việt Nam trước Cách mạng, nơi mà những con người hiền lành bị đẩy lui vào tới bước đường cùng mà tha hóa, trở thành những kẻ lưu manh. Và Chí Phèo được Nam Cao dựng lên là một con người như thế! Hắn trở thành một hình tượng điển hình cho lớp người nông dân nghèo đói bị bức áp vào đường trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng.
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, là kiệt tác nói của dòng văn học hiện thực Việt Nam. Nam Cao đã vẽ lên bức tranh làng quê Việt trước Cách mạng tháng Tám, nơi mà nghèo đói và những luật lệ áp chế con người, biến con người trở thành những kẻ khốn nạn, đẩy con người vào cảnh khốn cùng. Chí Phèo được sinh ra và lớn lên giữa một xã hội như thế, một xã hội mà định kiến có thể giết chết một con người và luật lệ thì được dựng lên trong tay những kẻ có quyền. Chí Phèo đã sống và bị những định kiến, luật lệ ấy áp tới đường cùng, trên con đường ấy, hắn đã tha hóa, biến thành một “con quỷ” sống của làng Vũ Đại để rồi đến khi chết, hắn vãn chỉ ở bên ngưỡng cửa được trở thành người lương thiện.
Chắc hẳn không một tác phẩm nào trong nền văn học Việt lại có một cách vào truyện đặc sắc như Chí Phèo của Nam Cao. Mở đầu câu chuyện không phải là những lời hoa mĩ, đẹp đẽ mà lại là tiếng chửi vang vọng qua từng câu trong trang sách. Tiếng chửi ấy mở ra hoàn cảnh xuất hiện của hình tượng Chí Phèo – một con người “từng lương thiện”.
Chí Phèo không xuất hiện như Từ Hải rằng “Râu hùm, hàm én, mày ngài”, không có một lời miêu tả hình dáng, bởi hắn xuất hiện bằng tiếng chửi trong cơn say “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Sự xuất hiện của hắn thật đặc biệt! Chẳng cần một lời miêu tả hình dáng, chúng ta vẫn như thấy hình ảnh của một tên say rượu, lảo đảo cất bước và cất tiếng chửi giữa xóm làng.
Thế nhưng, không như những người say rượu bình thường hay gây sự chửi bới vô cớ khác, Chí Phèo lại chửi theo một cách hợp lý mà hợp lý đến bất thường. Tiếng chửi ấy nghe có vẻ vô lý thế nhưng lại khiến cho người đọc cảm thấy vô cùng logic, vô cùng đúng đắn với một tên say rượu đang ngất ngưởng cãi nhau với đời. Tiếng chửi của Chí bắt đầu từ trời, cái chung nhất của thế gian, nhưng “Trời có của riêng nhà nào?”, thế là hắn “chửi đời”, nhưng “đời là tất cả nhưng chẳng là ai”. Rồi hắn lại chửi cả làng Vũ Đại, rồi chửi đứa không chửi nhau với hắn, chửi đứa đẻ ra hắn. Cái chửi của Chí Phèo cứ liên tiếp thay đổi, tưởng như vô cớ mà ta lại thấy hợp lý vô cùng. Hắn chửi từ cái chung đến cái riêng, từ cái vô cùng đến cái cụ thể. Chửi vậy mới đúng là một tên say rượu đang khật khưỡng bước đi, mong được một lời đáp trả từ xã hội, dù chỉ là một tiếng chửi, vậy mà chẳng ai quan tâm đến “không ai lên tiếng cả”, chỉ bởi hắn là một “con quỷ” khiến ai cũng khiếp sợ.
Nam Cao rất thành công khi khắc họa hình ảnh Chí Phèo xuất hiện chỉ bằng một vài tiếng chửi. Nhưng chỉ thông qua đó thôi, chúng ta cũng mường tượng ra một kẻ lưu manh, khố rách áo ôm, không người thân thích, một kẻ luôn triền miên trong những cơn say mà cả xã hội xa lánh trong sợ hãi. Chỉ những kẻ như vậy mới có thể chửi đời, chửi trời, chửi cả làng mà chẳng ai hề để ý để tâm. Nhưng nhìn sâu vào trong ta mới thấy, có lẽ tiếng chửi là phương tiện giao tiếp cuối cùng của Chí với cuộc đời để hắn nhận ra là hắn đang được sống giữa xã hội chứ không phải đơn độc một mình. Thế nhưng, chẳng ai thèm đếm xỉa đến hắn, cô lập hắn vào giữa cái xã hội thu nhỏ, để hắn trở nên lạc lõng, cô đơn.
Chí Phèo đã xuất hiện đặc sắc như thế khiến cho chúng ta tò mò tự hỏi, tại sao Chí lại là người như thế? Phải chăng từ khi sinh ra Chí đã trở thành một kẻ nghiện rượu, một tên lưu manh như thế? Hay còn vì sao, vì lý do gì đã đẩy hắn đến bước đường cùng như thế?
Chí Phèo – hắn đã từng là một con người lương thiện. Có ai từng nghĩ một kẻ như Chí, một kẻ luôn “triền miên say”, luôn rạch mặt để ăn vạ, luôn chửi bới xóm làng đã từng là một con người lương thiện hay chưa? Vâng, đúng là thế, đúng là Chí Phèo cũng đã từng là một người nông dân hiền lành, lương thiện như bao người nông dân nghèo ở cái làng Vũ Đại này.
Chí Phèo mồ côi cha mẹ, chẳng ai biết ai đã sinh ra hắn “Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết”, bởi hắn được vứt bên một cái lò gạch cũ và được một người đi thả ống lươn nhặt được “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không”. Hắn không cha không mẹ, không nhà cửa đất đai nhưng lại được lớn lên giữa vòng tay yêu thương, sự đùm bọc của xóm làng. Những điều ấy đã hun đúc lên một Chí Phèo cũng lương thiện, hiền lành với bao phẩm chất đạo đức chất phác như những người dân cày khác. Hắn lớn lên, cũng chăm chỉ làm lụng, kiếm sống nuôi thân. Hắn đi làm thuê cho Bá Kiến kiếm những đồng tiền bằng mồ hôi, bằng lao động chân tay, bằng chính sức lực của hắn. Hắn cũng như bao người trai làng hiền lành khác, có những mơ ước thật giản dị, nhỏ nhoi, được nên vợ nên chồng với một người con gái để xây lên “một gia đình nho nhỏ” mà “chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Ước mơ ấy đơn giản làm sao, nhỏ bé và chính đáng làm sao. Thế nhưng, những ước mơ cỏn con ấy đã biến thành mây khói khi hắn bị đẩy vào chốn lao tù.
Là một người lương thiện lại chất phác hiền lành, hắn cũng có lòng tự trọng tự tôn như những thằng đàn ông con trai khác. Bởi vậy, lúc bị bà Ba của Bá Kiến gọi tới “bóp chân”, hắn đã làm thật miễn cưỡng, “hắn thấy nhục hơn là thích”. Hắn có lòng tự trọng, có ý thức về nhân phẩm của chính mình, có lẽ chính vì vậy, khi bị bắt làm cái việc không chính đáng ấy, “hắn vừa làm vừa run”.
Phải, Chí Phèo vốn đã từng là một người nông dân lương thiện như bao người nông dân khác trong xã hội đương thời ấy, trong cái làng Vũ Đại ấy. Hắn có ước mơ, có lòng tự trọng, có sự ý thức về nhân phẩm, tự trọng của mình, hắn biết làm việc chăm chỉ làm lụng bằng đôi bàn tay, bằng mồ hôi, sức lao động của mình để nuôi thân và hơn hết hắn có sự lương thiện mà bất cứ con người nào từ khi lọt lòng vẫn luôn có.
Vậy mà, con người ấy đã biến đổi hẳn thành một kẻ khác từ khi phải vào tù. Hắn ra tù và trở thành một “con quỷ” khiến ai cũng phải kinh sợ, phải nín nhịn trước hắn. Ra tù, Chí Phèo thay đổi cả nhân hình, nhân tính. Liệu có ai nghĩ rằng đã từng có một Chí Phèo hiền lành, chân chất ngày xưa không?
Vậy tại sao Chí Phèo lại phải đi tù? Câu trả lời ấy đã được Nam Cao viết rõ trong tác phẩm, Chí Phèo bị Bá Kiến ghen nên đẩy vào tù. Bá Kiến ghen ghét chàng lực điền cao lớn, khỏe mạnh, thế nên đã dựng chuyện mà đẩy hắn vào tù. Và cuộc sống trong chốn nhà tù thực dân đã biến hắn từ một chàng trai chăm chỉ làm lụng, hiền lành thành một kẻ nghiện rượu, một con quỷ khiến ai cũng phải kinh sợ.
Chí Phèo ra tù, chẳng còn như xưa, hắn biến đổi cả nhân hình, nhân tính của con người. Hắn chẳng còn là chàng trai chất phác như xưa nữa mà triệt để thay đổi ngoại hình “Trông đặc như thằng săng đá. Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết”. Không chỉ có thế, trang phục của hắn cũng toát lên sự khiếp sợ đối với người đối diện, nào là “quần nái đen với áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Chí Phèo đã thực sự biến đổi về ngoại hình rồi, mất đi cái nhân hình trước kia rồi. Một anh canh điền hiền lành, chất phác giờ đây lại trông “đặc như thằng săng đá” khiến cho tất thảy cả cái làng Vũ Đại “mới đầu chẳng biết là ai”. Ai gặp hắn cũng dường như phải ngao ngán bởi sự thay đổi đến mức khiến người ta phải khiếp sợ của Chí Phèo.
Thế nhưng, cái nhà tù đương thời ấy không chỉ biến đổi hình dạng của Chí, biến hắn trở nên gớm ghiếc, kinh hoàng trong mắt những người nông dân nghèo mà còn thay đổi hắn triệt để về nhân tính, biến hắn trở thành một “con quỷ” của làng Vũ Đại. Xưa kia, Chí chăm chỉ làm ăn, kiếm sống bằng sức lao động bằng đôi tay của mình thì giờ đây, hắn chỉ chìm đặc trong những cơn say lướt khướt “hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt trưa đến xế chiều. Rồi say khướt …”, và mỗi khi say, hắn lại cất tiếng chửi và hành cái nghề “ăn vạ” của mình. Hắn trở thành một tên lưu manh chính hiệu và “sống bằng dọa nạt hay cướp giật”, bởi hắn đâu còn mục đích gì để sống hiền lành như xưa, bởi cái nhà tù ấy đã cướp đi hay đã ghìm thật sâu vào bùn đen cái bản tính hiền lành ngày nào của hắn mất rồi.
Đến sau này, sau một lần ăn vạ Bá Kiến không thành và được Bá Kiến dỗ ngọt, Chí Phèo còn trở thành tay sai cho cụ Bá. Hắn cướp giật, đốt nhà, phá phách làng xóm, đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến. Và thế là cái thằng Chí Phèo kia lại càng khiến người dân làng Vũ Đại thêm xa lánh hắn. Bởi hắn đâu còn là một con người nữa, hắn đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ mất rồi! Hắn đánh mất cả nhân hình nhân tính của mình mất rồi.
Có thể nói Chí Phèo chính là một nạn nhân trực tiếp của nhà tù thực dân, của xã hội đương thời, của bọn cường hào ác bá. Hắn là điển hình cho hình ảnh một người nông dân chân chất bị dồn ép tới đường cùng mà trở nên xấu xa, mất dần đi cái tình lương thiện bản chất con người mình. Nếu như xã hội không có những định kiến, nếu như xã hội công bằng hơn, đẹp tốt hơn thì hẳn đã chẳng có một Chí Phèo tha hóa đến mức như thế!
Phải nói rằng Nam Cao đã thực sự thành công khi xây dựng lên hình tượng nhân vật điển hình Chí Phèo luôn triền miên say và làm nghề ăn vạ. Để đến tận hôm nay, thế hệ chúng ta vẫn luôn mãi ấn tượng với hình ảnh này, để ai mỗi khi nhắc tới sự ăn vạ, lại nghĩ ngay ra hình ảnh một Chí Phèo chễm chệ với thói ăn vạ của mình.
Những tưởng cuộc đời của Chí đã dừng ở đó, dừng lại ngay khi Chí tha hóa mà trở thành một kẻ chuyên đi cướp giật của xóm làng thì không, Nam Cao đã vô cùng nhân đạo khi cho Chí một tia ánh sáng le lói để Chí có thể làm lại cuộc đời của mình. Ánh sáng đó chính là Thị Nở. Cuộc gặp gỡ định mệnh của Chí Phèo và Thị Nở đã khiến hắn thức tỉnh. Mối tình của hai con người ấy quả là hấp dẫn đặc biệt, bởi “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, thế nhưng nó lại là một tư tưởng nhân đạo cực kì sâu sắc mà Nam Cao lồng ghép vào tác phẩm để nâng nó lên một tầm vóc mới.
Chí Phèo đến với người tình của mình thật đúng với cái tên của hắn, thật hết sức … Chí Phèo. Bởi Thị Nở vốn là người phụ nữ “xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng”, đã ngoài ba mươi tuổi nhưng vì xấu và ngẩn ngơ nên chẳng ai thèm hỏi thị làm vợ. Trong một lần Thị đi kiếm nước ngoài bờ sông rồi ngủ quên, Chí Phèo đã gặp Thị trong lúc uống say trở về nhà và cả hai đã ăn nằm với nhau. Nếu như ban đầu, Thị mới chỉ khơi lên ở Chí cái bản năng đàn ông thì sau, cái sự chăm sóc dịu dàng mà ân tình của người đàn bà ấy đã khơi lên trong Chí cái bản tình lương thiện đã bị vùi sâu dưới tận đáy. Linh hồn Chí như được thức tỉnh, trở lại thành một con người chứ không phải là một con quỷ nữa.
Bởi lần đầu tiên, sáng hôm ấy, Chí tỉnh dậy mà không say. Hắn nhận ra “trời đã sáng từ lâu”, nhân ra những thanh âm quen thuộc của cuộc sống thường ngày “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy ngày nào chả có.”Lần đầu tiên sau bao năm ra tù, Chí Phèo mới được nghe thấy những thanh âm quen thuộc ấy, những tiếng cười nói, tiếng gõ mái chèo của cuộc sống lao động xung quanh, hôm nào chả có “nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…”. Hắn chợt “bâng khuâng” và thầy “lòng mơ hồ buồn”. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở như là tia chớp lóe sáng trong cuộc đời tăm tối của Chí, nó đã khơi gợi lên trong lòng Chí bao điều, cho Chí nhìn thấy rõ cuộc đời của mình. Hắn chợt thấy rằng ngày xưa “cái gì rất xa xôi”, nhắc cho hắn rằng hắn cũng từng mơ ước về một cuộc sống êm đềm như thế “một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Nhưng cái mơ ước ấy đã xa xôi quá đỗi, giờ đây, hắn nhận ra cái bi kịch của cuộc đời mình, cái thực tại đáng buồn khi “tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”. Và cái tương lai ở phía kia còn đáng buồn hơn “Hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời”, vậy mà chẳng có ai bầu bạn, chẳng có gì để nuôi thân, và sớm thôi “hắn đã như trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc”. Bao năm nay, Chí chưa từng một ngày tỉnh táo để nhận ra những cái đó, bởi hắn “bao giờ cũng say”, thì hôm nay lần đầu tiên trong đời, hắn đủ tỉnh táo mà ý thức được số phận của mình.
Nếu như trước kia, Chí Phèo sống trong vô thức, thì hôm nay, Chí Phèo đã đủ tỉnh táo mà nhận thức được, bởi vậy hắn có những cảm xúc rất đời, rất thường như bao người khác là cái sợ về tuổi già và sự ốm đau, sự cô độc. Ngày trước, hắn là một con quỷ “sống bằng dọa nạt và cướp giật” thì giờ đây trong thâm tâm hắn bừng lên những cảm xúc đời thường, những mơ ước đời thường, phải chăng, sự lương thiện trong hắn đang trở về với hắn?
Và khi thấy Thị Nở bưng bát cháo còn bốc hơi tới trước mặt, hắn “rất ngạc nhiên” và thực sự xúc động “bởi lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Hắn nhận bát cháo từ tay Thị nở và bỗng nhận ra rằng “cháo hành ăn rất ngon”. Bởi bát cháo ấy không chỉ được nấu bằng gạo bằng hành mà còn được nấu bởi hương vị của tình yêu tình người, của yêu thương chân thực và hạnh phúc giản dị, và tất cả những cái đó lần đầu tiên Chí Phèo được cảm nhận. Bởi vậy mà “hắn thấy mắt hình như ươn ướt”, một nỗi xúc động nghẹn ngào. Ai có thể nhận ra đó là cái thằng Chí Phèo vẫn thường rạch mặt ăn vạ, đập đầu giờ đây lại có thể hiền lành đến như thế? Hắn đã thực trở lại là anh canh điền lương thiện ngày nào, anh nông dân với ước mơ giản dị mà khiêm nhường ngày nào. Giọt nước mắt còn thấp thoáng trên mắt Chí có lẽ chính là giọt nước mắt hạnh phúc mà người ta vẫn hay nói. Giọt nước mắt ấy đời thường vô cùng, con người vô cùng.
Như vậy, có thể thấy, chính lòng yêu thương, tình người chân thật đã kéo Chí Phèo trở lại cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động – cái bản chất đã bị vùi lấp tận sâu bởi bọn cường hào và xã hội thực dân. Có thể nói, linh hồn của người nông dân nghèo Chí Phèo đã bị cướp đi bởi bầy lũ cường hào, thực dân trong xã hội, chúng muốn biến hắn trở thành cái công cụ để chúng sai khiến. Thế nhưng, giờ đây, Chí đã thức tỉnh thực sự rồi, cái lương thiện ẩn sâu tận con người hắn đã trở về rồi, và hắn lại khao khát một lần nữa được trở thành một con người như xưa. Tình yêu đã thức tỉnh hắn, “hắn thèm lương thiện”, hắn muốn được quay lại hòa nhập với mọi người. Hắn đã mơ tưởng đến cuộc sống mà chính Thị là người sẽ mở đường cho hắn và hắn sẽ được nhận vào “cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Chí Phèo đang mong chờ ngày được trở lại, hồi hộp trong hy vọng được trở lại làm người.
Có lẽ Nam Cao không phải một lần viết về sức mạnh của tình yêu. Tình yêu có thể biến con người ta trở lên tốt đẹp hơn cho dù tình yêu ấy có bị chế giễu, những con người trong tình yêu ấy bị cả xã hội hắt hủi. Chỉ cần họ tìm thấy ở nhau tình cảm chân thành, sự sẻ chia đồng cảm thì chắc chắn, tình yêu chân chính sẽ đưa họ đến với những điều tốt đẹp hơn. Chính như Thị Nở – người đàn bà xấu xí ấy cũng đã khơi gợi lên linh hồn con người từ một con quỷ dữ mang tên Chí Phèo. Đó là một tư tưởng nhân đạo vô cùng sâu sắc mà chỉ có ngòi bút của Nam Cao mới đủ sức truyền tải.
Thế nhưng, Nam Cao cũng dựng lên một câu chuyện về Chí Phèo không chỉ có vậy mà còn có những tình tiết biến hóa thật bất ngờ. Hai lần, người đọc cứ tưởng đã kết thúc câu chuyện về cuộc đời của Chí Phèo thì Nam Cao lại một lần nữa mở ra những tình huống mới.
Có nhiều người cho rằng cuộc đời Chí Phèo là một bi kịch của số phận, của tạo hóa trêu ngươi thì có lẽ vẫn chưa hoàn toàn chính xác. Bởi lẽ, cuộc đời của Chí phải nói là bi kịch thực sự thì phải là khi hắn đã thức tỉnh, mong muốn được làm lại cuộc đời, khao khát một cuộc sống lương thiện thì lại bị cự tuyệt thật lạnh lùng: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo đã mở lời với Thị “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”, một lời tỏ tình thật đáng yêu quá đỗi. Bởi Chí tưởng rằng Thị sẽ dẫn Chí vào cuộc sống đời thường, cho Chí một gia đình nho nhỏ như mơ ước của Chí ngày xưa nhưng không. Định kiến của xã hội mà tiêu biểu ở đây là bà cô Thị Nở đã tước đi của hắn cái quyền làm người ấy. Bà cô Thị là một kẻ không chồng, đã ngoài năm mươi tuổi và khi thấy Thị hỏi bà về cái việc ấy, bà đã một mực ngăn cản Thị đến với Chí Phèo “Ngoài ba mươi tuổi… ai lại còn đi lấy chồng”, “Đàn ông đã chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ?”.
Chính cái định kiến xã hội, định kiến cổ hủ về một người đàn bà đã qua tuổi lấy chồng không được lấy chồng nữa, định kiến về một người không cha mồ côi mẹ, định kiến về một kẻ xấu thì mãi mãi không thể tốt lên được đã cướp đi của Chí tất cả những hy vọng vừa le lói, đẩy hắn vào tận cùng của bi kịch cuộc đời.
Từ khi Thị Nở đến và “trút vào hắn tất cả những lời của bà cô” rồi “ngoay ngoáy cái mông đít đi về” thì hắn mới chợt hiểu ra rằng cái xã hội kia sẽ chẳng bao giờ công nhận mình. Ban đầu, hắn còn “ngạc nhiên”, còn bỡ ngỡ không hiểu tại sao Thị lại từ chối hắn sau khi đã ân cần lo lắng, chăm sóc cho hắn đến thế. Thế rồi, “hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người”. Từ lúc ấy, hắn gần như tuyệt vọng, bởi hắn đã hi vọng quá rằng hắn sẽ được thu nhận bởi cái xã hội ngoài kia, nhưng không, bị Thị Nở cự tuyệt thì cái xã hội ấy cũng sẽ cự tuyệt hắn như thế mà thôi. Hắn sẽ chẳng còn đường nào mà trở lại nữa!
Trong cơn tuyệt vọng đầy đau khổ, Chí lại tìm đến với rượu, bởi chỉ có rượu mới giúp hắn trở lại là hắn, là một con quỷ, “là một kẻ mạnh”. Thế nhưng, càng lạ là hôm nay, hắn “càng uống lại càng tỉnh ra”. Có lẽ là hắn say nhưng nếu như mọi lần, hắn quên hắn thảy tất cả mọi thứ xung quanh mình, cũng chẳng ý thức được nỗi đau khôn cùng của mình thì hôm nay, sau khi đã tìm lại được nhân tính con người, hắn mới nhận ra, mới hiểu được cái số phận đắng cay của mình mà thấm thía nó. Những giọt nước mắt của Chí Phèo lại lần nữa xuất hiện “hắn ôm mặt khóc rưng rức”, thế nhưng chẳng còn là giọt nước mắt hạnh phúc trong yêu thương mà là giọt nước mắt của tận cùng đau khổ. Hắn khóc cho cuộc đời tăm tối của hắn, hắn vùng vẫy trong đám bùn lầy đen tối, muốn thoát ra, muốn trở lại với một “xã hội công bằng và thân thiện của những con người lương thiện” để được sống, được làm người lương thiện một lần nữa nhưng chẳng ai cho hắn cái quyền ấy, tất cả mọi người. Những định kiến của xã hội đã giết chết đi linh hồn một con người như thế, tước đoạt đi của con người ấy mọi thứ mà hắn có được, vùi hắn xuống tận sâu của bùn đen.
Lần uống rượu này của Chí, hắn lại như mọi lần lảo đảo và xách dao đi, ban đầu hắn lẩm bẩm tự nhủ phải đi “đâm chết cả nhà nó (Thị Nở), đâm chết con khọm già nhà nó”. Hắn cứ lảm nhảm, “cứ đi, cứ chửi, cứ dọa giết nó”, nhưng “nó” là ai? Lúc này, sau khi tỉnh ra, Chí Phèo mới thấm thía hơn bao giờ hết cái kẻ đã đẩy hắn đến bước đường ngày hôm nay, có lẽ chính thế nên hắn “cứ đi”, nhưng chẳng rẽ vào nhà Thị Nở mà lại xông vào nhà cụ Bá. Trước mặt Bá Kiến, Chí Phèo “trợn mắt, chỉ vào mặt” lão mà dõng dạc lên tiếng đòi quyền làm người, quyền lương thiện, đòi lại khuôn mặt đã bị rạch nát của mình.
Những kẻ bị dồn đến đường ác một khi đã thức tỉnh trở về thì chẳng thể ác được nữa, bởi họ đã ý thức được nhân phẩm của mình, họ không thể chấp nhận kiếp sống của thú vật được nữa. Và Chí Phèo cũng vậy. Chí Phèo chết sau khi đâm chết kẻ đã gây ra nỗi đau khổ của cuộc đời mình, hắn chết trước ngưỡng cửa được trở lại cuộc sống, chết trong tâm trạng đầy bi kịch, đầy đau đớn. Nếu như trước đây, để được sống, Chí Phèo phải bán mạng, bán linh hồn cho quỷ dữ thì giờ đây, nhân phẩm trở về, hắn quyết liệt giữ lại linh hồn lương thiện của mình. Có nhiều ý kiến cho rằng Nam Cao đã thật tàn nhẫn khi cho Chí Phèo chết đi, thế nhưng, phải thật hiểu Nam Cao thì mới nhận ra, ông thực ra đã vô cùng nhân đạo khi cho Chí Phèo kết liễu cuộc đời mình như vậy. Bởi nếu hắn còn sống tiếp, thì hắn vĩnh viễn phải chịu kiếp cô độc, phải chịu đựng bi kịch khốn khổ của cuộc đời mình, chết đi, có lẽ hắn sẽ thanh thản, và có thể sẽ lại được trở về làm một người lương thiện lần nữa.
Chí Phèo chết quằn quại giữa vũng máu, giữa niềm đau khổ vô hạn, và giữa khát khao thống thiết được trở lại làm người không thành. Câu hỏi cuối cùng của hắn với Bá Kiến, vừa đanh thép, vừa bi phẫn xót xa, khiến cho ai nghe xong cũng chẳng khỏi day dứt “Ai cho tao lương thiện?”, ai cho hắn được một lần nữa là một con người, được sống một cuộc sống con người?
Cái chết của Chí Phèo và hành động giết chết Bá Kiến không chỉ mang một lớp ý nghĩa. Qua hành động giết chết Bá Kiến, Nam Cao như muốn nói rằng đây là một sự trả thù bằng máu, bởi chính những kẻ cường hào lọc lõi như Bá Kiến là những kẻ đã đẩy những người nông dân vào tăm tối, vào bước đường cùng tuyệt vọng, phải bán linh hồn cho quỷ dữ để được sống. Và một khi người nông dân ấy lấy lại được ý thức về nhân phẩm của mình, về quyền sống của mình thì chính chúng là những kẻ phải nhận lấy sự trả thù, nhận lấy cái chết đầu tiên. Còn cái chết của Chí Phèo, hắn đã chết bên ngưỡng cửa của cuộc sống lương thiện, đó là bi kịch của những người nông dân mong muốn có được một cuộc sống yên ổn, được hòa nhập với xã hội, được yêu thương nhưng lại bị cả xã hội cự tuyệt, đẩy đến đường cùng, đến cái chết.
Nam Cao đã vô cùng thành công khi khắc họa hình ảnh của Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành bị tha hóa mà trở thành một con quỷ. Ông cũng thành công khi xây dựng những xung đột mâu thuẫn gay gắt giữa các tầng lớp trong xã hội để đặt nhân vật vào trong đó, vừa làm rõ nội tâm nhân vật vừa đẩy cao cao trào của câu chuyện, vừa làm rõ mâu thuẫn sâu sắc giữa họ. Ông đã dựng lên hình tượng Chí Phèo trở thành điển hình cho người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, vùng vẫy trong bùn lầy tăm tối, bị áp bức tới không còn hình dáng con người.
Ít có nhà văn nào có được cái nhìn đầy tinh tế và sâu sắc như Nam Cao, bởi ông xây dựng lớp nhân vật nào cũng đều thể hiện trong đó tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo này. Ông đã phản ánh được nỗi đau khổ và bi kịch cuộc đời của con người ấy và lý giải nó hết sức cặn kẽ và thấu đáo. Qua bi kịch của người nông dân, ông lên án chế độ phong kiến nửa thực dân với những định kiến hà khắc, với những kẻ cầm quyền ác độc đã khiến cho con người chẳng thể có được hạnh phúc dù là nhỏ nhoi. Ông cũng lên tiếng kêu cứu cho số phận những người dân nghèo, thấp cổ bé họng đầy đau khổ ấy, muốn họ được sống một cuộc sống lương thiện và hạnh phúc.
Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam, đặc biệt là hình tượng nhân vật Chí Phèo – một nhân vật đã trở thành điển hình trong dòng văn học hiện thực. Nam Cao thực đã thành công khi xây dựng tâm lý nhân vật một cách xuất sắc với nghệ thuật cấu tứ câu chuyện rất linh hoạt. Ngòi bút của ông đã điển hình hóa nhân vật Chí Phèo để đến hôm nay nhắc đến Chí Phèo, người ta lại nhớ ngay tới người nông dân nghèo, đau khổ khi bị tha hóa thành những kẻ lưu manh trong xã hội Việt Nam trước khi Cách mạng thành công.
Nhân vật Chí Phèo – Mẫu 4
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sáng tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.
Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nông dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong cái xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.
Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.
+ Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.
Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngẩn ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu. Chí Phèo ngạc nhiên ,xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí Phèo. Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hỏi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỷ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiên, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của Chí Phèo.
Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bi kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.
Nhân vật Chí Phèo – Mẫu 5
“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam.
Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay.
Nam Cao không nói về sưu thuế dã man, không nói về tô tức mà ông có những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, có một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”, sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một mái lều che thân, không một tấc đất cắm dùi “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến.
Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là 20 năm trời đắng cay không chốn nương thân. Bi kịch của anh canh điền ngày bắt đầu từ chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà “lại cứ hav ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí không phải là gỗ đá, nhưng hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”. Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu. Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí giải lên huyện, bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Cái nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.
Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại “lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn: “Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy… Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt. Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vô cùng ngang ngược. Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra Bá Kiến là kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho “Chí Phèo vô cùng hả hê”. Hắn mơ hồ về chuyện hắn “còn có họ” với lí Cường nữa đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù “bẩm quả đi ở tù sướng quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai sinh sự: “Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật”. Hắn nghiến răng hăm dọa: con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”. Cụ Bá cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi. Cùng kể từ đáy, Chí mất phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ, và chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”. Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?’’. Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như “cái mặt của con vật lạ” với màu ‘‘vàng vàng mà lại muốn xạm màu gió” với bao nhiêu là sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội lỗi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông. “Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại: “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.
Chí Phèo đã bị cả xã hội ruồng bỏ. Cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Hắn chửi, ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó”, ai cũng chẳng thèm nghe, khác nào “những người say rượu hát”. Hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một người điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng. Hắn chửi tuốt, chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, “tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn!”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Hắn bị bao vây bởi một “sự im lặng đáng sợ”. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Hắn đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh liều mạng để tồn tại. Năm Thọ “đầu bò đầu bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết lại nở ra Chí Phèo. Biết đâu thị Nở lại không đẻ nơi lò gạch cũ một Chí Phèo con trong cái váy đụp nữa? Bọn hào lí, một mặt bóp nặn dân lành đến tận xương tủy, mặt khác “lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn là dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm thuê chém mướn, bằng cướp giật. Cái xã hội ấy đã cướp đi của họ cả bộ mặt lẫn linh hồn người, hủy diệt nhân tính và đã cự tuyệt quyền làm người của họ. Nhân vật Chí Phèo đã cho thấy cái quy luật tàn bạo ghê sợ đó trong xã hội cũ.
Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng là một tình tiết làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Tự Lãng có “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng và hoạn lợn. Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi. Lão cũng cô đơn như Chí Phèo. Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau mà cười”. Say rượu, lão Tự “bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra mà vuốt râu lão. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” đó một cách… Chí Phèo! Cuộc làm tình của Chí Phèo lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” mà thôi! Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ từng rạch mặt ăn vạ và đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm, thị Nở đã “quàng tay vào nách hắn” và “hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!”. Cũng lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền”… Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” mà thôi!
Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cả… Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!”, Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, là cô độc, cái này còn đúng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. “Nếu không còn sức mà cướp giật, dọa nạt nữa thì đã sao?”. Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!
Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện “cái bản tính của hẳn ngày thường bị lấp đi”. Cùng với “tình yêu” sự săn sóc của thị Nở, “trận ốm thay đổi hắn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm lí nữa” của Chí Phèo. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tâm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này đối với những con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.
Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Đàn bà cũng như thị Nở “không có men như rượu”, nhưng Chí “say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy là một câu nói “tình tứ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát, bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!… Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.
Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo “bám” được thị Nở cứ tưởng là vớ được cọc, đâu ngờ chỉ là rễ bèo. Chí Phèo “say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị nghĩ bụng: “hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà “sao mà đĩ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên “như con ma dại”. Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là “quỷ dữ” mất rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra; hắn “muốn làm hòa với mọi người” nhưng ai nhận! Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người’’ khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị, nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”.
Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn lấy một hòn gạch toan đập đầu ăn vạ! Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuyệt. Rồi “hắn ôm mặt khóc rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền“ như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”. Câu nói của Chí Phèo: “… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh. Chí không muốn sống nữa, vì giờ đây, ý thức về nhân phẩm đã trở về. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thể làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa, ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.
Chí Phèo là một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang tính chất điển hình, có ý nghĩa kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người dân cày nghèo vào kiếp sống tối tăm thú vật, cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện?” là câu hỏi chứa chất phần uất, đau đớn, mãi mãi làm day dứt lòng người. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống lương thiện, bình dị trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Với cảm quan hiện thực sắc sảo đặc biệt, Nam Cao đã vạch ra mối mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở nông thôn và tình trạng tha hóa phổ biến trong cái xã hội vô nhân đạo đó. Truyện “Chí Phèo” vừa chứa chan tình cảm nhân đạo, vừa mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đào, xứng đáng được coi là một kiệt tác.
Nhân vật Chí Phèo – Mẫu 6
Khi Chí Phèo: “Ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gi gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ”. (Nguyễn Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y.
Đó cũng là chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.
“Bi kịch là tình cảm éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải chịu đựng” Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những câu văn ngắn, nhịp văn gấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng “cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người” … Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí, giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống – dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã. dẫu là vô ý thức, để tìm ra căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khó thay. Chí càng bế tắc. Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng cũng như sau đó, thị Nở “Không chỉ biết cho mà còn biết giữ” … giá như… giá như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người ở làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ không có cơ hội xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ dễ dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Chí là một “đứa con hoang”, “một anh đi thả ống lươn một buổi sáng tinh sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà góa bụa”. Năm từ “một” tồn tại trong một câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng với những người lao động. Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, “biết không thích những cái gì mà người ta khinh”. Anh khát khao có “một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Nhưng đời đã không dành cho Chí cái mà anh có thế với trong tầm tay.
Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy – tám năm. Đây là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. “Hắn về lần này trông khác hẳn”. Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp đi của y một phần nhân hình. Ở tù ra trông hắn như một thằng “sững đá” (lính tẩy), đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất “cơng cơng” – “câng câng” thì còn ra cái mặt người. “Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy trông gớm chết” Đó là hình dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau. Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì Bá Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với chính kẻ thù. Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua.. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn trên đời. Có thể nói, trước khi gặp Thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát, Chí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.
Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết cốt cách người ta sản sinh ra hắn là tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh của nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở lại làm người lương thiện. Vai trò, vị trí của thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người “dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn”, lại là nguồn sáng duy nhất còn lại ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí. Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của thị đã gợi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với thị Nở. Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn “sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc – cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu – dù là tình thương yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật vô biên. Nam Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở. Thị có thể sống chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay cho Chí. Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”.
Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã hội tước đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: “Không được nữa rồi chỉ còn cách này”, Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói những câu cuối cùng “đòi lương thiện” với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người.
Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức mở và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi khổ của người nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện cho cái phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể, nếu không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám “nuôi dưỡng”.
Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.
Phân tích Chí Phèo siêu hay
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 1
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.
Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 2
Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng: “Trong mảnh sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao, có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật “có vấn để” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”.
Và nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật “có vấn đề” như thế, nhưng chính những lời văn mà tác giả viết về nhân vật này và những bi kịch mày phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.
Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”.
Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và cũng chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách.
Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình và rồi trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền.
Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.
Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”.
Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên sự có mặt của hắn ở trên đời.
Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm, lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí.
Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay nào hắn có thấy ai tự cho ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, hắn bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ và cùng với đó là khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập cùng mọi người, họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn tự đặt ra câu hỏi cho mình: hắn có thể làm bạn được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người mà Chí đặt niềm tin vào, Chí tin Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc sống đó.
Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa.
Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.
Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình yêu của hắn chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn ý thức được ai mới chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình.
Hắn xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến tột cùng, Chí đã tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó là cái chết, chết để kết thúc tất cả bi kịch của cuộc đời Chí.
Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của mình đối với những người có số phận bất hạnh. Ở sâu thẳm trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 3
Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã khắc họa bức chân dung của người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát. Kết cục tha hoá lưu manh hoá là tất yếu như một sự giải thoát. Qua nhân vật Chí Phèo nhà văn đã mang đến cho người đọc những giá trị nhân văn sâu sắc mà mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chí “chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”.
Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa.
Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”.
Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.
Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cong hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”.
Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”.
Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám.
Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.
Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc.
Con người xấu đến “ma chê quỷ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí.
Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy.
Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất.
Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó.
Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Thì nay chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ…
Ôi sao mà hắn hiền!“. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Đó là giây phút Chí “thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người”. Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở “hay là cậu sang đây ở với tớ một nhà cho nó vui”.
Từ một con quỷ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!
Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo.
Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.
Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe thoang thoảng mùi cháo hành rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến.
Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nông nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu trong con người của Chí, anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:
– Tao muốn làm người lương thiện– Ai cho tao lương thiện?
Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ.
Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 4
“Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.
“Chí Phèo” thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao. Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác.
Tôi cho rằng “Chí Phèo” là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi – một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi.” Hắn – cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo – là một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi.
Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say, Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo.
Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều, đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật…
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác.
Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”.
Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.
Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say.
Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được.
Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân lương thiện”. Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: “Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.
Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội – một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “chó đểu”. Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào, có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo.
Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người.
Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Cũng lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại “đã già mà vẫn còn cô độc”, về quá khứ với ước mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với “đói rét, ốm đau và cô độc”. Con người ấy lần đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm.
Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng dõi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương – trở về với xã hội loài người.
Hắn tin rằng “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”; “Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi người lại không thể”. Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”.
Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương.
Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi “Ai cho tao lương thiện?” vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh.
Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thoại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngày nay Chí Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 5
Truyện Chí Phèo ghi nhận thành công xuất sắc nhất của Nam Cao về đề tài người nông dân, cũng là một trong những đỉnh cao nhất của trào lưu hiện thực phê phán. Thành công của hình tượng Chí Phèo chứng tỏ tài năng nghệ thuật độc đáo của Nam Cao, kết tinh giá trị hiện thực lớn lao và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này.
Bối cảnh hiện thực của truyện ngắn Chí Phèo là xã hội nông thôn Việt Nam xác xơ nghèo đói những năm bốn mươi. Trong không khí tối sầm này, không ít người nông dân bị xô đẩy vào con đường bần cùng, lưu manh, không ít người phải điên khùng, liều lĩnh mà tồn tại. Tính cách Chí Phèo mang ý nghĩa điển hình cho lớp người ấy trong thời buổi xã hội ấy.
Bước vào tác phẩm ta bắt gặp ngay Chí Phèo ngất ngưởng vừa đi vừa chửi. “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi…”. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao để Chí Phèo xuất hiện bằng tiếng chửi. Chí Phèo chửi ai? Chí Phèo trời, chửi đời nghĩa là y đối lập với tạo hóa, với xã hội.
Chí Phèo chửi cà làng Vũ Đại nghĩa là y đối lập với quê hương. Chí Phèo chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn nghĩa là y đối lập với tất cả (vì có đứa nào chửi nhau với hắn đâu!). Chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn để hắn phải khổ đến nỗi này nghĩa là Chí Phèo tự đối lập lại nguồn gốc, sự tồn tại của mình. Những mong tìm mối dây liên hệ với xã hội chỉ bằng tiếng chửi mà không thể có. Chí Phèo tồn tại như một con vật. Ấy là một kẻ lưu manh, liều lĩnh trong tình cảnh cô độc tuyệt đối.
Ngay từ khi được sinh ra, Chí Phèo đã bị ném khỏi nhà,cuộc sống, chỉ trông mong vào lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Trong làng Vũ Đại, Chí Phèo là “một thằng cùng hơn cả dân cùng; không cha không mẹ, không thước đất cắm dùi”. Cả đời Chí Phèo “chưa bao giờ được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà”, đến nỗi mơ ước chung sống với một người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn cũng không đạt được.
Chí Phèo tồn tại trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Và Chí Phèo chết đi cũng trong sự cô độc. Không gì độc, tủi nhục hơn khi chết mà không được lấy một giọt nước mắt, chết mà người ta mừng! Mong ước trở lại làm người của Chí Phèo đã bị cự tuyệt, bị xã hội từ chối phũ phàng. Số phận khốn khổ ấy của Chí Phèo tiêu biểu cho số phận của cả một lớp người cố cùng dưới đáy xã hội cũ.
Hiện tượng Chí Phèo vô cùng độc đáo nhưng không phải ngẫu nhiên, cá biệt. Thông qua tính cách điên khùng, số phận bi thảm của Chí Phèo, tác phẩm đã khái quát lên quy luật tha hóa con người nghiệt ngã của xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái gì đã đẩy Chí Phèo vào con đường tội lỗi? Ai đã biến Chí Phèo thành con quỷ dữ làng Vũ Đại?
Cái con quỷ dữ ấy đã từng có một thời gian làm người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi thơ “bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác” đến tuổi thanh niên “làm canh điền cho ông Lí Kiến” Chí Phèo sống cuộc đời lao động cực khổ của người cố nông ở nông thôn. Anh nông dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản dị trong lao động.
Tuy còn trẻ trung, anh cũng phân biệt được tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa; bị bà Ba gọi lên bóp chân, anh “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất trong trắng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào và nhà tù thực dân ra sức bóp chết. Chí Phèo vô cớ bị đẩy đi ở tù và bảy, tám năm sau về làng, hắn đã thành người khác hẳn.
Về giữa cái làng Vũ Đại chật chội mà bao thế lực xâu xé nhau, một thước đất cắm dùi không có, Chí Phèo biết làm gì để sống. Không thể hiền lành mà muốn sống – oái oăm thay – phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh, phải gan góc. Những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Người ta đây chính là Bá Kiến – kẻ ăn tiên chỉ làng Vũ Đại, kẻ lọc lõi, gian ngoan vô cùng trong nghề bóc lột.
Chúng ta còn nhớ lần thứ nhất Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau hôm đi ở tù về. Dẫu bằng tiếng chửi, bằng vỏ chai rạch mặt ăn vạ, dù sao lần này Chí Phèo còn đến để trả thù, còn mường tượng ra kẻ thù. Nhưng đến khi từ nhà cụ Bá về với tâm trạng thỏa thuê, với đồng bạc trong tay, đặc biệt từ lần đòi được nợ ở nhà đội Tảo (nhờ sự may mắn tình cờ) thì Chí Phèo đã dần trở thành công cụ mù quáng trong tay Bá Kiến.
Chí Phèo đã bán đi cả nhân phẩm lẫn nhân hình để tồn tại và tồn tại như một con vật. Hiện tượng Chí Phèo tiêu biểu cho sự tha hóa phổ biến trong xã hội tàn phá ghê gớm con người. Khi những người nông dân vốn lương thiện mà dốt nát, tăm tối bị rơi vào tình trạng bần cùng hóa thì dễ uất ức mà trở thành những “kẻ cố’ cùng liều thân”.
Gặp kẻ thống trị xảo quyệt, sự liều thân cô độc này rất dễ bị lợi dụng, mua chuộc để biến thành sự phá hoại mù quáng. Rốt cuộc, họ lại trở thành “đày tớ tay chân” cho kẻ tử thù. Đó là một quy luật đầy mỉa mai, chua xót trong xã hội cũ. Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là ở chỗ đó.
Một hình tượng điển hình đầy sức sống bao giờ cũng là một “con người này” (theo cách nói của Hêghen). Ấy là một cá tính độc đáo, rõ nét, một gương mặt không thể lẫn. Hình tượng Chí Phèo vừa mang tính khái quát cao, tính phổ biến sâu rộng đồng thời mang những nét riêng độc đáo. Mấy ai có “lai lịch” lạ lùng như Chí Phèo.
Mấy ai lớn lên với cảnh ngộ tội nghiệp như con người này. Chí Phèo là một cuộc đời rất riêng ngay từ khi sinh ra, lớn lên cho đến lúc chết đi. Chí Phèo độc đáo từ ngoại hình đến tiếng chửi, đến cách hành động. Một bộ mặt không hẳn ra con người; không hẳn ra con vật, đầy những lằn ngang vạch dọc do những lần đâm chém, cào rạch ăn vạ. Một lối chửi rủa điên khùng, uất ức thật … Chí Phèo.
Cũng thật Chí Phèo từ cách uống rượu đến lối toan đốt quán khi không được uống chịu, thậm chí đến lối “ướm lời” với Thị Nở và cách đâm chém kẻ thù rồi tự kết liễu đời mình. Hình tượng Chí Phèo gây ấn tượng thật sâu đậm đối với người đọc. Mặt tiêu biểu, khái quát của số phận Chí Phèo bộc lộ qua những nét cụ thể, độc đáo của y; ngược lại, những nét riêng, độc đáo trong tính cách Chí Phèo phản ánh sinh động cảnh ngộ, số phận của một lớp người.
Nhưng sự kết hợp biện chứng, hài hòa giữa hai mặt tính chung và tính riêng ở hình tượng Chí Phèo không chỉ thể hiện ở trên. Xây dựng hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã phát hiện ra và hết sức trân trọng bản chất lương thiện ở người nông dân nghèo khổ. Phần sau tác phẩm, nhân vật này được thể hiện cho một tính cách người đang hồi sinh. Trên phương diện này, Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm và sự vùng dậy phản kháng quyết liệt, tuyệt vọng nhưng rất đáng quý trọng ờ người lao động bị áp bức.
Năm ngày chung sống với Thị Nở như tia sáng lóe lên trong cuộc đời tối tăm dằng dặc của Chí Phèo để rồi vụt tắt ngấm đưa anh ta vào cõi chết. Cuộc gặp gỡ tình cờ với Thị Nở (hai duyên số kì lạ dưới bàn tay xếp đặt khéo léo của ông mối Nam Cao) không chỉ khơi dậy bản năng sinh lí của gã đàn ông mà quan trọng hơn, đã đánh thức người cô’ nông lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp trong con quỷ dữ Chí Phèo.
Phần viết về quá trình hồi sinh cảm động của Chí Phèo và bi kịch đau đớn trong cõi tinh thần sau đó ờ anh ta trở thành những trang hay nhất của kiệt tác Chí Phèo. Nó là bài ca về sức mạnh kì diệu của tình người, của tình yêu. Sự chăm sóc ân cần của Thị Nở, bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở thật sự đã mang hương vị ngọt ngào của tình yêu khiến cho Chí Phèo lại biết khóc, biết cười như một con người.
Thị Nở đâu chỉ là tình yêu mà chính là con đường sống, là chiếc cầu dẫn Chí Phèo trở lại cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của loài người. Có hiểu hết niềm vui hồi sinh ờ Chí Phèo, có hiểu hết vai trò quan trọng của Thị Nở như thế ta mới càng thấm thía nỗi đớn đau, tuyệt vọng của Chí Phèo khi chiếc cầu kia đột ngột bị “rút ván”.
Khi bị Thị Nở đột ngột “trở mặt”, Chí Phèo ban đầu chưa thể hiểu bởi anh ta đang “say” với nguyện ước trở lại làm người. Khi chợt hiểu ra, Chí Phèo vơ lấy rượu uống. Nhưng thật lạ, lúc này càng uống lại càng tỉnh, “Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo nành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức …”. Có lẽ, trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo chỉ có một lần khóc như thế!
Người đàn ông khốn khổ đến lúc này mới được hưởng hương vị cháo hành thì chẳng thể nào quên … Không thể quay lại làm quỷ dữ nữa, Chí Phèo đành đi đến cái chết. Nhưng trước khi chết, phải trả thù kẻ thù đích thực của mình! Rốt cuộc, một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say.
Chí Phèo bằng xương bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là một Chí Phèo đang lớn tiếng đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi quyền lương thiện. Diễn tả quá trình hồi sinh rồi bị cự tuyệt quyền làm người để đi đến hành động trả thù, tự sát quyết liệt ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo sâu sắc về con người.
Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Chí Phèo là một hình tượng vô cùng độc đáo. Cuộc đời đầy đau thương, tủi phận của Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm của tầng lớp nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa không lối thoát trong xã hội cũ, của những người cùng khổ, tăm tối dưới ách áp bức tàn bạo, xảo quyệt của giai cấp thống trị.
Với hình tượng văn học điển hình bất hủ này, Nam Cao đã lớn tiếng vạch trần bản chất tàn bạo của thứ guồng máy xã hội đè nghiến, hủy hoại con người, đồng thời thể hiện một niềm tin sâu sắc vào bản tính tốt đẹp của con người.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 6
Nam Cao một trong những tác giả nổi bật nhất trong thời kì 1945 – 1954. Dưới ngòi bút chân thực của mình, đời sống, thân phận và những nỗi thống khổ của người nông dân được ông lột tả một cách vô cùng chân thực. Điển hình là các tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no….
Có một điểm chung giữa các tác phẩm của ông là khi trang sách đã khép lại, người đọc vẫn mường tượng ra rõ những đau thương của số phận con người trước cách mạng tháng Tám vẫn còn ẩn khuất đâu đó, và cũng từ đây toát lên được giá trị nhân văn mà tác giả muốn truyền tải qua mỗi tác phẩm.
Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã rất xuất sắc khi xây dựng lên một hình ảnh người nông bị tha hóa đến mức cùng cực bởi xã hội thực dân nửa phong kiến đầy thối nát, để rồi người nông dân ấy phải tự tìm đến cái chết như lối thoát cuối cùng của cuộc đời mình.
Chí Phèo bước ra từ trang sách không phải với sự xuất hiện bình thường, người ta nhận ra hắn bằng tiếng chửi, “Hắn vừa đi vừa chửi…” Chí “chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Tiếng chửi ấy chính là “liều thuốc giảm đau” của Chí giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã lúc bấy giờ. Hắn vừa đi vừa chửi.
Chửi tất cả những đớn đau mà lẽ đời bắt hắn phải mang. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay, nào ai đáp lại lời Chí. Hắn đang độc thoại lòng mình giữa cả xã hội, ai cũng xa lánh hắn, người ta mặc kệ hắn, bỏ mặc hắn như chính cái cách mà hắn bắt đầu cuộc đời mình từ ngày mới lọt lòng.
Nhìn lại cuộc đời của Chí, từ khi mới lọt lòng đã là đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên bằng sự cưu mang của cả làng Vũ Đại, rồi lớn lên làm anh tá điền chân chất với ước mơ bình dị như bao người thì lại bị Bá Kiến đẩy vào tù. Đến khi trở lại làng Vũ Đại, Chí đã không còn là Chí nữa. Chí bị hủy hoại từ con người đến tính cách. Chẳng còn ai nhận ra Chí của ngày xưa hiền lành, chất phác mà giờ chỉ là thằng Chí Phèo, thích gây sự với người thường, rượu tan nát, và suốt ngày chửi bới…
Người ta nhìn thấy bây giờ là gì?Ngoài một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế.
Nhà tù thực dân như cái địa ngục trần gian có thật đẩy một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Mới ngày nào người dân làng Vũ Đại còn cưu mang hắn mà giờ đây ai cũng cảm thấy căm ghét, làng Vũ Đại chẳng còn được yên bình như trước nữa. Hắn hận, hận cái cuộc đời và xã hội, yêu thương bao bọc hắn và rồi cũng đẩy hắn đến đường cùng.
Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”.
Nam cao đã rất tài tình khi đưa Chí Phèo trải qua hết nỗi đau thương này tới nỗi đau thương khác, để rồi người đọc như hình dung ra xã hội bấy giờ khắc nghiệt đến mức như thế nào. Có lẽ Chí là một kẻ đáng thương hơn là đáng trách. Đáng nhận được đồng cảm hơn là sự xa lánh
Ngòi bút của Nam Cao vẫn dành cho nhân vật của mình những yêu thương. Ông vẫn để cho Chí Phèo nhìn thấy được yêu thương. Yêu thương cho chính Chí qua những phẫn uất mà xã hội mang đến.
Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc.Con người xấu ma chê quỷ hờn kia chính là niềm tin cho Chí bước đến cánh cửa lương thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải…
Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ :”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”
Bao nhiêu mơ ước thời trai trẻ như ùa về làm thức tỉnh phần “người” trong Chí, hắn nhận ra mình cũng muốn yêu và cần được yêu, cần những điều bình dị như bao con người khác. Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng.
Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Còn ngày hôm nay, chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền?.
Vậy đó, tình yêu là phương thuốc duy nhất có thể khiến Chí trở về làm Chí, làm anh tá điền hiền lành năm nào. Và cũng chỉ có bát cháo hành của Thị Nở mới có sức mạnh cảm hóa được hắn. Bao năm qua, chưa bao giờ Chí cảm thấy mình thật sự là mình như lúc ấy. Sức mạnh của sự vị tha, của tình yêu thương con người tưởng là vô hình mà hóa ra lại vô cùng lớn lao
Nhưng rồi hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không mỉm cười với Chí. Thị Nở vừa thắp lên được chút hi vọng thì cũng chính là lúc cơn giông cuộc đời Chí ập đến. Bà cô của Thị Nở, chính là hiện thân đầy đủ của định kiến của xã hội lúc bấy giờ. Bà ta đã đến và cướp nốt đi phần lương thiện còn lại của Chí.
Chao ôi, sao mà hắn đáng thương đến tột cùng!!! Giờ thì rượu ngon hay những lời chửi thề cũng không thể khiến hắn bớt đau.Hắn nhớ, nhớ đến phát điên mùi vị cháo hành của Thị Nở, rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức.Cái xã hội ấy đến phút tận cùng vẫn cướp đi của hắn những niềm hi vọng len lỏi để trở về con đường hoàn lương.
Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong giây phút ấy, Chí nhận ra, kẻ đã lấy đi của mình tất cả chính là Bá Kiến. Hắn cướp đi tuổi trẻ của một anh tá điền chất phác. Cướp đi cuộc đời của Chí, trả lại cho Chí cái thân hình ma dại và nhân cách chẳng còn vẹn nguyên.
– Tao muốn làm người lương thiện
– Ai cho tao lương thiện?
Câu hỏi ấy như xoáy vào tận tâm can người đời. Đến khi gấp trang sách lại, chúng ta vẫn còn như day dứt ở trong lòng. Phận người trong xã hội cũ, sống trong trăm ngàn thứ khắc nghiệt bủa vây, bị tha hóa, bị chà đạp, bị cướp đi nhân cách và phải tự kết liễu đời mình là lối thoát duy nhất.
Nam Cao đã mang đến một sự kết hợp sâu sắc giữa giá trị hiện thực đầy đau thương và giá trị nhân đạo vô cùng tinh tế. Bằng ngòi bút sắc sảo nhưng vẫn đầy tính nhân văn, tác phẩm Chí Phèo của ông đã như là tấm gương phản chiếu lại những xót xa của một tầng lớp xã hội thời bấy giờ, nhưng chất chứa trong đó vẫn là sự cảm thông đầy sâu sắc.
Có lẽ ít tác phẩm nào trong giai đoạn cùng thời lại gây được tiếng vang đến tận bây giờ như Chí Phèo của Nam Cao. Một con người mà đại điện cho cả trăm số phận khác, dù có đau thương nhưng vẫn xứng đáng được yêu thương.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 7
Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực phê phán viết về số phận người nông dân ra đời như Tắt đèn của Ngô Tất Tố với chị Dậu, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan với anh Phan,… và không thể không kể đến Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam. Trong đó nổi bật là hình tượng nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên Chí Phèo.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện, là đứa con hoang bị bỏ rơi lúc mới lọt lòng. Chí được một bác phó ciu mang đưa Chí về nuôi rồi đến khi bác phó chết, Chí không cha, không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, suốt ngày đi ở cho nhà này rồi sang nhà khác, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian Chí Phèo đến làm canh điền cho nhà Bá Kiến, Chí được mọi người khen là hiền như đất, dù không được học hành nhưng Chí phân biệt đúng sai, phải trái khi ở trong nhà Bá Kiến. Mỗi lần bị mụ vợ Bá Kiến gọi vào bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”, Chí hiểu được đâu là tình yêu, đau là sự dâm đãng đáng khinh rẻ. Cũng như bao nhiêu khác, Chí cũng mơ về một cuộc sống gia đình ấm áp nơi “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Nhưng rồi tất cả bị vùi dập và cuộc đời Chí trượt theo vết dài khi Chí bị Bá Kiến đẩy vào con đường tù tội chỉ vì sự ghen tuông bạo chúa, bị kịch của cuộc đời Chí Phèo cũng bắt đầu từ đó.
Ngày Chí ra tù với sự biến dạng nhân hình, sự tha hóa nhân cách đến méo mó dị dạng. Chí từ một thanh niên khỏe mạnh, hiền lành, trở thành một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm”. Mọi người nhìn Chí như một con quỷ trong làng, Chí bị mọi người xa lánh, đi đến đâu cũng bị xua đuổi. Chí ngụp lặn trong những cơn say miên man, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, cậy cái say nó đi đập đầu, rạch mặt, chửi bới, ăn vạ, dọa nạt mọi người. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, bon chen, chèn ép con người đến nghẹt thở, Chí Phèo không sống hiền lành, nhẫn nhục như ngày xưa được nữa. Hắn lì lợm, hung dữ, tàn bạo vì thế nên chỉ sau những lời dụ dỗ của tên địa chủ lọc lõi như Bá Kiến,, Chí đã trở thành một tay đòi nợ thuê, chém giết thuê, nó làm mọi thứ mà không sợ một ai. Chí đã làm theo mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến là “Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Dường như Chí của ngày xưa chết hẳn rồi, Chí của bây giờ không khác gì con quỷ dữ, một linh hồn quỷ đang tàn phá trong con người Chí Phèo.
Dường như qua từng chi tiết càng bộc lộ rõ hơn bản chất, bộ mặt của xã hội ngày xưa- một xã hội vô nhân đạo với những con người sống không có tình người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi nó với cái tên khinh nhược là “chó đểu”. Nơi mà những tên địa chủ như Bá Kiến nắm hết mọi quyền lực, thậm chí họ còn quyết định được sự sống của người khác, khi mạng sống con người không được bảo đảm.
Tưởng Chí Phèo cứ mãi đi theo, trượt dài trong bi kịch cuộc đời mình nhưng nhà văn Nam Cao đã không làm thế, ông vẫn tin tưởng sâu thẳm trong phần con của Chí vẫn tồn tại chất người. Và dường như phần người của Chí được thể hiện khi gặp được đúng người cảm thông, dang rộng vòng tay với Chí. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở- một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm định mệnh giữa Chí Phèo và Thị Nở, thức dậy vào sáng sớm Chí như được hồi sinh. Có lẽ lần đầu tiên từ khi ra tù trở về, Chí mới lắng nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Lần đầu Chí ý thức về tuổi tác, bản thân mình “đã già mà vẫn còn cô độc”. Dường như lý trí và lương tâm được đánh thức bừng sáng trong con người Chí. Một con người đâm thuê, chém mướn không biết sợ, không chút suy nghĩ tưởng chừng như sống không tình, không người nhưng Chí đã xúc động rưng rưng nước mắt khi bưng trên tay bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm. Chính bàn tay, chính tình người của người phụ nữ xấu xí đã cứu vớt một con người tha hóa thức tỉnh, đánh thức phần người trong Chí thức dậy. Chí Phèo khao khát hoàn lương- trở về với hòa nhập với xã hội, với cộng đồng. Hắn mang một lòng tin rằng chính Thị sẽ là người mở đường cho hắn. Chưa bao giờ ước muốn, khao khát muốn được làm người lương thiện lại mãnh liệt, mạnh mẽ trong Chí đến thế.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực, trong cái khung cảnh, tư tưởng lúc bấy giờ Nam Cao không thể rời thực tế mà bỏ mặc những định kiến cổ hủ lạc hậu được. Khao khát hoàn lương chưa kịp thực hiện, một lần nữa Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi lời nói của bà cô của Thị Nở “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Những lời định kiến của làng xã, những lời nói của bà cô đưa Thị Nở đến từ chối khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Trong cơn nửa say nửa tình, cố níu mà không thể giữ, Chí Phèo trở thành một kẻ đáng thương và tội nghiệp. Thị Nở quay lưng bước đi cũng chính là lúc cánh cửa hoàn lương của Chí đóng sập lại. Chí lại ngập trong cơn say và tìm đến kẻ đã đẩy Chí thành một người thân tàn ma dại để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là cái kết quá đau thương nhưng nếu sống mà làm con quỷ dữ trong cái xã hội đầy nhơ nhuốc ấy thì cái chết chắc sẽ là cách giải quyết tốt nhất. Đó là cái chết để bảo toàn lương tri, lương tâm, cái chết thức tỉnh cả một xã hội phong kiến cổ hủ để rồi câu nói “Ai cho tao lương thiện?” vang vọng và ám ảnh mãi không nguôi. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.
Để làm nên một “Chí Phèo” thành công và vang bóng đến tận hôm nay ngoài nội dung, ý nghĩa của tác phẩm còn phải kể đến sự thành công trong việc xây dựng nhân vật, phân tích tâm lý nhân vật, cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, vận dụng đối thoại, độc thoại phù hợp để bộc lộ được hết thông điệp nhà văn muốn gửi gắm. Ngòi bút hiện thực Nam Cao đã đưa đến cho người đọc những dòng cảm xúc chân thực nhất, phải chăng vì thế mà khi nhắc đến Nam Cao thì Chí Phèo sẽ làm người ta gợi nhớ đầu tiên.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo trong trang văn của Nam Cao giúp người sau hiểu được phần nào cuộc sống cơ khổ, chà đạp, hủy hoại con người đến tận cùng. Qua đó thể hiện được tên tuổi, ngòi bút tài hoa của nhà văn Nam Cao.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 8
“Chí Phèo” được viết vào năm 1941, là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng 8. Đây là một trong những truyện ngắn có thể nói là nổi bật nhất trong các tác phẩm khác ra đời cùng thời và đưa Nam Cao đi lên vị trí hàng đầu trong lớp nhà văn hiện thực, phê phán xã hội vào giai đoạn 1930-1945.Tác giả đã xây dựng thành công , nổi bật hình tượng một nhân vật điển hình đó là nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa rất sâu cay vào loại tiêu biểu của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ.
Chí Phèo là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao dựa trên cơ sở người thật, việc thật ở vùng quê của mình, ông đã hư cấu tạo nên một bức tranh hiện thực về đời sống của những người dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8 với tất cả sự tăm tối, sự ngột ngạt cùng bao nhiêu là đau đớn, kinh hoàng,… Nhân vật Chí Phèo là đại diện cho bi kịch của những người nông dân bị tha hóa nhân cách trong xã hội cũ. Nhưng tất cả những nỗi khổ cực, bi đát trong cái xã hội đấy không thể làm cho những người người nông dân khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống một cuộc sống thanh bình hạnh phúc bên gia đình, vợ con. Nhưng thực ra ở bên trong con người họ lại luôn có một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Nam Cao không đề cập đến các vấn đề về sưu thuế, tô thuế như các tác phẩm cùng thời khác mà ông có những khám phá riêng của mình về số phận của những người dân lao động khốn khổ bị chà đạp. Đó là một cái nhìn vô cùng mới mẻ, độc đáo nhưng vô cùng sâu sắc, thể hiện nỗi đau trăm chiều của những người nông dân nghèo bị áp bức trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên là ai mà có ảnh hưởng lớn đến vậy? Mở đầu tác phẩm nhà văn Nam Cao đã giới thiệu nhân vật Chí Phèo của mình một cách rất ấn tượng và lôi cuốn người đọc. Nhà văn đã để hắn ta xuất hiện trong trạng thái say rượu, không có ý thức về mọi thứ “hắn vừa đi vừa chửi”. Điều này rất là lạ bởi thông thường người ta thường chửi có đối tượng cụ thể đằng này hắn chửi tất cả những gì hắn nhìn thấy, hướng tới tất cả cuộc đời trời đất này. Lạ lùng hơn nữa khi đây không phải là lần đầu tiên xảy ra chuyện này mà đã xảy ra rất nhiều lần trước đó, nó được minh chứng qua câu nói “bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vậy tại sao Chí Phèo lại ra nông nỗi như vậy? Nhân vận của Nam cao xuất hiện đã tạo ra một ẩn số khiến người đọc vô cùng tò mò. Có người sẽ dự đoán Chí Phèo chắc phải có nỗi khổ nào trong lòng mới dùng rượu để trút hết những tâm tư, suy nghĩ ra. Và quả thực cuộc đời hắn ta hiện lên trong tác phẩm như một cuốn phim bi thảm.
Chí Phèo vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi một cách rất tàn nhẫn, có thể hiểu đơn giản như mồ côi bố mẹ, sự ra đời của hắn không được bất kỳ ai mong đợi. Hay nói trắng ra là hắn là một đứa con hoang, khi hắn sinh ra cha không thừa nhận, mẹ hắn ra thì bỏ hắn lại ở cái lò gạch cũ mặc cho sống chết, đói rét, khóc thét. Vậy là chỉ có duy nhất cái lò gạch cũ là chấp nhận sự ra đời của hắn. Khi mà hắn ta trở nên xám ngắt cả thân thể trong chiếc váy đụp mẹ hắn để lại rồi những người nông dân nghèo khổ đã nhìn thấy và nhặt hắn về nuôi. Ban đầu người nuôi hắn ta là một anh đi thả ống lươn, sau đó là một người đàn bà góa phụ rồi đến bác phó cối.
Nhưng rồi khi bác phó cối chết đi Chí Phèo lại trở thành đứa bé bơ vơ, không nơi nương tựa. Những khi đói bụng muốn có cái gì đó ăn hắn phải đi hết nhà này đến nhà khác để xin miếng ăn sống qua ngày. Cuộc đời của Chí Phèo rất lênh đênh và tội nghiệp chẳng khác gì một thứ bèo dại trôi dạt từ nơi này sang nơi khác không có chỗ dung thân. Nhưng thực ra đó cũng là tình cảnh chung của những người nông dân trước cách mạng tháng 8, cuộc đời của họ cũng dập dềnh không khác gì Chí Phèo, những người đi ở đợ, nhưng người buôn thúng, bán mẹt nay đây mai đó không chỗ dung thân phải đi tha hương cầu thực ở xứ người.
Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đã đưa đẩy Chí Phèo đến với gia đình nhà Bá Kiến. Những tưởng được bước vào gia đình giàu có là sẽ kiếm được bát cơm manh áo , không phải lo chuyện no đói hằng ngày nữa nào ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi bà vợ của Bá Kiến cứ bắt hắn bóp chân hằng ngày, khêu gợi những chuyện tế nhị, hắn tuy còn trẻ và ít tuổi nhưng bản thân hắn cũng đủ ý thức phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa, bỉ ổi. Những lời dụ dỗ đó không thể làm mất đi bản chất của Chí Phèo. Nhìn chung lúc bấy giờ Chí là một chàng trai lương thiện, tốt bụng và có lòng tự trọng. Đọc đến đây nhiều người sẽ liên tưởng đến nhân vật chị Dậu của Ngô Tất Tố đã cầm đống giấy bạc để ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện, xấu xa. Hay gần gũi hơn nữa là nhân vật Lão Hạc của Nam Cao, chính lòng tự trọng rất cao đã khiến hắn từ chối mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão cũng đã tìm đến con đường chết để giữ lại lòng tự trọng cao quý ở chính con người mình.
Nhưng sống lương thiện trong xã hội này không hê được yêu thương và quý trọng mà thay vào đó là sự lợi dụng. Bản chất lương thiện, tốt bụng của Chí Phèo đã bị chính cái xã hội thối nát lúc bấy giờ ra sức hủy hoại. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho Bá Kiến bắt giam Chí Phèo và biến hắn từ một người lương thiện thành một con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ngồi tù và trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo đã trở thành một con quỷ đội lốt con người “đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “ trông gớm chết” . Trên người hắn xăm kín người với những hình thù quái dị, bản chất thánh thiện của hắn ngày xưa đã không còn. Bây giờ hắn trở thành một con người chỉ biết làm điều ác. Nhà văn đã sử dụng từ ngữ “ghê chết” để bày tỏ sự kinh hãi đối với hắn. Sự lưu manh trong con người hắn ngày càng hiện lên rất rõ qua những hành động hằng ngày. Khi hắn mua rượu để uống không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch vào mặt rồi nằm ăn vạ,…Hắn càng trở nên độc ác hơn bao giờ hết khi rơi vào tay Bá Kiến và trở thành công cụ đắc lực cho ông ta. Chỉ cần Bá Kiến cho hắn vài hào là hắn có thể đâm chém bất kỳ người nào được ông ta yêu cầu. Càng ngày Chí càng lún sâu vào con đường tội lỗi không có lối thoát.
Ở đây với những đặc điểm nổi bật này ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới và đầy tinh tế trong đời sống của người nông dân Việt Nam khổ cực trước cách mạng tháng tám. Nếu như chỉ dừng lại ở việc phân tích đời sống khốn khổ, bần cùng của những người nông dân thì đã có “tắt đèn”, “bước đường cùng”,… Nhưng cái mới của Nam Cao trong tác phẩm này đó là đã chỉ ra con đường lưu manh hóa, tha hóa của những người nông dân về bản chất. Họ vốn là những con người rất thật thà, chất phác, thánh thiện và giàu lòng tự trọng. Những con người cả cuộc sống không bước ra khỏi cổng làng thì làm sao có thể làm hại người khác được. Song nhà văn bằng ngòi bút xuất sắc và sắc sảo của mình đã vạch ra được tội ác của những kẻ đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó chính là thủ đoạn độc ác, để tiện của bọn cường hào giàu có như Bá Kiến kết hợp với sự tàn bạo, hà khắc của chính quyền thực dân lúc bấy giờ. Chính những con người này đã nhào nặn và bôi bẩn lên tâm hồn vốn rất mong manh và lương thiện của những người nông dân.
Cuộc gặp gỡ với nhân vật Thị Nở đã khiến cho cuộc đời của Chí Phèo bước sang một trang mới. Thị Nở không khác gì một ánh trăng dịu êm của đêm ấy, tình thương của Thị Nở dành cho Chí Phèo không khác gì dòng sông lấp lánh dịu êm dưới ánh trăng chứa chan bao nhiêu tình cảm. Chính những điều đó đã đánh thức bản chất lương thiện trong con người Chí, làm nó sống lại và giúp Chí sống lại kiếp sống của con người. Tình thương quả đúng là thần dược giúp khôi phục các vết thương, chữa lành những tổn thương nặng nhất. Thị Nở đã làm sống lại sự tự ý thức về bản thân trong con người của Chí Phèo. Hắn sống lại với ước muốn giản dị là “một gia đình nhỏ”. Vậy là sau bao nhiêu năm tháng, hôm nay Chí lại nghe thấy tiếng chim hót ở ngoài kia hay tiếng những bà cô đi chợ hỏi nhau “hôm nay vải mấy xu hả mấy dì?”
Những âm thanh này thực ra ngày nào chả có nhưng đến tận hôm nay Chí mới để ý và nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha mong về cuộc sống sau này. Bát cháo hành của Thị Nở đem đến cho Chí khiến hắn vô cùng cảm động “mắt ươn ướt”, “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn nghĩ rất nhiều về tương lai, một tương lai bình dị có một gia đình hạnh phúc. Chí đã khóc, chính giọt nước mắt và nụ cười ấy đã khiến Thị Nở thầm nghĩ “có lúc hắn hiền như đất”. Rồi Chí nói với Thị Nở một cách ấm áp và đầy tình mong muốn Thị Nở sang đấy ở hẳn với mình. Ngay lúc này hắn khát khao muốn được trở về cuộc sống lương thiện như ngày trước không phải bận tâm chuyện gì “trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.
Chính những trang văn ấy đã làm sáng bừng câu chuyện và sáng bừng cả cuộc đời tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, lời nói của hắn lại làm chúng ta cảm động đến vậy. Chúng thể hiện một điều rằng lần đầu tiên trong đời chí đã biết được lí tưởng sống, mục đích sống sau này của cuộc đời mình, nó nằm ở nơi người đàn bà bề ngoài xấu xí bị cả xã hội cười chê, xa lánh. Mong ước giản dị của hắn có thể làm bất kỳ người nào cũng phải giật mình và tự nhìn nhận lại những gì bản thân mình đang có để cảm thấy nâng niu và quý trọng nó hơn.
Tưởng rằng từ nay cuộc đời Chí sẽ bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch của Chí chưa dừng lại ở đó. Thị Nở đã từ chối lời đề nghị ở chung của Chí bởi bà cô Thị Nở không cho phép lấy một thằng không biết làm gì ngoài việc rạch mặt làm chồng. Nếu nhìn nhận đúng thì không thể nào trách bà cô của Thị Nở được bơi đó cũng chính là cách nhìn của những người sống trong xã hội lúc bấy giờ đối với Chí Phèo. Hắn ta khóc rưng rưng và tiếp tục lại rơi vào những ngày tháng bi kịch tuyệt vọng muốn được làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn lại tìm đến những chén rượu, hắn cứ uống cho đến lúc say mềm rồi cầm dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời, với người trong làng bằng những tiếng chửi rủa, còn đời đáp cũng đáp trả lại hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi khắp cả làng Vũ Đại. Vậy là đã rõ, cuộc đời Chí Phèo đã đi vào hồi kết không có lỗi thoát, kiếp hắn giờ cũng được ví như kiếp sống của những con chó mà thôi.
Miệng hắn thì không thôi chửi cô cháu Thị Nở nhưng đôi chân lại dẫn hắn đến trước ngôi nhà của Bá Kiến. Đoạn văn này được nhà văn Nam Cao miêu tả vô cùng tinh tế và sắc sảo và đầy tính nhân văn. Lúc này, Chí Phèo đang ở trạng thái nửa tỉnh , nửa say. Say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở còn tỉnh là để đến nhà Bá Kiến đi theo thói quen trong tiềm thức. Đến nhà Bá Kiến hắn không đòi tiền như thường lệ mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng lúc này hắn đã cảm nhận được sự tuyệt vọng trong cuộc đời của mình. Hắn hét lên trong vô vọng “ai cho tôi lương thiện?” Câu hỏi đó của Chí Phèo không một ai trả lời, điều đó đau đớn đến vô cùng. Câu hỏi của hắn làm người đọc cảm thấy cảm thương sâu sắc đối với những phận người bất hạnh không biết đi đâu vào đâu trong cái xã hội thối nát này. Quá tuyệt vọng, Chí đã lao vào đâm chết lão Bá Kiến độc ác và cũng Chí đã tự kết thúc đời khốn khổ của mình .
Kết câu chuyện Nam Cao để Chí Phèo chết điều đó thể hiện được rất nhiều ý tưởng sâu xa, sâu sắc góp phần tạo nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm vì Chí Phèo chết đã tạo thành một bản án tố cáo xã hội thối nát, áp bức đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa, vô tâm đã sẵn sàng tước bỏ đi quyền sống, quyền làm người của những người dân lương thiện, hiền lành. Chí chọn con đường chết cũng có nghĩa là anh ấy không muốn quay lại con đường lưu manh, không muốn tiếp tục sống một kiếp người làm kẻ độc ác nữa. Anh ấy thà chọn con đường chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng được hoàn lương, quyết tâm không quay lại con đường tội lỗi. Đó chính là sự tin tưởng của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người và Chí Phèo là một điển hình.
Khi miêu tả tấn bi kịch về số phận của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích chi tiết các nguyên nhân sâu xa, cốt lõi tạo nên mạch bi kịch trong cuộc đời bi đát của Chí Phèo. Trong đó nguyên nhân khách quan là xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đẩy con người vào vòng sa ngã không đứng lên được. Còn nguyên nhân chủ quan là bản thân những người nông dân cùng cảnh nghèo khó lại quay lưng lại với nhau, phủ định nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô của Thị Nở. Khi bị xua đuổi, đày đọa, áp bức một cách tàn nhẫn thì những người như Chí Phèo chống trả bằng con đường lưu manh. Kết thúc câu chuyện tác giả miêu tả cảnh Thị Nở nhìn xuống cái bụng của mình và thấp thoáng hình ảnh Chí Phèo hiện ra sau đó. Rất có thể một Chí Phèo con lại chào đời và sống tiếp quãng đường giống bố của nó. Hình tượng Chí Phèo được khắc họa rất thành công và khát quát hóa quy luật của xã hội. Vậy muốn kết thúc chuỗi bi kịch khốn khổ của Chí Phèo thì cần phải tiêu diệt cái xã hội ấy đi, đây chính là chiều sâu, là giá trị trong các tác phẩm của Nam Cao về miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc cũng như lòng thương cảm sâu sắc đối với những kiếp người bị tha hóa trước cách mạng tháng 8. Cùng với Chị Dậu, lão Hạc,…thì hình tượng nhân vật Chí Phèo lại một lần nữa khẳng định cần có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống, quyền làm người cho người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là lời nhắc, cảnh tỉnh cho chúng ta biết yêu thương, quý trọng những gì mà mình đang có và ra sức cống hiến để xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 9
Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Trong đó nổi bật hơn cả phải nhắc đến tác phẩm “Chí Phèo”. Tác phẩm là sự kết tinh của tài năng nghệ thuật, là cái nhìn hiện thực sắc sảo và tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Đặc biệt, diễn biến tâm trạng và hành động của Chí Phèo từ khi gặp Thị Nở đến lúc tự tay cầm dao kết liễu đời mình là một thành công lớn trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Nam Cao. Ngay từ thuở ấu thơ, Chí Phèo đã có hoàn cảnh vô cùng đáng thương. Sinh ra trong một lò gạch, nơi không được coi là ngôi nhà, Chí thậm chí còn không biết cha mẹ mình là ai, chỉ cô độc lớn lên như thế dưới bàn tay chăm sóc mà thiếu tình thương của mọi người trong làng.
Tuy vậy, ông trời vẫn cho Chí bản chất lương thiện, giàu lòng tự trọng cùng ước mơ mái ấm gia đình thật bình dị. Nhưng rồi, nhà tù thực dân đã biến một người tốt thành một tên lưu manh, rồi lại bị Bá Kiến, tên địa chủ cường hào già đời đục khoét biến tiếp thành con quỷ dữ. Bị tước mất quyền làm người, đời Chí tàn rồi trượt dài qua những cơn say rượu triền miên. Duy chỉ khi gặp được Thị Nở, lần đầu tiên Chí Phèo thật sự tỉnh rượu, tỉnh cả tâm tính của một con người với bản chất lương thiện dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Lúc đầu, cuộc gặp gỡ của Chí Phèo với thị Nở chỉ là sự chung chạ do cái bản năng của người đàn ông bị rượu đánh thức. Đến sáng hôm sau, cũng như bao người say tỉnh rượu khác, hắn cảm nhận chính xác được cảm giác miệng đắng, chân tay uể oải và lòng mơ hồ buồn.
Nhưng với Chí, đây là cảm giác, cảm xúc khi vừa được đánh thức không chỉ mỗi cơn say. Có lẽ lâu lắm rồi hắn mới cảm nhận được cuộc sống đời thường với những cảnh sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng người đi chợ, tiếng anh thuyền chài đuổi cá, tiếng chim hót, ánh nắng rọi vào cái lều nát… Tất cả những hình ảnh, âm thanh ấy khi nào mà chả có, nhưng đây là lần đầu tiên Chí có thể cảm nhận được, bởi rước giờ hắn chưa từng hết say. Nhịp sống trở lại đưa Chí Phèo nhớ lại quá khứ xa xôi với những ước mơ bình dị như biết bao người dân quê khác. Chí mơ ước có một gia đình nhỏ, một cuộc sống gia đình hạnh phúc được tạo dựng từ bàn tay lao động cần cù của chính mình. Rồi Chí nghĩ đến hiện tại, nghĩ về tương lai cô độc với tuổi già đau ốm… hắn càng và càng lo hơn, bởi nửa cuộc đời từng trải đủ để hắn hiểu được cô độc còn đáng sợ hơn là đói rét và ốm đau.
Đó lần đầu tiên hắn trở lại làm người, suy nghĩ, lo lắng như một người nông dân nghèo bản chất lương thiện. Một cách tự nhiên, mọi suy nghĩ của Chí Phèo lại hướng về thị Nở, khi Thị bước vào lều với bát cháo hành. Không ngoa khi nói rằng, thị xấu, xấu lắm, thị xấu đến ma chê quỷ hờn. Vậy mà sự chăm sóc của thị dành cho Chí sao mà ân cần, chân thành, mộc mạc đến thế. Ấy nên khi nhận bát cháo hành xoàng xĩnh đó, Chí phèo vừa húp vừa khóc: “thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt”. Đúng thế, trong Chí giờ đây tồn tại rất nhiều tâm trạng khác nhau, trước hết là ngạc nhiên, đến vô cùng. Hắn thật không thể nghĩ đến, không thể ngờ. Một người như Chí, nỗi sợ hãi và căm ghét của cả dân làng, là con quỷ làng Vũ Đại trước giờ muốn ăn thì chỉ có giành lấy cướp lấy của người khác. Vậy mà giờ đây, có người đem đến cho hắn, đến gần hắn mà không sợ hãi hay căm ghét và còn mang lại đời sống mới cho hắn. Sau đó, sự cảm động đến mức không thể kìm nén dâng trào: hình như hắn khóc.
Đây là lần đầu tiên Chí được người ta chăm sóc, lại bởi bàn tay của một người đàn bà. Có thể sự chăm sóc của Thị là một cử chỉ bình thường của một con người dành cho một con người. Thế nhưng đối với Chí phèo, đây là lòng tốt hiếm hoi, duy nhất mà Chí được hưởng từ ngày về làng. Chí cũng cảm thấy thật bâng khuâng, vừa vui vừa buồn, như là ăn năn, hối hận vì những việc ác mà mình đã làm. Nhưng với hiện tại như bây giờ, Chí tràn ngập niềm vui mới mẻ. Hắn thấy lòng như trẻ con, muốn làm nũng thị như bao đứa trẻ làm nũng mẹ. Rồi như một lẽ tự nhiên bất chợt, Chí thấy “thèm lương thiện, muốn làm hoà với mọi người biết bao! Mong muốn thị Nở sống chung…” Vậy là hương vị bát cháo hành, nụ cười tin cẩn cùng với tình người mộc mạc đơn sơ đã đánh thức bản chất trong trắng, lương thiện của anh canh điền năm xưa. Khi tỉnh rượu cũng chính là lúc Chí Phèo bắt đầu tỉnh ngộ, lại khao khát một gia đình hạnh phúc, một cuộc sống thiện lương sẽ được thực hiện cùng thị Nở.
Thì ra, trong bản chất của con quỷ dữ làng Vũ Đại vẫn là một con người rất đáng thương luôn khao khát được làm người lương thiện, chính tình thương giữa người với người đã làm thức tỉnh điều đó. Nhưng niềm vui của Chí Phèo không kéo dài được bao lâu, sự trở về của lương tri lại nhanh chóng đẩy Chí Phèo đến đỉnh điểm của bi kịch. Chí phèo đã bán đi nhân hình lẫn nhân tính, bộ mặt người lẫn linh hồn người để rồi trở thành hiện thân của con quỷ dữ – cực điểm của sự tha hoá. Thủ phạm là Bá Kiến, nhưng tham gia vào đó còn có định kiến của xã hội – lực lượng không kém phần tàn bạo, đẩy Chí đến cùng quẫn, bế tắc. Đại diện cho định kiến xã hội ấy chính là bà cô của Thị Nở. Bà ta đã kiên quyết ngăn cản mối tình này khiến con đường trở lại làm người lương thiện của Chí Phèo bị chặn đứng. Đối diện với sự tàn bạo của xã hội, tình người thoáng thật mong manh và dễ bị tiêu tan.
Và đúng như vậy, Chí Phèo lại bị cự tuyệt. Hắn bị một người xấu đến tột bậc cự tuyệt, bị chính hy vọng duy nhất, khát khao cháy bỏng còn sót lại cự tuyệt. Chí “ngẩn người”, “sửng sốt”, “gọi thị lại, nắm lấy tay”nhưng không được. Đau đớn cùng cực, Chí Phèo mang rượu ra uống nhưng “càng uống càng tỉnh ra” và “tỉnh ra, chao ôi, buồn”. Rượu không thể làm tê liệt tâm trí của hắn nữa, rượu chỉ càng làm cho hắn thấm thía nỗi đau khôn cùng của thân phận. Hắn “ôm mặt khóc rưng rức và quyết định trả thù kẻ đã gây cho hắn ra nông nỗi này”. Lúc đầu Chí tính giết cả nhà Thị, hay không cũng ăn vạ kêu làng cho bẽ mặt cái con đĩ thị đó. Thế nhưng trong tiềm thức từ cơn say, Chí nhận ra Bá Kiến mới chính là kẻ cướp đi quyền làm người, bộ mặt người và linh hồn của hắn. Đây có thể coi là giây phút tỉnh táo nhất của Chí từ khi ra tù về, tỉnh táo để xác định kẻ thù: “Ai cho tao lương thiện?”, tỉnh táo để thể hiện mong muốn cháy bỏng của bản thân: “Tao muốn làm người lương thiện!” và tỉnh táo với sự thật phũ phàng trước mắt: “Tao không thể làm người lương thiện được nữa”. Những câu nói ấy như vừa thể hiện quyết tâm trả thù, vừa bộc lộ niềm phẫn uất, bế tắc của Chí Phèo. Chí dõng dạc kết án Bá Kiến, và đâm chết hắn. Nhưng trả thù rồi thì sự thật vẫn không thể thay đổi. Cuối cùng, Chí Phèo chỉ còn con đường duy nhất là cái chết để được giải thoát, để chấm dứt cái bi kịch khốn cùng vì bị cự tuyệt quyền làm người này.
Vì thế hắn tự đâm mình, chết mà vẫn uất ức, vẫn muốn nói ra điều gì đó trong khát vọng bao thuở của hắn nhưng không thể phát thành lời. Cái chết bi thảm của Chí Phèo chứng tỏ ý thức nhân phẩm của hắn đã trở về. Nếu trước đây để bám lấy sự sống, Chí phải bán rẻ linh hồn thì hiện tại, để được sống như một con người đúng nghĩa, Chí phải từ bỏ mạng sống của mình. Cái chết của Chí cũng chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. Nó thể hiện niềm khát khao cháy bỏng được sống lương thiện của Chí Phèo và cũng là lời tố cáo mãnh liệt xã hội thực dân phong kiến không những đưa người nông dân vào con đường cùng bần hoá, mà còn đẩy họ vào chỗ chết. Nam Cao thật tài tình khi phát hiện và miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân ngay khi họ đã bị biến thành thú dữ, và trả một cái giá đắt để quay lại làm người.
Qua đó, nhà văn gửi gắm lời kêu cứu khẩn thiết: hãy cứu lấy con người, bảo vệ quyền được làm người của mỗi cá nhân trước mọi thế lực xấu xa của cuộc sống. Đây chính là chiều sâu tư tưởng và là giá trị nhân đạo của tác phẩm. Cả đoạn văn không chỉ thành công về mặt nội dung mà còn cả về nghệ thuật: kết cấu truyện vô cũng chặt chẽ, logic; tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính, ngôn ngữ sống động, linh hoạt. Có thể đáng giá, đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau đêm gặp gỡ Thị Nở là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung tư tưởng nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của Nam Cao. Và một câu hỏi lớn được đặt ra: làm thế nào để con người được sống một cuộc sống con người? Điều đó chẳng những Bá Kiến không hiểu nổi mà cả xã hội bấy giờ cũng không thể trả lời được. Sự day dứt, bức thiết của câu hỏi ấy cũng chính là nét đặc sắc nhất đánh dấu “Chí Phèo” trở thành một trong những văn xuôi bậc nhất của văn học hiện đại Việt Nam.
Phân tích Chí Phèo – Mẫu 10
Tình yêu – một chủ đề quen thuộc nhưng không bao giờ cũ trong văn chương. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ lấy tình yêu làm cảm hứng sáng tác cho mình. Họ ca ngợi, họ tôn vinh tình yêu như những thiên thần có cánh. Nhưng Nam Cao lại khác, với tình yêu nghiệt ngã của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” viết về người nông dân trong xã hội cũ, ông đã cho mọi người chứng kiến một tình yêu hoàn toàn mới. Ở đó hạnh phúc có, khổ đau cũng có. Nhưng trên hết, tình yêu ấy còn là thông điệp sâu sắc mà nhà văn muốn nhắm đến cả một giai cấp, một tầng lớp người trong xã hội. Tình yêu ấy, đẹp thật đẹp mà đau cũng thật đau khiến cho người trong cuộc là Chí Phèo đã vật lộn và cuối cùng đi đến cái chết. Nhưng ít nhất, trước khi chết, Chí Phèo cũng đã kịp hưởng thụ hương vị của tình yêu dù chỉ là trong những ngày ngắn ngủi.
Chí Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ được dân làng nuôi nấng. Lớn lên Chí làm người ở cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị bà ba dâm đãng hãm hại khiến Bá Kiến ghen đẩy vào tù. Những năm tháng tù đày cùng với lòng thù hận đã khiến Chí từ một chàng thanh niên hiền lành tốt tính trở thành một con quỷ dữ khi trở về làng. Chí đắm mình trong những cơn say. Cho đến một ngày Chí gặp Thị, tình yêu sét đánh gắn kết hai con người với nhau. Nhưng trong lúc đang lâng đang hạnh phúc thì Thị nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí khiến Chí một lần nữa rơi vào tuyệt vọng. Lòng hận thù trong Chí lại nổi lên và Chí quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình để được làm người lương thiện.
Những diễn biến trong cuộc đời Chí chẳng khác nào tấm bản đồ lúc lên lúc xuống. Và trong đó, những phút giây được ở cạnh Thị Nở chính là đoạn đường đẹp nhất, sáng nhất trong cả tấm bản đồ chằng chịt những nét đứt gãy khúc khuỷu, gập ghềnh.
Cuộc gặp gỡ của Chí và Thị chỉ là sự tình cờ giữa hai con người mê muội. Chí lúc tỉnh lúc say, mà hầu như là chẳng tỉnh bao giờ. Còn thị cũng ngù ngờ, dở hơi. Đã thế, nhà văn lại ban cho ả một “nhan sắc” “kinh tởm” mà ông tóm gọn trong mấy từ “xấu ma chê quỷ hờn”. Ấy vậy mà khi gặp nhau, cái xấu ấy lại làm một cho một người đàn ông chết mê chết mệt. Có thể vì bản năng, vì dục vọng thể xác mà họ ngã vào nhau. Nhưng sau khi thỏa mãn, họ lại dành cho nhau những thứ tình cảm thật “lạ lùng”. Lạ đến mức người đàn bà dở hơi ấy đã xác định được đây chính là cuộc sống “vợ chồng”. “Hai từ vợ chồng nghe ngường ngượng nhưng mà thinh thích”. Đây đúng là tâm lý của kẻ mới yêu, đang yêu và đang hạnh phúc.
Còn Chí, sau trận ấy, Chí bị ốm. Một trận ốm nặng mà nếu không có Thị, Chí sẽ chết mất. Thị dù có dở hơi, nhưng tấm lòng vẫn thánh thiện khi dành cho Chí một bát cháo hành với ý nghĩ giúp Chí mau khỏe mạnh. Có lẽ Thị là người cuối cùng còn sót lại trong xã hội này nhìn nhận đến Chí. Hoặc do thị ngù ngờ nên không phân biệt được đâu là người, đâu là quỷ dữ nên mới chấp nhận con người Chí. Nhưng dù gì đi chăng nữa, những ân cần săn sóc của Thị cũng đã mang một làn gió mới đến với cuộc đời Chí. “Bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan hắn lại nôn nao lên một tí.
Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!”. “Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều.
Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Những dòng suy nghĩ của Chí cho thấy rằng Chí hoàn toàn rất khôn ngoan, rất có ý thức sống. Chỉ là do trước đây vì đắm chìm trong men rượu nhiều quá nên Chí không còn nghĩ ngợi tới nữa. Một con người đã trải qua quá nhiều biến cố trong cuộc đời, dòng suy nghĩ hẳn là chín chắn và thấu đáo hơn rất nhiều. Chí biết tiếc cuộc sống, biết nhận ra cuộc đời mình lúc này đang ở trong tình trạng như thế nào và mình cần phải sống ra sao. Chí buồn vì đã để cuộc đời chìm trong cơn say quá nhiều. Và cũng hận khi đã tự chôn vùi đời mình trong thù hận. Những dòng suy nghĩ ấy làm Chí bừng tỉnh và sống lại ước mơ nhỏ bé nhưng giản đơn và thánh thiện ngày nào của mình.
Chí ước có một gia đình nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn. Vợ dệt vải thêu thùa. Cuộc sống ấy tuy nghèo, tuy thiếu thốn nhưng sẽ hạnh phúc biết bao. Và giờ đây Chí muốn tiếp tục thực hiện ước mơ ấy cùng Thị Nở. Chí sẽ làm lại từ đầu, làm hòa với mọi người. Chí đang rất tỉnh. Nếu lúc trước Chí say và ngã vào Thị vì Chí không biết rằng người đàn bà ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hơn. Nhưng lúc này, khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không những chấp nhận thị mà còn yêu thị. Bởi chỉ có tình yêu mới khiến con người ta cảm hóa những cái xấu thành cái đẹp.
Chí thấy thị có duyên lắm. Và Chí đang rất vui khi được ở cùng thị. Chí đâu có say. Chính vì Chí tỉnh nên Chí mới cảm nhận được những hương vị của cuộc sống, của tình yêu. Những chi tiết này cho ta khám phá ra thêm một đức tính nửa của Chí. Đó là lòng nhân hậu lớn lao vô cùng. Bởi trong làng ai cũng nhìn Thị bằng con mắt khinh thường và cho rằng Thị chỉ là một người dở hơi. Mà đúng là thị dở thật. Cũng chính vì dở nên Thị mới để cho Chí ngã vào. Nhưng khi tỉnh táo, tình thế đã đảo ngược lại. Lúc này Chí là người khôn ngoan và hoàn toàn bình thường. Nhưng Chí không hề chê bai Thị, cũng chẳng xua bỏ thị. Mà ngược lại, Chí còn muốn gắn bó cả đời với thị, cùng thị xây dựng ước mơ ngày nào còn dang dở của mình….
Nhưng rồi, hạnh phúc ấy chẳng được bao lâu, những dự định của Chí cũng vụt tắt khi Thị trở về nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí. Chí một mình ở lại trong căn lều in dấu bao kỷ niệm về tình yêu của mình. Thất vọng, khổ đau và lòng thù hận lại nổi lên. Nhưng lần này, Chí tỉnh rồi, Chí không đi rạch mặt ăn vạ nữa. Chí đến thẳng nhà Bá Kiến để đòi lại quyền sống của mình. Sống nhưng lại là chết. Chết để giữ được bản chất lương thiện của bản thân. Chí giết Bá Kiến rồi cũng tự kết liễu cuộc đời mình. Phải đi đến quyết định ấy, hẳn là Chí đau khổ lắm. Nhưng với Chí lúc này, đó là cách duy nhất để không quay lại cuộc sống nghiệt ngã như trước kia nữa.
Như vậy, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí đã liên tiếp xảy ra hai biến cố lớn. Một là tỉnh – tỉnh dậy sau những cơn say dài triền miên. Tỉnh để sống, để yêu và hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy không được bao lâu thì biến cố thứ hai lại xảy đến khi thị trở mặt với Chí, khiến Chí tiếc nuối khôn nguôi. Trong cơn tuyệt vọng Chí giết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Không phải vô tình mà Nam Cao lại dàn dựng nên những dòng tâm lý trắc ẩn cho Chí, mà trong đó là những thông điệp sâu xa mà ông muốn gửi gắm đến người đọc.
Thứ nhất là hình ảnh về người nông dân nghèo khổ, bất hạnh bị xã hội đẩy đưa đến bước đường cùng. Đến ngay cả cái hạnh phúc của bản năng con người họ cũng không có được. Cho đến khi có được thì lại nhanh chóng vụt bay cũng chỉ vì định kiến xã hội.
Thứ hai, nhà văn muốn đề cao nhân phẩm, phẩm chất của con người. Chí dù say, nhưng khi tỉnh hắn vẫn luôn mang một tâm hồn trong sáng với tấm lòng nhân hậu tinh khiết. Đặc biệt, là Thị Nở – bên trong người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn ấy lại chính là một tâm hồn cao cả. Suýt chút nữa Thị cũng đã bị vùi dập giống như Chí. Hai cong người cùng chung cảnh ngộ ngã vào nhau, cùng làm cho nhau tìm lại chính bản thân mình.
Thứ ba, Nam Cao đã đưa người đọc đến với một tầm cao mới của tình yêu. Đó là tình yêu không chỉ dừng lại ở xác thịt mà ở tình yêu còn là sự đồng điệu của hai tâm hồn. Yêu không vì vẻ bề ngoài, cũng không vì vật chất cao sang. Yêu chỉ vì yêu, vì trái tim. Nhưng dù yêu đến thế nào đi nữa, tình yêu cũng không thể vượt qua giới hạn của thực tế. Ở đây, thực tế của Chí Phèo – Thị Nở chính là những định kiến nghiệt ngã về một tên quỷ dữ đội lốt người mang tên Chí Phèo.
Thứ tư, là sự minh mẫn, sự thức tỉnh trong tình yêu. Tình yêu dù vui buồn hay hạnh phúc, nhưng thứ mà con người ta cần phải giữ vững là tinh thần, là trí óc. Ở đây, sau khi thức tỉnh, Chí vẫn giữ vững tình cảm của mình với thị. Ngay cả sau khi bị thị chối từ, Chí vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Chính vì thế Chí mới đi đến quyết định giết chết Bá Kiến rồi tự vẫn.
Như vậy, chỉ bằng một đoạn văn ngắn kể lại diễn biến tâm trạng của nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, nhà văn đã gửi gắm những thông điệp có ý nghĩa sâu xa tới người đọc. Nam Cao không còn, và cuối tác phẩm Chí Phèo cũng chết nhưng những dòng xúc cảm của một con người lần đầu tiên tỉnh rượu đã đánh động tâm hồn mọi người tự ý thức mình, tự nâng niu, trân trọng những gì mình đang có trong cuộc sống cũng như trong tình yêu.
Chỉ là một truyện ngắn, lại là truyện ngắn sáng tác sớm của Nam Cao về đề tài nông dân, nhưng Chí Phèo là sự tổng hợp, sự kết tinh của ngòi bút Nam Cat về đề tài này. Nếu như Nam Cao có thể được coi là “nhà văn của nông dân” , cùng với Ngô Tất Tố, thì trước hết vì ông có Chí Phèo. Khác với truyện ngắn cùng đề tài của tác giả, Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải ra cả bề rộng không gian (một làng quê) và cả bề dài thời gian. Có thể nói, làng Vũ Đại trong truyện chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt Nam đương thời.
Những năm 1940 – 1945, nông thôn vẫn là một đề tài lớn trong văn xuôi khu vực hợp pháp. Các nhà văn đã đi vào đề tài này theo chiều hướng khác nhau. Trước hết là đi vào phong tục tập quán dân quê, sự lục đục giữa vợ cả và vợ lẽ, mẹ chồng và nàng dâu, dì ghẻ và con chồng, anh và em, chú bác, cô cậu và những đứa cháu bên nội, bên ngoại. Trên bối cảnh chung của văn học hiện thực thời kì 1940 – 1945, Chí Phèo là một hiện tượng đột xuất. Giông như Tắt đèn, Bước đường cùng, Giông tố…. thời Mặt trận dân chủ, Chí Phèo cũng là “bức tranh xã hội rộng lớn với những xung đột giai cấp quyết liệt”. Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về tính đầy đặn, đa dạng nhiều màu sắc của bức tranh về đời sông xã hội nông thôn.
Song, dựng lên bức tranh xã hội ở nông thôn, Nam Cao trước hết tập trung nổi bật mối xung đột giai cấp đối kháng giữa bọn địa chủ cường hào thống trị và người nông dân bị áp bức bóc lột. Tức là, cũng như tác giả Tắt đèn, Bước cùng…. Nam Cao đã phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Chí Phèo của Nam Cao đã xây dựng một hình tượng điển hình khá hoàn chỉnh về giai cấp phong kiến thống trị ở nông thôn: Bá Kiến.
Chân dung lão cường hào cáo già Bá Kiến dần dần hiện rõ trong tác phẩm những nét tính cách được thể hiện hết sức sinh động, đầy ấn tượng. Đó là khái quát “rất sang” (“bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để thử dây thần kinh mọi người”), lối nói ngọt nhạt, và nhất là “cái cười Tào Tháo” (“cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy”) – tất cả đều cho thấy bản chất gian hùng của lão cường hào “khôn róc đời” này. Nam Cao cũng hé cho thấy tư cách nhem nhuốc của “cụ tiên chỉ”: đó là thói ghen tuông thảm hại của lão cường hào háo sắc mà sợ vợ – lão cay đắng nhận ra mình “già yếu quá ” mà “bà Tư” thì “cứ trẻ, cứ phây phây”, “nhìn thì thích nhưng mà tưng tức lạ… khác gì nhai miếng bò lựt sựt khi rụng gần hết răng”. Đó là chuyện lão gỡ gạc tồi tệ đối với người vợ lính vắng chồng… Và bổ sung vào đó, để cho sự thối nát của nhà “cụ Bá” được hoàn chỉnh, còn có “Bà Tư” quỷ cái “thường gọi canh điền lên bóp chân mà lại “cứ bóp lên trên, trên nữa”… Nhà văn chỉ kể qua, nhẹ nhàng, – tuy không kém thâm thúy, chứ không sa đà trong việc soi mói đời tư thối tha của lão cường hào.
Ông tập ưung ngòi bút vào việc soi sáng bản chất xã hội của nhân vật, chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với người nông dân bị áp bức. Đoạn độc thoại nội tâm rất mực sinh động của “cụ tiên chỉ làng Vũ Đại” về cái “nghề tổng lí”cho thấy Nam Cao chẳng những soi thấu tim đen của nhân vật mà còn tỏ ra hiểu rất sâu các mối quan hệ xã hội ở nông thôn. Bá Kiến đã lặng lẽ nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra từ bốn đời tổng lí những phương châm, thủ đoạn thống trị khôn ngoan: “mềm nắn, rắn buông”, “bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu”, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”, “chỉ bóp đến nửa chừng”, “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”… Còn đây là chính sách dùng người của lão: “không có những thằng đầu bò thì lấy ai trị những thằng đầu bò”, “thu dụng những thằng bạt mạng không sợ chết và không sợ đi tù.
Những thằng ấy chính là những thằng được việc. Khi cần đến chỉ cho nó dăm hào uống rượu là có thể sai nó đến tác oai tác quái bất cứ anh nào không nghe mình (…). có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn…. “… Tất cả đều nhằm sao cho vừa bóp nặn được nhiều nhất, vừa giữ chắc cái ghế thống trị. Tâm địa thâm độc tới ghê sợ của Bá Kiến còn thể hiện trong việc hắn nhẹ nhàng “khích” Chí Phèo đòi nợ đội Tảo, đẩy những kẻ sẵn sàng đâm chém ấy vào chỗ chém nhau, để kẻ nào sống “cũng có lợi cụ cả”! Bá Kiến thật là một con hổ biết cười!.
Vạch khổ cho người nông dân bị áp bức bóc lột, Nam Cao không đi vào nan sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan tham lại những, thiên tai địch họa…. ở Chí Phèo và nhiều truyện nữa, nhà văn đi vào một phương khác: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó, bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải ở chỗ tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một không: không nhà, không cửa, không cha không mẹ, không họ hàng thân thích không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở…, mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phải sống kiếp sống tối tăm của thú vật. Mở đầu truyện là hình ảnh hết sức sống động, độc đáo của Chí Phèo khật khưỡng vừa đi vừa chửi.
Nhưng đằng sau cái chân dung gã say rượu chửi lảm nhảm được vẽ bằng những nét bút tưởng đâu là kí họa gây cười ấy, nếu đọc kĩ còn có thể thấy một cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Không, tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Hắn từ “chửi trời” đến “chửi đời” rồi “chửi ngay tất cả làng Vũ Đại…” .Và hắn bỗng tức tối khi thấy “không ai lên tiếng cả”… Trong cơn say hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thìa “nông nỗi” khôn khổ của thân phận. Đó là “nông nỗi” không có người nào chịu chửi lại hắn! Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người, là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với… hi vọng được người nào đó chửi lại. Những tín hiệu yêu cầu giao tiếp phát đi liên tục đó chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Và vẫn còn lại một mình Chí Phèo trong sa mạc cô đơn: Hắn cứ “chửi rồi lại nghe”, “chỉ có ba con chó dữ một thằng say rượu!…
Cảnh mở đầu đột ngột của thiên truyện đó chẳng những đã giới thiệu hấp dẫn tính cách độc đáo của nhân vật mà còn hé thấy tình trạng bi đát của một số phận. Chí Phèo trước hết là một hiện tượng có tính quy luật, tính phổ biến, sản phẩm của tình trạng áp bức bóc lột tàn tệ ở nông thôn Việt Nam trước đây. Đây là hiện tượng những người nông dân lao động bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Bá Kiến đẩy anh canh điền hiền lành vào tù; nhà tù thực dân – chỗ dựa tin cậy của bọn phong kiến trong việc đàn áp nông dân – đã tiếp tay lão cường hào để giết chết phần người trong con người Chí, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người nông dân lương thiện thành một con quỷ dữ.
Với ngòi bút hiện thực tỉnh táo ông vạch ra rằng, những người nông khốn khổ phải giành lấy sự tồn tại sinh vật bằng việc bán cả nhân phẩm ấy, đã trở thành lực lượng phá hoại mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng, Vì thế mà Chí Phèo từ chỗ hung hăng đến nhà Bá Kiến, tuyên bố “liều chết với bố con” lão, chỉ cần mấy câu nói ngọt xớt, chuỗi cười Tào Tháo và mấy hào chỉ, đã trở thành tên tay sai mới của lão. Hiện tượng mỉa mai, đau xót rất phổ biến và có tính quy luật mà ngòi bút phân tích xã hội sâu sắc Nam Cao đã vạch ra.
Giá trị điển hình, sức mạnh tố eáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là ở chỗ làm nổi bật lên cái hiện tượng có tính quy luật vẫn hằng diễn ra ở xã hội nông thôn đầy bất công và tội ác đương thời đó. Vấn đề của Chí Phèo là vấn đề nông dân – với ý nghĩa đó, vẫn có thể nói Chí Phèo là một hình tượng điển hình về nông dân. Truyện ban đầu được tác giả đặt tên là Cái lò gạch cũ; hình ảnh cái lò gạch cũ được xuất hiện ở phần mở đầu và cả khi kết thúc truyện. Rõ ràng đó là ý nghệ thuật của Nam Cao. Cái lò gạch cũ như là một biểu tượng về sự hiện tất yếu của hiện tượng Chí Phèo, gắn liền với tuyến chủ đề chính của tác phẩm.
Câu chuyện mối tình Chí Phèo – Thị Nở quả là hấp dẫn đặc biệt. Song mặc dù giọng văn bông lơn, có lúc như chế giễu, mặc dù đối với một số người, đó là sự hấp dẫn của loại truyện tình bờ hụi của hạng nữa người ngợm, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, “đôi lứa xứng đôi”, thì đây vẫn thật sự là truyện có một nội dung hết sức nghiêm túc, chứa đựng một tư tưởng nhân đạo thật mới mẻ, độc đáo đem lại cho tác phẩm một tầm vóc bất ngờ.
Ban đầu, Chí Phèo đến với Thị Nở một cách rất… Chí Phèo. Trong một đêm “rười rượi những trăng”, có những tầu chuối nằm ngửa ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rười rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên đành như là “hứng tình”, Chí Phèo rất say và cảm thấy “bứt rứt”, “ngứa ngáy” da thịt, đã xông tới người đàn bà khốn khổ “dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn”. Khi Thị Nở hốt hoảng kêu làng, thì “cái thằng trời đánh không chết ấy lại kêu to hơn, “vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống”! Trâng no, lì lợm đến thế là cùng! Nhưng điều kì diệu đã xảy ra là, nếu như ban đầu, Thị Nở chỉ khơi dậy bản năng giống đực ở gã đàn ông Chí Phèo, thì sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và lòng yêu thương mộc mạc mà chân thành của đàn bà khốn khổ ấy đã làm thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong Chí Phèo. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của linh hồn Chí Phèo sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, là một đoạn tuyệt bút, đầy chất thơ và tập trung thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc bất ngờ cùa ngòi bút Nam Cao.
Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy muộn và lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, Chí Phèo mới lại nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ nể chèo đuổi cá…Những âm thanh quen thuộc trong cuộc sống lao động xung quanh ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay bỗng trở nên vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo, trở thành những tiếng gọi tha thiết của cuộc sống vẳng đến bên tai lần đầu tiên tỉnh táo của anh. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tăm tối dằng dặc của Chí Phèo. Dưới ánh sáng của tia chớp ấy, Chí Phèo bỗng nhìn rõ tất cả cuộc đời mình: những ngày xưa “rất xa xôi ” đã từng “ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng! Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
Cái hiện tại đáng buồn: “già mà vẫn cô độc”, cái tương lai còn đáng buồn hơn: “đói rét và ốm đau và cô độc cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Nếu như bao nhiêu năm nay, Chí Phèo “bao giờ cũng say”, “say tận”, “có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời”, thì hôm nay lần đầu tiên Chí Phèo tỉnh táo, tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Trước đi Chí Phèo sống và hành động hoàn toàn vô thức, hắn không thể biết và không cần biết hắn là gì và đã làm những gì: “hắn không biết rằng hắn là con quỷ .. của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng (…). Hắn biết đâu vì làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say… Giờ đây, lần đầu tiên, Chí Phèo nhận ra sự hiện hữu của mình, đối mặt với chính mình, và đồng thời, cũng lần đầu tiên, nhận ra sự bế tắc tuyệt vọng của thân phận mình. Khi thấy Thị Ni bưng cháo hành đến, hắn “rất ngạc nhiên” và hết sức xúc động. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”.
Hắn ăn bát cháo từ tay Thị Nở và bỗng nhận thấy rằng cháo hành ăn rất ngon. Bởi vì hương vị cháo hành này chính là hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị, mà có thật, lần đầu tiên đến với Chí Phèo. Lần đầu tiên, Chí Phèo mắt “như ươn ướt”, “ôi sau mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt của mình”. Trở lại là anh canh điền trong trắng năm xưa cảm thây bị xúc phạm khi bị cái bà ba “quỷ cái” gọi lên bóp chân, trở lại anh nông dân lương thiện từng mơ ước cuộc sống gia đình hạnh phúc hết sức bình dị khiêm nhường trong lao động… “Đó là cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi… ”
Như vây là, lòng yêu thương, cái tình người chân thành đã làm sống lại trong Chí Phèo cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động, bao lâu nay bị cho lấp, vùi dập nhưng vẫn không tắt. Bọn cường hào và nhà tù thực dân, nói rộng ra là cả cái xã hội tàn bạo ấy, ra sức giết chết cái “bản tính tốt” ấy của anh “Trần trụi giữa bầy sói”, anh không thể hiền lành, trong trắng, mà để tồn tại anh phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều và mạnh, những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, ” hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm” – xét cho cùng, Chí Phèo không chịu trách nhiệm về những hành động của mình: linh hồn của anh đã bị cướp đi rồi.
Nhưng hôm nay, tình yêu đã thức tỉnh anh và linh hồn anh đã trở về. Anh thấy “thèm lương thiện”, “muốn làm hòa với mọi người biết bao!”, Anh như rưng rưng và bẽn lẽn trong sự phục sinh của linh hồn đó. Anh mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Tình của Thị Nở chẳng những đã thức tĩnh anh mà còn hé mở cho anh con đường trở lại làm người, trở lại cuộc đời, và anh hồi hộp hy vọng.
Đã hơn một lần, Nam Cao viết về những mối tình của những kẻ bị cả xã hội miệt thị, lăng nhục độc ác: Lang Rận – mụ Lợi, Đức – Nhi, Chí Phèo – Thị Nở… Tuy vẫn giữ giọng văn khách quan, hài hước, nhà văn đã dứt khoát đứng ra làm luật sư cãi trắng án cho những con người bất hạnh, bị mọi người hắt hủi đó, nhất là khi họ bị ném vào tình thế nhục nhã, trở thành cái đích cho những mũi tên chế giễu độc ác của người đời đầy thành kiến mu muội. Ông đã đanh thép bênh quyền được yêu của họ và khẳng định tính chính đáng của những mối tình như thế. Có gì là không chính đáng nếu như những con người trong khi bị cả xã hội xua đuổi ấy đã đến với nhau, tìm thấy ở nhau sự giao cảm, chia sẻ nỗi lòng?
Vì nếu tình yêu chân chính là tình yêu làm nhân đạo hóa con người, nâng cao sống, thì đã có mấy lần tình yêu có tác dụng nhân đạo hóa kì diệu, cảm động như mối tình Thị Nở – Chí Phèo? Chẳng phải tình yêu thương tuy đơn giản, có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí ấy đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ Chí Phèo, đưa hắn từ cõi địa ngục trở về cõi người đó sao? Chẳng phải một sự hóa giải thần bí nào mà chỉ là một tình yêu rất mực trần tục, nhưng là tình yêu đích thực con người, thật lành mạnh, khỏe khoắn. Mô típ nghệ thuật này được xử lí bằng một tư tưởng nhân đạo lớn lao và một bút lực phi thường, chỉ có Nam Cao.
Tư tưởng nhân đạo và hút lực phi thường đó còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Truyện ngắn đầy hấp dẫn này càng về cuối càng đặc biệt hấp dẫn; không phải chỉ vì cốt truyện, tình tiết đầy tính kịch, biến hóa khôn lường, mà còn vì tầm tư tưởng càng ngày càng nâng cao một cách bất ngờ của tác phẩm. Nhiều người cũng nói đến Chí Phèo như là một bi kịch số phận, song nếu hiểu cho chặt chẽ, chính xác thì chỉ từ nhân vật này đã thức tỉnh linh hồn, khao khát trở lại làm người nhưng bị cự tuyệt lạnh lùng, thì chỉ đến khi đó, Chí Phèo mới thật sự rơi vào tình thế bi kịch: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người.
Khi hiểu ra rằng xã hội không công nhận mình, Chí Phèo vật vã đau đớn. Hắn lại uống, nhưng điều lạ là, hôm nay “hắn càng uống càng tỉnh ra”. Đúng hơn là tuy say, trong tâm thức Chí Phèo lúc này vẫn có một điềm tỉnh: nỗi đau khôn cùng về thân phận, và “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Rồi như để chạy trốn bản thân, chạy trốn nổi đau, hắn “lại uống… lại uống… đến say mềm người”. Rồi hắn đi với một con dao và vừa đi vừa chửi… như mọi lần. Nhưng lại hoàn toàn khác mọi lần: hôm nay, Chí Phèo quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng, càng thấm thía hơn bao giờ tội ác của kẻ thù, đã đến thẳng trước Bá Kiến “trợn mắt, chỉ tay vào mặt” lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Kẻ chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, anh không thể chấp nhận trở lại kiếp sông thú vật được nữa.
Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Thế là, trước đây, để bám lại sự sống, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ; giờ đây, ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về. Nhiều người nghi ngờ tâm lòng của Nam Cao đối với nông dân, vì thấy người nông dân của nhà văn phần nhiều xấu xa dữ tợn. Vậy mà chính ở những người khốn khổ có bộ mặt và tính cách không mấy “đáng yêu” đó, nhiều khi ý thức nhân phẩm còn mạnh hơn cả cái chết. Lão Hạc bề ngoài dường như lẩm cẩm, gàn dở nhưng lão đã lặng lẽ tìm đến cái chết để giữ trọn lòng tự trọng trong cảnh cùng đường (Lão Hạc). Lang Rận cũng tìm đến cái chết vì không chịu nổi điều nhục nhã đang chờ ông ta hôm sau (Lang Rận) và ở đây là Chí Phèo?
Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn, khao khát lớn lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện đã không thực hiện được. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ vừa mang sắc thái triết học và âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đời sững sờ và day dứt không thôi…”Ai cho tao lương thiện?”.
Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó là “một câu hỏi lớn không lời đáp chẳng những Bá Kiến không thể hiểu mà xã hội khi ấy cũng chưa thể trả lời Câu hỏi ấy được đặt ra một cách bức thiết, day dứt trong hầu như toàn bộ sáng tác Nam Cao ưước cách mạng. Và đặt ra bằng một tài năng lớn, độc đáo, khiến cho nhiều sáng tác của Nam Cao – trước hết là Chí Phèo – thuộc vào những trang hay nhất của nền văn xuôi Việt Nam.
Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nam Cao. Truyện ngắn Chí phèo đã được Nam Cao tái hiện lại hình ảnh nông thôn của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ (trước Cách mạng tháng Tám). Đó là một xã hội được đặc trưng bởi một bên là bộ mặt của Bá Kiến, Lí Cường, Đội Tảo. Đây là một đội ngũ cường hào, đại chủ thống trị, bóc lột sức lao động của nhân dân. Nhưng cũng chính trong nội bộ này cũng có sự mâu thuẫn. Bọn chúng như một đàn cá tranh mồi. Mồi thì ngon mà bè nào cũng muốn ăn, do đó, chúng luôn rình cơ hội để thống trị lẫn nhau, muốn cho nhau lụi bại để cưỡi đầu cưỡi cổ lên nhau. Mâu thuẫn khá phổ biến, gay gắt, có liên quan đến những số phận Binh Chức, Năm Thọ và đặc biệt là Chí Phèo.
Trọng tâm phân tích nghị luận văn học chí phèo là tầng lớp thứ hai. Đây là những người như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức, họ lại hợp thành một nhóm riêng. Họ là những người dân thường, những người lao động nghèo, nhưng đã bị manh hóa, bị mua chuộc và trở thành tay sai cho bọn địa chủ thống trị, những tên cường hào, lí dịch và gây nên không biết bao nhiêu tội vạ cho những người lương thiện. Dưới ngòi bút của Nam Cao, bức tranh xã hội hiện lên đầy kịch tính, chất chứa những xung đột bùng nổ.
1. Nghị luận văn học chí phèo luận điểm 1: Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo
Từ người nông dân lương thiện đến lưu manh:
Chí vốn là một thằng không cha, không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa, bạn bè,,, Cả một thời niên thiếu sống bơ vơ: “đi ở cho hết nhà này sang nhà nọ”. Lớn lên đi làm canh điền cho cường hào trong vùng. Lúc ấy Chí vẫn là một nông dân lương thiện, khỏe mạnh về thể xác và lành mạnh về tâm hồn – một con người “hiền như đất”, giàu lòng tự trọng và biết phân biệt tình yêu cao thượng và nhục dục thấp hèn. Chí từng mơ ước một gia đình “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải” – một ước mơ giản dị và rất người. Tuy nhiên, một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù, bắt đầu một quá trình tha hóa một con người. Trong nghị luận văn học chí phèo thì đây chính là bước ngoặt quan trọng của tính cách nhân vật
Nhà tù vốn là nơi để người có tội chuộc lỗi, là công cụ cải tạo con người. Vậy mà nhà tù thực dân đã tiếp tay cho bọn cường hào, ác bá, giết chết đi phần người trong Chí Phèo, để Chí mãi trượt dài trên dốc của sự tha hóa. Trở về sau 7,8 năm tù, Chí Phèo trở thành một “người ngoài” ở làng Vũ Đại vì sự đáng sợ toát lên ở vẻ ngoài: “Cái đầu trọc lốc… trông gớm chết!”. Không chỉ biến dạng về diện mạo, hình hài đến trang phục, tính tình cũng khác: “Hắn mặc cái quần nái đen… trông gớm chết”.
Và Chí, giữa cái xã hội mà ai cũng nghĩ “chắc nó trừ mình ra”, lạnh lùng xa lánh hắn. Hắn uống rượu, chửi bới, dọa đốt quán, rạch mặt ăn vạ… Hắn đã trở thành một phần tử lưu manh một cách mù quáng.
Từ một kẻ lưu manh đến quỷ dữ làng Vũ Đại
Không dừng ở đó, dưới bàn tay quỷ quyệt của Bá Kiến, Chí Phèo đã trở thành một công cụ gây tội ác trong mắt người dân làng Vũ Đại. Người đẩy Chí vào bước đường ấy là Bá Kiến, vậy mà Chí Phèo không thể đòi lại công bằng cho mình. “Hắn tác quái cho bao nhiêu dân làng, phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện… “.
Thông qua điển hình văn học chí phèo, Nam Cao đã vẽ nên bức tranh khái quát xã hội thực dân nửa phong kiến giai đoạn trước 1945
Và cứ như thế, Chí Phèo dấn sâu vào tội ác, vực thẳm của đau thương và tội lỗi, bị chính kẻ thù lợi dụng và trượt dài trên con đường tha hóa, không lối thoát => Đây chính là bước ngoặt thứ hai trong nghị luận văn học chí phèo. Tấn bi kịch đầy nghịch lý, vừa là nạn nhân của bọn cường hào, ác bá, vừa là con quỷ dữ của làng, bị mọi người xa lánh, ngoảnh mặt. Ngòi bút nhân đạo của nhà văn Nam Cao đã vạch trần hiện thực trước mắt người đọc, đó là sự cùng quẫn của hoàn cảnh sống, sự nham hiểm, độc ác của bọn cường hào, địa chủ ở nông thôn, sự phi nhân tính của nhà tù thực dân và định kiến của đồng loại đối với những con người cùng đinh, khốn khổ như Chí Phèo. Chính xã hội phi nhân tính đã đẩy con người vào con đường lưu manh, tha hóa.
2. Nghị luận văn học chí phèo luận điểm 2: Quá trình thức tỉnh của Chí Phèo
Sau đêm gặp Thị Nở
Lần đầu tiên sau những cơn say vô tận, “hắn tỉnh” và nhận ra cuộc sống xung quanh qua những âm thanh: “Tiếng chim hót… cá…”. Những âm thanh cuộc sống rất thực ngoài kia đang đánh thức hắn, kéo hắn ra khỏi những ngày tháng u mê, tăm tối, gợi nhắc đến mơ ước rất người mà hắn từng ấp ủ. Chí thức tỉnh và sống lại với những cảm xúc rất người cùng ý thức cũng đã trở lại trong hắn.
Sự chăm sóc của Thị Nở làm tâm hồn Chí Phèo thực sự hồi sinh
Đó là lần đầu tiên Chí được chăm sóc bởi bàn tay một người đàn bà, bằng một bát cháo hành giản dị, chân thành của Thị Nở. Đó là bát cháo từ bàn tay ấm nóng tình thương làm “hắn rất ngạc nhiên”, “hết ngạc nhiên hắn thấy mắt hình như ươn ướt”. Bát cháo hành của Thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh, những cảm xúc rất người. Đây là bước ngoặt thứ ba trong nghị luận văn học chí phèo. Hắn khóc. Bởi vì “đây là lần thứ nhất hắn được người ta cho”, hắn được cư xử như một con người. Trước đây, muốn được ăn, hắn toàn phải dọa nạt, giật cướp, phải rạch mặt ăn vạ… Chính hương vị cháo hành – thứ hương vị của tình thương chân thành và cảm động. Hạnh phúc giản dị mà thấm thía lần đầu tiên Chí được nhận lấy đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện… thân thiện của những người lương thiện.” Quả là kì diệu. Cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lương thiện bị vùi dập lâu nay lại bừng sáng trong tâm hồn Chí Phèo.
Sự thức tỉnh về quyền làm người và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người lương thiện
Trong lúc tưởng chừng như hạnh phúc đã thuộc về mình, hắn cay đắng nhận ra rằng mình “không thể làm người lương thiện được nữa”, Thị Nở từ chối hắn, mọi người từ chối hắn. Hắn đã gây ra bao bất hạnh cho bao người. Mọi nẻo đường để quay về một cuộc sống bình dị, lương thiện đã bị khép chặt. Hắn thức tỉnh nên ý thức rất rõ bi kịch của cuộc đời mình, thấm thía và đớn đau.
Hắn tìm đến rượu, nào ngờ đâu không làm hắn say mà “càng uống càng tỉnh”. Cái tỉnh của Chí là cái tỉnh của một con người với nỗi đau quá lớn và ý thức rất rõ về cuộc đời mình trong sự bất lực, buông xuôi. Sự từ chối của Thị Nở đã khép lại bao hy vọng của hắn. Hơn bất cứ lúc nào, hắn cảm thấy nỗi bất hạnh to lớn đè nặng tâm hồn mình, để rồi chỉ có thể bất lực mà “ôm mặt khóc rưng rức”.
Từ cao trào thứ tư – cao trào cuối cùng đó trong nghị luận văn học chí phèo, không còn con đường nào khác, Chí Phèo vác dao đến nhà Bá Kiến. Những vết cắt của tội lỗi đã hằn trên khuôn mặt hắn, hắn biết rằng đã quá muộn màng để quay đầu. Chí Phèo vung dao giết Bá Kiến nhưng hắn không để mình trở lại cuộc sống của một quỷ dữ như trước nữa. Và lưỡi dao oan nghiệt cũng đã kết thúc một kiếp người khốn khổ. Cái chết Chí Phèo đầy uất hận nhưng đó là nỗi khao khát của người nông dân bị tha hóa, muốn được lương thiện. Chí Phèo chết bởi hắn khao khát lương thiện nhưng định kiến xã hội đã không chừa cho hắn cơ hội. Chí Phèo chết trong sự nhận thức rất rõ về chính mình và bi kịch bị từ chối ấy.
Miêu tả quá trình tha hóa và thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo là yếu tố làm nên giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Tác phẩm là tiếng nói đanh thép, tố cáo chế độ thực dân phong kiến đã xô đẩy bao con người lương thiện đến tận cùng của sự tha hóa. Tác phẩm còn là niềm tin yêu vào những người lao động cùng khổ
Thể hiện quá trình tha hóa và thức tỉnh, Nam Cao đã thể hiện bản lĩnh của một cây bút hiện thực sắc sảo, tạo nên một hình tượng nghệ thuật đa diện có sức sống nội tạng, để lại nhiều suy ngẫm trong lòng độc giả. Quá trình tha hóa và thức tỉnh trong nghị luận văn học chí phèo được nhà văn Nam Cao thể hiện hết sức thành công. Bằng biện pháp nghệ thuật nghiêm ngặt của một cây bút văn học hiện thực xuất sắc cùng với cảm xúc của một trái tim “sống đời, trải đời” giàu tình thương với con người và cuộc sống, làm cho “người gần người hơn”.
Nguyễn Đình Thi cho rằng “tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi”. Trích “nhà văn nói về tác phẩm”. Nhà xuất bản Văn học năm 1998.
Anh, chị hiểu điều đó như thế nào? Bằng hiểu biết của mình về tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Bài làm.
“Cái quan trọng trọng tài năng văn học là lối nói riêng của Nhà văn, là giọng riêng của nhà văn mà ta không thể tìm thấy trong cổ họng của bất kỳ người nào khác”, (Tuốc ghê nhep). Đúng như vậy! Nghệ thuật chính là lĩnh vực của cái độc đáo tức là phong cách một cái gì đó rất mới, rất riêng biệt mà ta bắt gặp khi đọc xong một tác phẩm. Và cũng chính sự mới mẻ, khác lạ đó đã làm nên sức sống lâu bền của một tác phẩm văn chương thực thụ. Trăn trở về việc tạo dựng lối đi riêng cho mình, Nguyễn Đình Thi cho rằng “tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều những việc mà ai cũng biết cả rồi. Nguyễn Đình Thi đã thực sự sáng suốt khi nghiền ngẫm ra điều này trong suốt quá trình sáng tạo nghệ thuật của ông và truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao chính là một lời giải thích thỏa đáng khơi thông khúc mắc trong lòng nghệ sĩ về nhận định này.
“Cách nhìn nhận” là con mắt suy xét nhìn người, nhìn đời của Nhà văn. Hay nói cách khác đây chính là những phát hiện mới mẻ, độc đáo của nhà văn về con người, về cuộc đời mà cách nhìn đó khác xa hoàn toàn với những nhà văn cùng thời. Tình cảm là những rung động, thương yêu xuất phát từ sâu thẳm trái tim, nhưng ở đây lại là tình cảm mới có nghĩa là khác xa với những tình cảm yêu, ghét, giận, hờn bình thường những sự cảm thông mà các nhà văn khác đã phát hiện, cảm thông, chia sẻ hết rồi. “tình cảm mới” ấy là sự yêu thương, chia sẻ, cảm thông nhưng nỗi đau bất hạnh mà chưa ai dám chạm tới, nay mới được giang rộng vòng tay đón nhận. và một tác phẩm lớn rất cần đến hai yếu tố này, từ đây ta thấy Nguyễn Đình Thi đưa ra một nhận xét vô cùng sâu sắc và đúng đắn. Một tác phẩm thật sự có giá trị phải là một tác phẩm được tạo dựng nên những khám phá mới mẻ về cuộc sống và con người, để tự nó rung lên những thương cảm cho nỗi khổ tột cùng mà khó thấy của họ cho dù đề tài đó đã được khai thác rất nhiều lần. Đó không phải là một tác phẩm hời hợt viết về những điều mà ai cũng biết và thấy cả rồi. Bởi lẽ “Nghệ thuật là sáng tạo, nghệ thuật không bao giờ lặp lại” (Tố Hữu) một tác phẩm chỉ đi theo lối mòn đã dẫn sẵn thì cũng sẽ chết dần chết mòn theo thời gian mà thôi, nghệ thuật không đơn thuần là sự sao chép y nguyên thực tại, mà nó đòi hỏi một cái gì đó cao hơn, phải độc đáo, mới mẻ riêng biệt và khác nó, điều đó đòi hỏi nhà văn phải có phong cách như sê-khốp đã nói “nếu tác giả không có lối nói riêng, thì đó không phải là nhà văn, nếu nhà văn không có giọng nói riêng thì anh khó trở thành nhà văn thực thụ, văn chương không đơn giản như ta tưởng, không phải cũng có thể thưởng được. Bởi lẽ “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có”, tựa chung là Nguyễn Đình Thi đã đề cao tính sáng tạo trong văn chương và đây cũng là một quan điểm nghệ thuật gắn bó suốt đời cầm bút của nhà văn Nam Cao và truyện ngắn “Chí Phèo” là một ví dụ điển hình, minh chứng cho quan điểm mới mẻ đó.
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại, trong suốt cuộc đời lao động nghệ thuật nhà văn luôn trăn trở, sửa soạn cho cái tôi nghệ thuật của mình tiến một bước cao hơn và ngày càng hoàn chỉnh. Nam Cao không chỉ đề cao tính sáng tạo trong nghệ thuật, mà ông còn quan niệm nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. Không những thế nam cao còn coi trọng tấm lòng nhân đạo, bác ái, vị tha và lương tâm nghề nghiệp trong mỗi tác phẩm của mình, với một quan điểm nghệ thuật tiến bộ như thế những tác phẩm của Nam Cao đã lấy đi không ít nước mắt và sự day dứt, suy nghĩ của bạn đọc. Một trong những tác phẩm đánh giấu dấu tên tuổi và gây được tiếng vang trong xã hội trước cách mạng tháng Tám năm 1945 là truyện ngắn “Chí Phèo” tác phẩm được sáng tác năm 1942 trong in trong tập “luống cày”, lần đầu có tên là “cái lò gạch” chuyện không chỉ hấp dẫn bởi bạn đọc bởi cốt truyện độc đáo, với những tình tiết gây cấn, bất ngờ bởi một Chí Phèo vừa đáng sợ vừa đáng thương mà còn bởi tài năng sáng tạo của Nam cao một sự mới mẻ độc đáo cả về nội dung, lẫn hình thức nghệ thuật.
Đề tài người nông dân là một đề tài tốn không ít giấy mực của nhiều nhà văn đương thời, ấy vậy mà Nam Cao vẫn dấn thân vào lối mòn đó nhưng cái đặc biệt là ông đã cày xới lên để tìm ra cái mới. Trước Nam Cao đã có biết bao tác phẩm viết về đề tài người nông dân đó là tiểu thuyết “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố viết về chị Dậu với cái khổ của sưu cao, thuế nặng, đó còn là bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan về một anh Pha bị đẩy đến chân vực thẳm không còn đường lùi, nay đến Nam Cao ta lại bắt gặp một Chí Phèo mà cái khổ này khác hẳn với những cái khổ trước đó. Chị Dậu khổ vì phải bán con, bán chó, phải đi ở thuê nhưng chị vẫn còn được là một con người, ta không cầm được nước mắt khi đọc những trang văn của Ngô Tất Tố. Nhưng càng đau xót hơn khi bắt gặp hình ảnh Chí Phèo ngất ngưởng trong cơn say hiện lên qua cái nhìn của Nam Cao nhà văn đã phát hiện ra cái khổ nhất trong những cái khổ, còn gì khổ hơn nỗi đau này khi mà Chí Phèo sống trong cái xã hội loài người nhưng không được làm người, đó chính là bi kịch lớn nhất, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Cuộc đời Chí Phèo thật bất hạnh từ khi sinh ra cho đến lúc trưởng thành cuộc đời Chí Phèo chỉ là một con số không tròn trĩnh, không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không lấy một tấc đất cắm dùi. Hắn được một anh thả ông lươn nhặt về khi bị bỏ rơi trong một cái váy rách đụp ở một cái lò gạch cũ. Chí Phèo lớn lên trong vòng tay nuôi lớn của người dân làng Vũ Đại, đến năm 20 tuổi thì đi làm canh điện cho nhà Bá Kiến, cái tuổi 20 người ta không hoàn toàn là đá cũng không hoàn toàn là người, đây có lẽ là quãng thời gian đẹp đẽ nhất chuỗi tháng năm đau khổ. Chí Phèo biết ghét, biết khinh những cái gì gọi là dâm dục tầm thường khi mà bà ba gọi hắn vào bóp chân cho bà. Chí Phèo cũng ước mơ như bao con người bình thường khác, có một gia đình nho nhỏ chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải kha khá thì mua dăm ba sào ruộng làm vốn liếng, nhưng đời không như mơ chỉ vì một cơn ghen vô lý Bá Kiến tên gian hùm khép tiếng đã đẩy Chí Phèo vào tù tội, và cuộc đời Chí Phèo cũng ngoặt bước từ đây, hắn không còn là người dân lương thiện nữa.
Bẩy, tám năm sau khi ra tù, bộ mặt hắn giờ đây không còn mang nuốt người nữa, cái đầu thì trọc lóc, cái răng cao trắng hơn, cái mặt đen mà rất cơn cơn. Trông ghét lắm, trông gớm chết. Hắn mặc cái quần váy đen với cái áo vàng tây, ngực đầy những nét chạm trổ với hình một ông tướng cầm trùy trông gớm chết. Đây chính xác là một bộ mặt của một con vật mà như Nam Cao nhận xét “bộ mặt của một con quỷ”. Ta đau đớn thay khi một anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành nay còn đâu, mà vẳng bên tai chỉ còn lại những tiếng chửi tục tĩu. Hắn chửi tất cả làng vũ đại, chửi ai không chửi nhau với hắn, rồi cuối cùng chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nỗi như thế này trời? cũng là một nhu cầu giao tiếp nhưng tiếc thay đáp lại lời hắn chỉ là những tiếng chó sủa. Nếu có ai đáp lại hắn thì chí còn là người. Nhưng không có một ai, qua tiếng chửi ta nhận thấy thái độ thái độ phẫn uất của Chí Phèo khi phần nào nhận thức được thân phận của mình, hắn đã bị đánh tụt từ hàng người xuống hàng vật. Bị loại ra xã hội loài người càng đau thương hơn nữa khi Chí Phèo bị bá Kiến mua chuộc làm tay sai là từ đây Chí Phèo trượt dài trên con đường lưu manh hóa, hắn sống bằng máu và nước mắt của biết bao người dân vô tội. bi kịch bi cự tuyệt quyền làm người dẫn đến con đường lưu manh hóa của Chí Phèo tưởng chừng như kéo mãi đến lúc cuối đời, nhưng Nam Cao đã không như thế.
Tưởng chừng như Chí Phèo sẽ sống mãi trong trạng thái say triền miên, ăn, ngủ, hại người trong lúc say. nhưng Nam Cao đã xây dựng một điểm dừng cho nhân vật của mình thẳm sâu trong tâm hồn của con quỷ dữ của Làng Vũ Đại phần người vẫn tiềm tày chỉ đợi phát hiện và khai sáng. Và Nam Cao đã tinh tế nhận ra điểm tốt đẹp đó trong tâm hồn của một con người tưởng như không thể ngóc đầu dậy được nữa, đây cũng chính là một tư tưởng nhân đạo mới mẻ của nhà văn Nam Cao mở ra cho Chí Phèo một cánh cửa thiên lương bằng cách đưa Thị Nở bước vào cuộc đời Chí Phèo rất mộc mạc, tự nhiên.
Trong một cơn say Chí Phèo đã ăn nằm với Thị Nở, nửa đêm hắn nôn mửa nên đã được Thị Nở dìu vào trong lều. Sáng hôm sau Chí Phèo tỉnh dậy lần đầu tiên hắn tỉnh rượu, lòng mơ hồ buồn như tỉnh lại sau một cơn say dài và cũng là lần đầu tiên Chí Phèo nhận thức được cuộc đời mình trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. hắn nghe được ngoài kia tiếng chim hót ríu rít, tiếng Anh thuyền chài gõ mái, tiếng mấy người đàn bà đi chợ về, những âm thanh ấy hôm nào chả có. Nhưng sao giờ đây Chí Phèo mới nhận thấy vì có khi nào hắn tỉnh để mà cảm nhận âm thanh ấy giống như tiếng sáo của đêm tình mùa xuân trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” nhà văn Tô Hoài. Tiếng sáo deo rắt, đánh thức, lay động con người đã khô héo trong Mị giờ đây những âm thanh sao động này lại gợi cho Chí Phèo nhớ về một cái gì đó rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình đầm ấm để rồi phải hối tiếc khi giờ đây nhận ra mình đã đến cái dốc bên kia tuổi già, đói rét, bệnh tật, ốm đau hắn không sợ. Nhưng sợ nhất là cô độc, nhưng hắn nghĩ Thị Nở sẽ xoa lấp nỗi cô đơn ấy khi Thị Nở mang bát cháo hành tới.
Lần đầu tiên được một người đàn bà cho hắn xúc động mắt ươn ướt khi ăn bát cháo hành. Thị Nở là cầu nối đưa Chí Phèo trở về với thế giới lương thiện, nhưng cánh cửa lương thiện vừa mở ra đã đóng sập lại khi Thị Nở chửi tất cả những lời bà cô vào mặt hắn. Chí Phèo từ ngạc nhiên đến thất vọng nhưng chưa tuyệt vọng, hắn Chí Phèo chạy theo nắm lấy tay Thị Nở. Nhưng đáp lại là một cái dúi mạnh, lúc này Chí Phèo mới đau khổ, tuyệt vọng tột cùng, hắn mơ hồ nhận ra là đã làm cuộc đời mình rơi vào vực thẳm là Bá Kiến. Chí Phèo xách dao kết liễu đời Bá Kiến và cũng tự sát khi miệng vẫn nhan nhản “ai cho tao lương thiện”. Cái chết của bá Kiến như một lý tất yếu mà Nam Cao vạch ra “ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh, tức nước thì vỡ bờ”.
Không chỉ mới mẻ về nội dung, mà còn mới mẻ về hình thức nghệ thuật. Nam Cao đã thành công khi xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, nghệ thuật miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật một cách tỉ mỉ, tinh tế. Cách vào truyện độc đáo không theo kết cấu thời gian, mà đi theo mạch kể chuyện tự nhiên, kết hợp với đó là ngôn ngữ tự nhiên, ngôn ngữ tác giả kết hợp với ngôn ngữ nhân vật. Tất cả đã làm nên một kiệt tác của nền văn học hiện thực Việt Nam.
– Chí Phèo là một trong những truyện ngắn thành công nhất của nhà văn Nam Cao, tác phẩm có sức sống bền vững theo thời gian, neo đậu vững chắc trong lòng người đọc xuyên suốt năm tháng và là ngôi sao sáng bậc nhất trên bầu trời văn học Việt Nam.
– Tác phẩm là bản án đanh thép tố cáo một xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác và mục ruỗng đã dồn người nông dân thấp cổ bé họng vào bước đường cùng, dẫn đến bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật để rồi cuối cùng lại hình thành nên con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
– Đồng thời, Chí Phèo còn khắc họa thành công hình ảnh người nông dân nghèo bị bần cùng hóa bởi đói kém bám riết, bị chèn ép bởi xã hội cũ khiến cho họ phải đánh mất đi bản chất thiện lương vốn có của mình.
Đôi nét về tác giả Nam Cao và kiệt tác Chí Phèo
– Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, ông sinh năm 1917 tại huyện Lý Nhân, Hà Nam và mất vào năm 1951 tại Ninh Bình. Ông là một trong những nhà văn tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ XX.
– Những trang văn của Nam Cao luôn chứa đựng mối quan hoài thường trực về số phận bất hạnh của những người nông dân và người tri thức nghèo bị đói kém bám riết, bị xã hội đương thời chèn ép để rồi cuối cùng lại lạc đi trên bước đường làm người.
– Ngòi bút của ông vừa sắc sảo vừa chân thực, trào phúng nhưng không thiếu phần tinh tế. Nam Cao mạnh dạn phân tích và mổ xẻ tất cả, không né tránh như Thạch Lam, không phiến diện như Vũ Trọng Phụng nhưng vẫn giữ được sự tỉnh táo trong văn chương.
– Nguyễn Minh Châu từng nhận định về văn chương của ông rằng:
”Trong các trang truyện của Nam Cao, trang nào cũng có những nhân vật chính hoặc phụ đang đối diện với cái chỗ kiệt cùng với đời sống con người để rồi từ đó bắt buộc người ta phải bộc lộ mình ra, trước hết là tâm lí, nhân cách rồi tiếp đến sau cùng là cái nỗi đau khôn nguôi của con người.’’
– Những tác phẩm của Nam Cao luôn lột tả cho người đọc thấy được cái bản chất xấu xa của xã hội và nhân tính hủ lậu của con người đương thời.
– Bén duyên với nghiệp văn từ năm mười tám tuổi và trong suốt mười lăm năm hành nghề, ông đã để lại cho đời sau một khối lượng tác phẩm khổng lồ từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, tên tuổi Nam Cao gắn liền với những tác phẩm để đời như Sống mòn, Lão Hạc hay Đời thừa.
– Trong đó không thể không nhắc đến Chí Phèo, một truyện ngắn có sức ảnh hưởng lớn đến văn đàn Việt Nam, đây là tác phẩm đã neo đậu vững chắc trong lòng độc giả qua bao thế hệ.
– Chí Phèo ban đầu có tên là Cái lò gạch cũ, xuất bản vào năm 1941 với tên Đôi lứa xứng đôi do Nhà xuất bản Đời mới – Hà Nội tự ý đổi tên. Tác phẩm về sau được Nam Cao đặt tên là Chí Phèo khi in lại trong tập Luống Cày do Hội văn hóa cứu quốc xuất bản vào năm 1946.
– Chí Phèo là một tác phẩm thể hiện rõ nét lối đi riêng biệt của Nam Cao trong sự nghiệp văn học, tập trung vào số phận của những người nghèo khổ ở quê hương.
’’Nghệ thuật không là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than.”
– Tác phẩm không phải là một truyện ngắn dịu dàng lãng mạn hay cảm động lòng người, Chí Phèo là một tấm gương hiện thực đặt giữa xã hội đương thời, là bản án đanh thép tố cáo xã hội cũ và là một cái nhìn bế tắc cho những kiếp người bất hạnh.
– Chí Phèo và những tiếng kêu đau khổ thoát ra từ kiếp người lầm than
– Tác phẩm mở đầu bằng hàng loạt tiếng chửi của Chí Phèo ngay từ những dòng văn đầu tiên của truyện ngắn, Nam Cao đã để người đọc thấy được chất lưu manh trong con người Chí, ông đẩy hắn ra giữa vở kịch của cuộc đời và để hắn đối thoại với đời bằng câu chửi.
– Những tiếng chửi đó dường như mở ra một cuộc đời ảm đạm đầy chua xót của Chí Phèo, xen lẫn trong câu chửi, người ta thấy được cả sự cô độc của hắn. Không một ai đáp lại lời Chí ngoài tiếng sủa của ba con chó dữ, hắn cứ chửi trời, chửi đất và chửi cả cái đứa đã đẻ ra thằng Chí.
– Còn ai đã đẻ ra Chí Phèo thì hắn không biết, cả làng Vũ đại không ai biết, đó có lẽ là bi kịch đầu tiên của truyện, bi kịch bám riết đời Chí từ khi hắn sinh ra với thân phận một đứa trẻ mồ côi, được người ta nhặt về ở lò gạch cũ và sống lang hết nhà này đến nhà khác trong những năm tháng ấu thơ.
– Năm hai mươi tuổi, Chí Phèo đi làm canh điền cho nhà Bá Kiến, chánh tổng hội đồng kỳ hào của làng Vũ Đại. Cụ Bá là người có quyền thế lại tâm cơ, ai cũng nể sợ. Năm đó Chí Phèo ở cho nhà cụ được vợ ba của Bá Kiến thường xuyên gọi lên hầu hạ xoa bóp tay chân.
– Chính điều này đã làm nổi lên máu ghen trong lòng Bá Kiến, cụ đã giải Chí Phèo lên quan, để hắn chịu một tội nào đó được sắp đặt sẵn và đi tù tám năm, chính cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay cho bọn cường hào chèn ép những người nông dân lương thiện.
– Sau những năm tháng tù đày, Chí trở về với một bộ dạng khác, kinh tởm và gớm ghiếc. Hắn đã đánh mất đi nhân hình cùng nhân tính của mình cho thù hận, để rồi người trở về làng Vũ Đại hôm nay không còn là Chí Phèo nữa mà là một con quỷ dữ khiến ai cũng phải khiếp sợ.
“Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm […]. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”
– Trích đoạn miêu tả Chí Phèo.
Nam Cao khắc họa rõ nét gương mặt của Chí qua từng con chữ như phản ánh một sự thật tàn nhẫn đến đau lòng, chính những bất công cùng sự chèn ép của tầng lớp thống trị trong xã hội cũ đã đẩy một con người thiện lương vào bước đường tha hoá, khiến họ đánh mất đi nhân tính của chính mình.
Chí Phèo từ đây đã bị xã hội cự tuyệt đi quyền làm người, bị loại ra khỏi thế giới vốn dành cho loài người để rồi hắn lại tự biến mình trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại:
“Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện.” – Trích đoạn truyện ngắn Chí Phèo.
Ai gặp Chí cũng khiếp sợ và tìm cách lảng tránh, giữa thời buổi loạn lạc đói kém chẳng ai muốn có thêm cho mình một mối phiền phức:
”Ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua.”
Cuộc đời của Chí Phèo trượt dài trong bi kịch, nhuốm đầy bất hạnh và khổ đau. Đời hắn bây giờ không có gì ngoài những tiếng chửi, rượu và vài miếng thịt sống qua ngày, chẳng ai còn được thấy hình ảnh anh Chí hiền như đất khi xưa nữa, thay vào đó là con quỷ gớm ghiếc mà ai cũng xa lánh.
Vậy mà Bá Kiến đã lợi dụng được con quỷ trong con người Chí Phèo để khiến nó làm việc cho cụ, bằng những lời dụ dỗ ngon ngọt cùng đôi đồng bạc lẻ, Bá Kiến đã thành công trong việc thu Chí về làm tay chân cho mình để hắn đi đòi nợ, đâm thuê chém mướn vào những lúc cần.
Người ta gọi Chí Phèo là quỷ nhưng chính tầng lớp thống trị cũng như bọn cường hào đương thời mới thực sự là quỷ dữ. Chúng đã ăn mòn đi những mơ ước bình dị, những điều tốt đẹp trong con người của một người nông dân.
Chí Phèo có chăng cũng chỉ là nạn nhân của thời cuộc, của những tội ác mục ruỗng thối nát chất chồng hết lớp này đến lớp khác.
Ánh sáng lương tâm một lần nữa phát sáng nhưng cũng bị hiện thực tàn khốc dập tắt
Trong tận cùng của bế tắc, khi Chí Phèo đã hoàn toàn đánh mất phần người của mình và chỉ còn lại phần con, Nam Cao vẫn nhìn thấy ở đâu đó trong thâm tâm hắn vẫn còn khát khao được yêu thương, mơ ước một lần nữa được hòa nhập lại với thế giới, được sống như một con người thực sự.
Vậy nên ông đã cho Thị Nở, một người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn xuất hiện để khơi dậy phần người trong sâu thẳm của Chí Phèo.
“Cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công; nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má hóp vào mới thật là tai hại, nếu má phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn… Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi; có lẽ vì cố qua quá cho nên chúng nứt nở như rạn rạ. Đã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bôi cho dày thêm một lần, cũng may chất trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách.”
– Trích đoạn miêu tả Thị Nở.
Chính đêm ăn nằm như vợ chồng ấy cùng những ngày tháng ở bên Thị, bên bát cháo hành nghi ngút khói đã khiến Chí như thức tỉnh khỏi giấc mộng tăm tối của đời mình.
Sau những ngày tháng bị hắt hủi và miệt thị bởi số đông loài người ngoài kia, Thị Nở là người đầu tiên khiến Chí Phèo cảm nhận được sự yêu thương, giúp hắn nhìn ra được cuộc đời vẫn còn ý nghĩa.
Sự xuất hiện của Thị Nở là một bước ngoặt độc đáo đầy tính nhân văn của Chí Phèo, Nam Cao xây dựng Thị là một con người xấu xí không phải để miệt thị mà nhằm làm nổi bật lên nội tâm đầy tình thương của Nở.
Chính Thị đã nhìn ra một con người khác của Chí Phèo mà không ai trong làng Vũ Đại có thể thấy được, như cách lời văn của Nam cao đã miêu tả.
”Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người.”
Những tưởng cuộc sống của Chí đã khởi sắc sau ngày gặp Thị và từ đây hắn có thể quay trở về trên con đường làm người nhưng tất cả đã vỡ nát ngay sau khi bà cô của Thị Nở xuất hiện.
Nhân vật bà cô là điển hình cho hình tượng người nông dân sống ở làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng tháng Tám, đó là một xã hội tha hóa về mọi mặt, từ quyền lực đến cả nhân cách của con người.
Sống giữa thời kỳ loạn lạc ấy khiến người ta quẩn quanh bế tắc trong sự nghèo đói, làm họ trở nên lạnh lùng, tàn nhẫn hơn với chính mình và cả những người xung quanh.
Cái định kiến hẹp hòi về xuất thân, nguồn gốc và quá khứ có sức ảnh hưởng ghê gớm đến suy nghĩ của con người, chính những định kiến đó đã dựng nên một bức tường cách trở Chí Phèo với thế giới loài người.
Kể cả khi Chí được Thị Nở tái sinh bằng tình yêu khiến hắn thèm làm người, khát khao được hòa nhập với mọi người đến thế nào thì cũng không thể vượt qua được bức tường ấy.
Bằng một câu nói, bà cô trong tác phẩm đã dập tắt đi tất cả hy vọng của Chí Phèo, khiến hắn rơi vào vực sâu tuyệt vọng, mất đi hoàn toàn tư cách được làm người.
“Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ.” – Câu nói của bà cô trong truyện ngắn.
Để rồi cuối cùng, Chí Phèo đã đi gặp Bá Kiến để đòi lại lương thiện, thứ mà mỗi con người sinh ra đều mang sẵn trong người. Bi thảm thay những kiếp người đã đánh mất đi nhân tính của mình vào nghèo đói và tay bọn cường hào.
”Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa.” – Câu chất vấn đầy ám ảnh của Chí Phèo.
Chí Phèo giết Bá Kiến và cũng kết liễu đời mình, đó có lẽ là sự giải thoát cho Chí khỏi cuộc đời tăm tối, khổ đau cùng bất hạnh. Cái chết của hai nhân vật mang nhiều tầng ý nghĩa mà Nam Cao đã gửi gắm.
Nó vừa tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát đã bức người nông dân đến cùng đường tuyệt lộ, vừa nêu lên ý thức phản kháng của tầng lớp thấp, dù cho sự phản kháng này là đơn độc và liều lĩnh.
Bá Kiến chết trong những tội lỗi mà hắn gây ra, còn Chí Phèo chết trong thân xác một người cố nông đáng thương lại đáng trách, đến lúc gục xuống bên vũng máu của mình vẫn chưa đòi lại được sự lương thiện.
Nhưng chưa dừng lại ở đấy, bi kịch lại càng tiếp nối bi kịch khi Thị Nở bỗng nhớ đến đêm ăn nằm với Chí Phèo và nhìn xuống bụng của mình, rồi nghĩ:
– Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết rồi, thì làm ăn thế nào?
Câu hỏi của Thị không có lời hồi đáp, nó như một chuỗi bi kịch không cách nào kết thúc. Để rồi mai đây vẫn nơi lò gạch cũ ấy, một Chí Phèo con lại ra đời và cũng là lúc một con quỷ nữa được hình thành.
Chí Phèo là vàng được đãi trên dòng sông hiện thực
Người nông dân nghèo luôn là chủ đề mà các nhà văn đương thời hướng ngòi bút đến, tuy nhiên Nam Cao vẫn để lại những dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả qua lối văn riêng biệt của mình, với ông:
’’Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có…’’
Vì vậy có thể nói Chí Phèo chính là vàng được đãi từ dòng sông hiện thực đã qua tay bao nhà văn đi trước, tuy nhiên tác phẩm không vì thế mà đi theo khuôn mòn của chủ đề người nông dẫn mà đã đột phá theo cách riêng để trở thành một kiệt tác.
Chính điều đó đã giúp cho tác phẩm trở thành một áng văn chương bất hủ neo đậu vững chắc trong lòng người đọc muôn đời.
Hình ảnh Chí Phèo đã vượt ra khỏi những trang văn, chạm vào đời sống con người và tái hiện lại cho chúng ta thấy một hiện thực tàn khốc do xã hội đương thời gây nên và đã trở thành một áng văn điển hình.
Tác phẩm chính là giọng nói riêng của Nam Cao, một chất giọng tàn nhẫn chua chát nhưng ẩn sâu bên trong là sự ấm nóng của tình thương mà không tìm được ở bất kỳ nhà văn nào khác.
Không dừng lại ở đó, Chí Phèo còn kết hợp với hai tác phẩm lớn của Nam Cao là Lão Hạc và Sống mòn để chuyển thể thành phim lấy tên là Làng Vũ Đại ngày ấy, bộ phim đã để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng khán giả cả nước trong suốt một thời gian dài.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện niềm tin tuyệt đối vào bản tính lương thiện của con người, đồng thời cũng khẳng định rõ ràng một điều rằng nghệ thuật không phải ánh trăng lừa dối, nghệ thuật là tiếng kêu đau khổ thoát ra từ những kiếp người lầm than.
Chí Phèo chính là con diều lớn nhờ ngọn gió hiện thực mà bay cao, bay xa trên bầu trời văn học, trở thành một điểm sáng nổi bật giữa văn đàn Việt Nam.
Phê bình : Nỗi đau Chí Phèo
Nghiên cứu phần văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945. Đặc biệt dòng văn học hiện thực phê phán chúng ta gặp Nam Cao- một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước năm 1945. Sáng tác của ông tập trung vào hai đề tài lớn: đề tài nông dân và đề tài tiểu tư sản nghèo. “ Chí Phèo” ((1941) là tác phẩm nổi bật trong sáng tác của Nam Cao về đề tài nông dân với bút pháp hiện thực xuất sắc và cảm hứng nhân đạo cao cả.
Tác phẩm “Chí Phèo” là một kiệt tác của văn xuôi hiện đại Việt Nam. Ở đó Nam Cao đã thể hiện được nỗi đau Chí Phèo mang tính điển hình, tính phổ biến. Ở đó vang lên tiếng nức nở của con người không được quyền làm người. Đề tài quen thuộc nhưng vấn đề Nam Cao đặt ra rất mới, rất trẻ. Nỗi đau đó nó vẫn còn có ý nghĩa đối với hôm qua, hôm nay và cho cả ngày mai, vẫn còn nỗi đau tùy cấp độ khác nhau. Và đây là một vấn đề then chốt của văn học lớn mọi thời đại. Chính vì vậy tôi chọn đề tài: NỖI ĐAU CHÍ PHÈO”
– Nam cao sinh năm 1917 và mất năm 1951.
– Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri- là nhà văn có vị trí hàng đầu trong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Là một trong những đại diện xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực phê phán trước 1945. Nam Cao cũng là một trong những cây bút tiêu biểu nhất của chặng đường nền văn học mới sau 1945.
Sáng tác của Nam Cao tập trung vào hai đề tài chính: Cuộc sống người trí thức nghèo và cuộc sống người nông dân. Ở đề tài trí thức tư sản nghèo, đáng chú ý nhất là các truyện ngắn: “ Những truyện không muốn viết”, “Trăng sáng”, “ Đời thừa”, “ Cười” Nước mắt”, “Mua nhà”…và tiểu thuyết “ Sống mòn”. Trong khi miêu tả hết sức chân thực tình cảnh nghèo khổ, bế tắc của những nhà văn nghèo, “ Giáo khổ trường tư”, học sinh thất nghiệp…Nam cao đã làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần của họ. Những con người có ý thức sâu sắc về sự sống, muốn sống có hoài bão, phát triển nhân cách nhưng cứ bị gánh nặng cơm áo hàng ngày làm cho “ chết mòn “ về tâm hồn.
– Trong đề tài nông dân đáng chú ý nhất là các truyện: “ Chí Phèo”, “Trẻ con không được ăn thịt chó”, “ Mua danh”, “ Tư cách mỏ”, “ Điếu văn”, “Một bữa no”, “Lão Hạc”, “ Một đám cưới”, “ Dì Hảo”, “ Nửa đêm”, …Ở một số truyện viết về người nông dân lưu manh hóa, nhà văn kết án sâu sắc cái xã hội tàn bạo đã hủy diệt cả nhân tính của những con người vốn bản tính lương thiện đó.
– Sau năm 1945 Nam Cao sáng tác để phục vụ công cuộc kháng chiến. truyện ngắn: “ Đôi mắt”( 1948), “ Nhật ký ở rừng” (1949) và tập bút ký “ Chuyện biên giới”( 1950). Đó là những sáng tác đặc sắc nhất của nền văn học sau 1945 còn rất non trẻ khi đó. Nam Cao còn là cây bút có cái gốc nhân đạo rất sâu và là một tài năng độc đáo bậc thầy. Nam Cao xứng đáng được coi là một nhà văn lớn. “Chí Phèo” và nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết của ông thuộc vào những sáng tác đặc sắc nhất của văn xuôi Viêt Nam.
– Nam Cao là nhà văn hiện thực mà những trang viết phản ánh sâu sắc bộ mặt của xã hội thời kỳ 1939-1945. Xã hội Việt Nam sau những năm dài nô lệ như dồn tụ lại những thảm họa đen tối nhất vào những năm tháng này. Chiến tranh thế giới thứ hai lan tràn đến xứ thuộc địa nghèo khổ, đã bị vơ vét đến kiệt sức từ hàng trăm năm nay. Nông thôn xơ xác như bị tàn phá sau một cơn bão lớn. Người dân thành thị điêu đứng trước nạn thất nghiệp, chợ đen. Đời sống tinh thần của xã hội như một vũng bùn tù đọng, đầy rẫy những tư tưởng nô dịch. Cơ thể xã hội đang lên cơn sốt để chờ ngày lột xác.
– Nhà văn Nam Cao xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, lại ở một vùng quê bị bọn cường hào ác bá chia bè kéo cánh, đục khoét bóc lột người dân. Nam Cao am hiểu thấm thía số phận của những người nông dân nghèo khổ. Lúc Nam Cao bước vào con đường văn học cũng là lúc xã hội Việt Nam chao đảo, ngột ngạt và bế tắc. Các giai cấp bị phân hóa dữ dội. Đời sống của người nông dân bị đe dọa hơn bao giờ hết. Ông cũng thấm thía sâu sắc cuộc sống của tầng lớp tiểu tư sản. Bản thân nhà văn đã từng là “ giáo khổ trường tư”. Nhà văn nghèo bất đắc chí “phải bán dần sự sống cho mình khỏi chết đói”. Con người Nam Cao có những nét ẩn: về bên ngoài nhạt nhẽo khó gần nhưng bên trong rất mãnh liệt. Tính cách này giúp ta hiểu được tính cánh nhân vật trong văn chương. Anh trí thức thường băn khoăn, nhăn nhó, vất vả. Nam Cao sống rất giàu tình thương. Tình thương của Nam Cao là tình thương của người trong cuộc, của kẻ cùng kiếp. Kiếp của Nam cao là kiếp của Dần, của Hộ, của Lão Hạc, của Điền…tác phẩm của Nam Cao giàu tính chân thực trong tự thú và triết lý. Truyện Nam cao mang sắc màu trầm tư suy tưởng trong cảm hứng sáng tạo cũng như trong nghệ thuật phô diễn. Phong cách truyện như thế được cắt nghĩa với nhiều lý do chính ở trong sâu xa. Tính cách của Nam Cao có nhiều nét đối lập. Nam Cao có tài nhưng vất vả.
– Những trang viết của ông bộc lộ rõ một cách nhìn đời sâu sắc, thấm thía và chua xót. Từ những nét bao quát chung đến những cảnh đời cụ thể .Nam Cao đã phác họa nhiều bức tranh đậm nét chất chứa biết bao yêu thương căm giận, xót xa. Sự kết hợp chặt chẽ giữa tinh thần phê phán mặt trái xã hội với lòng yêu thương những người nghèo khổ, giữa xu hướng miêu tả cuộc sống khách quan với tính chất tự biểu hiện giữa dòng kể và mạch vận động tâm lý, là những đặc điểm khá phổ biến trong tác phẩm Nam Cao. Điểm xuất phát của Nam Cao là cuộc đời cụ thể. Từ một làng quê nơi chôn rau cắt rốn Nam Cao đã ghi chép chắt chiu tư liệu, đào sâu vào những mảng sống để khái quát lên bức tranh về nông thôn Việt nam thời kỳ thế giới đại chiến. Làng quê Việt Nam trong tác phẩm của Nam Cao không còn vẻ yên tĩnh lâu đời mà đang bị xáo trộn dữ dội. Bọn quan lại tay sai ra sức áp bức bóc lột, trộm cướp hoành hành khắp nơi. Các tệ nan xã hội đầy rẫy khắp nơi. Nạn đói đe dọa thường xuyên. Nam Cao đã khắc họa được nhiều bức tranh chân thực. Tác giả không thi vị cuộc sống ở nông thôn mà lấy sự thực làm tiêu chuẩn và chân lý sáng tác nghệ thuật. Nam Cao khá nhạy cảm ghi nhận những diễn biến ngày một xấu đi của cuộc sống. Tuy nhiên trên những trang viết của tác giả thì cảm hứng xót xa chua chát về cuộc đời không khỏi có lúc gây ấn tượng nặng nề bi đát.
– Từ cuộc đời riêng của một thầy giáo nghèo, một nhà văn vất vả vật lộn với nghề nghiệp, Nam Cao đã suy nghĩ, chiêm nghiệm để nêu lên những vấn đề chung của tầng lớp tiểu tư sản trí thức nghèo. Trong văn xuôi cũng rất hiếm có những trường hợp mà những chất liệu quen thuộc lại có khả năng trở thành đề tài và vấn đề chung trong nhiều sáng tác rộng rãi. Và nhà văn say mê khai thác trong suốt cuộc đời mình. Nam Cao đã luôn có ý thức khách quan hóa những cái riêng để qua từng tâm lý, từng sự việc tìm được đường dây liên lạc với cuộc đời chung. Những trang viết về nông thôn bộc lộ chủ yếu là những hoàn cảnh và tính cách chân thực điển hình. Sự thật phủ phàng đó cũng là đóng góp mới của Nam Cao qua chủ đề nông thôn. Bên cạnh những chủ đề quen thuộc về số phận cực khổ của người nông dân đưới chế độ thực dân phong kiến. Nam Cao đặt một vấn đề mới: tình trạng cùng cực làm biến chất, biến dạng nhiều người nông dân. Người cùng dân trong giai đoạn này đã bị đẩy quá “bước đường cùng” của cuộc sống con người. Bên cạnh anh Pha, chị Dậu…, các điển hình quen thuộc về người nông dân. Nam Cao đóng góp thêm một chân dung mới: Chí Phèo. Khi “ Tắt đèn” của Ngô tất Tố và “ Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan ra đời, ít ai nghĩ rằng thân phận người nông dân lại có một nỗi khổ nào hơn nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha nhưng khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao thì người ta liền nhận ra rằng: đây mới là hiện thân đầy đủ của những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người nông dân cùng ở một nước thuộc địa bị chà đạp, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán chó , bán con và bán sữa…nhưng chị còn được gọi là người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo, cả linh hồn mình đi, trở thành con quỹ của làng Vũ Đại “ Chí Phèo là cột mốc cuối cùng đi tới các số phận” ( Hà Minh Đức).
– Với hình tượng Chí Phèo đã đưa giá trị của tác phẩm cùng tên trở thành một kiệt tác trong nền văn xuôi đương thời. Tác phẩm “ Chí Phèo” là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn lớn Nam Cao. Chí Phèo không phải là một hiện tượng đơn độc cá biệt mà mang ý nghĩa tiêu biểu cho một lớp người, một tình trạng xã hội.Trên dốc trượt của cuộc đời xuống đáy xã hội và bị rơi vào vũng bùn tội lỗi mà Chí Phèo là người trôi xa nhất.Nỗi khổ của Chí Phèo đau nhất là nỗi khỗ bị tước quyền làm người.
– Chí Phèo sinh ra không cha, không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà cửa, không tấc đất cắm dùi. Cả đời Chí không hề biết đến một bàn tay chăm sóc của đàn bà nếu không gặp Thị Nở. Thị ra đời trong một cái “ lò gạch cũ” bỏ hoang. Trong chiếc váy đụp. Tuổi thơ của Thị “bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ” đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà giàu…Đó là cuộc đời khốn khổ của một kẻ “ cùng hơn cả dân cùng” ở nông thôn thời bấy giờ.Nhưng nỗi khổ ghê gớm của Chí Phèo được ngòi bút của Nam Cao tập trung thể hiện không phải ở những vấn đề đó mà là vấn đề bị cự tuyệt quyền làm người. Người nông dân “cùng hơn cả dân cùng ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình mà anh đã bị xã hội cướp đi bộ mặt cùng linh hồn để trở thành một con thú dữ và bị xã hội loài người chối bỏ.
– Là con người lẽ ra được lao động,được mơ ước , được quyền yêu thương, được sống giữa cộng đồng của anh trong làng Vũ Đại. Nỗi đau này mang tính điển hình, tính phổ biến. Rền vang tiếng nức nở của con người không được quyền làm người. Nam Cao đã thể hiện nỗi đau đó bằng nghệ thuật . Mở đầu tác phẩm là miêu tả tiếng chửi của Chí Phèo: “ Hắn vừa đi vừa chửi…bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”,”hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi có trường độ và cường độ, tiếng chửi rất triệt để, ngoa ngoắt và độc địa làm sao! Từ tiếng chửi ta bắt gặp nỗi căm uất, sự vật vã tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại mà không thể được . Chí Phèo thật cô đơn. Nỗi cô đơn này càng triệt để bao nhiêu, càng đau bấy nhiêu.Trong cơn say đến mất cả lý trí, con người khốn khổ ấy vẫn cảm nhận được “ nông nỗi” của thân phận mình. Đó là nỗi cô đơn khủng khiếp của một con người bị xã hội dứt khoát cự tuyệt, không được coi là người.Hắn thèm được người ta chửi. Vì chửi dù sao cũng là một hình thức giao tiếp đối thoại. Chửi lại hắn tức là còn thừa nhận hắn là người.Nhưng hắn cứ chửi, xung quanh vẫn cứ “im lặng đáng sợ”. Và Chí Phèo vẫn chỉ có một mình trong sa mạc cô đơn. Dẫu rằng anh đang đứng ở trên đời, giữa làng Vũ Đại. Nam Cao thật tuyệt vời khái quát tâm trạng cô đơn tột đỉnh của Chí Phèo qua tiếng chửi. Tất cả đã trở nên thù hằn, đối nghịch với Chí Phèo.
– Thực ra đâu phải Chí Phèo vốn là kẻ lưu manh nát rượu. Khi còn trai trẻ anh canh điền nhà Bá Kiến ấy đã “ ao ước có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Tức là mơ ước cuộc sống hạnh phúc bình dị bằng lao động. Khi ấy tuy còn rất trẻ nhưng anh vẫn phân biệt được tình yêu chân chính và thói dâm dục xấu xa. Bị gọi lên bóp chân cho cái bà ba “ quỷ quái”, anh chỉ “thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất lương thiện, trong trắng ấy của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào cáo già vì ghen tuông vu vơ đã cho giải Chí lên huyện rồi sau đó phải ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay cho lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện vô tội để sau đó thả ra một Chí Phèo hung ác lưu manh. Tức là đã biến một người lao động lương thiện thành một con thú dữ. Trở về làng Vũ Đại có bọn cường hào độc ác ăn thịt người không tanh đó,Chí Phèo không thể hiền lành nhẫn nhục như trước nữa. Trong cái xã hội tàn bạo ấy càng hiền lành, nhịn nhục thì được thì càng bị đạp dúi xuống không ngóc đầu lên được. hắn muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ. Muốn thế phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn luôn say. Và “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chính xã hội ấy đã vằm nát bộ mặt người,cướp đi linh hồn người của anh. Trở về làng lần này, Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người, là “ con quỷ của làng Vũ Đại”. Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nữa. Ai cũng tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua.
– Chí Phèo tiêu biểu cho tầng lớp nông dân bị tha hóa về mặt nhân cách. Nhưng sự tha hóa đó không phải là bẩm sinh mà là nó được phát sinh trong quá trình vận động và phát triển của nhân vật giữa xã hội thối nát, vô nhân đạo. Từ một người hiền lành chất phác trở thành một kẻ liều lĩnh và ôm ấp trong lòng một mối hận thù không gì xóa được. Nếu lấy thời điểm Chí ra tù làm mốc thì có thể nói. Chí đã ba lần đi gặp kẻ thù- Bá Kiến:
– Lần thứ nhất là lúc Chí vừa ở tù về. “ Hắn về hôm trước,hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu và trong cơn say khướt, đã xách vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến gọi tên tục ra mà chửi. Đó là lối hành động của một tên lưu manh.Nhưng hoàn toàn không ngẫu nhiên vô thức của một kẻ say rượu, mà đã có trong tiềm thức của Chí Phèo. Cộng thêm những năm tháng tù đày. Mối thù ấy càng được hun đúc nuôi dưỡng sâu sắc và cô đậm hơn. Bao năm ngồi tù Chí đã có dịp nghiền ngẫm cân nhắc trước khi đi đến hành động đúng đắn. cho nên hơn bao giờ hết, vừa rời khỏi nhà tù là Chí đã sôi sục một ý thức trả thù.Sự căm thù kẻ đã gây ra tội lỗi và đẩy mình vào con đường đau khổ đã dẫn đường Chí đến nhà cụ Bá dù là đang trong cơn say khướt. Hành vi của Chí hoàn toàn liều lĩnh và mang tính bột phát. Hơn nữa dù gì trong sâu xa bản chất của Chí cũng chỉ là một nông dân thật thà đến mức gần như ngây thơ cho nên sự thất bại của Chí trong lần đối đầu đầu tiên là một chuyện rất hiển nhiên. Làm sao qua được kẻ khôn róc đời như Bá Kiến. Bá Kiến là kẻ tinh ma xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế nên đối phó với Chí chẳng lấy gì là khó khăn. Chỉ thoáng nhìn qua là Bá Kiến đã hiểu được ý đồ của đối phương. Nên Chí mới thất bại ê chề, cay đắng trước những lời vuốt ve ngon ngọt, cộng thêm vài đồng bạc đã làm lóa mắt Chí. Từ một vị trí là người đi hỏi tội kẻ thù, chỉ thoắt cái, ván cờ đã lật ngược: kẻ có tội lại ung dung như một kẻ ra ơn còn người hỏi tội lại thành tay sai phục dịch cho kẻ thù mà không hay biết.
– Lần thứ hai: cũng trong cái dáng điệu say mềm Chí ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến gặp hắn để xin được đi ở tù. Thật là một chuyện ngược đời. Thuở nay chưa thấy ai làm một chuyện phi lý đến mức như vậy, chắc chỉ có Chí Phèo.. Tuy là nghịch lý đấy nhưng lại phản ánh đúng thực tại của Chí. Không có cơm ăn, áo mặc, một mảnh đất căm dùi cũng không. Cảnh ngộ bi đát của Chí cũng phần nào phản ánh đúng hiện trạng xã hội lúc bấy giờ . Đó là những người lầm đường lạc lối trót sa chân vào vũng bùn của tội lỗi thì không sao rút chân ra được. Chí bị tù đến khi được trả về cuộc sống đời thường thì lại không tìm được kế sinh nhai.Hay nói đúng hơn là không được tiếp nhận và vì thế là tiếp tục bị đẩy vào bước đường cùng. Hãy lắng nghe Chí nói với Bá Kiến: ‘ bẩm quả đi ở tù sướng quá đi! Ở tù còn có cơm ăn, bây giờ về làng, về nước một thước đất cắm dùi không có…” Sự thật như thế ư? Nhà tù là chốn dung thân ư? Trên câu chữ thì ta không thể nghĩ khác được. Nhưng nếu nghĩ sâu xa một chút, ta mới thấy ngỡ ngàng và đau xót. Nhà tù nuôi con người ư? Không, bảo nó nuôi dưỡng những con người bị tha hóa, những con quỹ như Chí Phèo thì đúng hơn. Nếu như ý nghĩa của nhà tù là để cảnh tỉnh, cải tạo con người, trả con người về với cuộc sống hoàn lương thì nhà tù ở đây lại thực hiện ngược lại.Nó biến những con người lương thiện trở thành loại người lưu manh, khốn nạn. Cũng như lần trước Chí lại thất bại trước cái khôn róc đời của cụ Bá. Chí bị gạt mà không hề nhận ra. Âm mưu của Bá Kiến mới thâm độc làm sao. “dùng độc trị độc”, dùng Chí Phèo để trị đội Tảo. cả Chí và đội Tảo đều là kẻ thù của hắn, nên vả chăng có xảy ra xô xát, ai được ai mất cụ Bá nhà ta đều có lợi, vừa thỏa mãn được ý định trả thù, vừa không phải mang tiếng là kẻ thù nhỏ nhen đê tiện.
– Lần thứ ba: cũng là lần chót Chí đến gặp Bá Kiến. Cũng với dáng dấp của một thằng say rượu nhưng lần này Chí mang trong mình một tâm trạng, một ý định khác hẳn với những lần trước.Bởi vì Chí Phèo sau khi bị Thị Nở cự tuyệt tình cảm của mình, Chí hoàn toàn rơi vào tuyệt vọng. Chí chỉ ước ao trở lại làm anh dân cày bình thường với mối tình Thị Nở- Một người đàn bà không thể có người khác xấu hơn. Vậy mà không được. Cuộc đời hoàn lương của Chí bị xã hội quay lưng. Cánh cổng cuộc đời khép lại trước mặt Chí, đã chặn đứng đường trở về của Chí, đã cự tuyệt quyền làm người của một con người. Cuộc đời tàn nhẫn chối bỏ Chí. Vĩnh viễn Chí không tìm thấy hạnh phúc ở cuộc đời này. Bản chất người vừa phục thiện trỗi dậy lại bị đè bẹp không thương tiếc. có thể nói đây là những giờ phút tỉnh táo nhất trong quảng đời say khướt của Chí. Những phút mà ý thức phản kháng trỗi dậy. Đi gần hết cuộc đời, cho đến lúc này Chí mới phát hiện, mới nhận ra chân lý cuộc sống. Dù là muộn màng nhưng với Chí sự khám phá ấy quý giá biết bao. Và Chí quyết giữ chặt lấy nó không để nó tuột khỏi tầm tay dù là phải trả mọt giá rất đắt. Chí như vừa thức dậy sau một giấc ngủ dài. Một sự chuyển biến rất lớn đang diễn ra trong tâm hồn của Chí. Ấy là sự trỗi dậy của tính người, tính lương thiện. Chí đã nhận ra chân tướng kẻ thù. Kẻ ấy là Bá Kiến chứ không ai khác, cho nên lẽ ra phải đến nhà Thị Nở thì tiềm thức sâu xa đã dẫn Chí đến nhà Bá Kiến “ Một tính cách thật độc đáo, vừa là một gã mất trí,một công cụ trong tay bọn thống trị, vừa là người nô lệ thức tỉnh.Một đầu óc sáng suốt nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có ý nghĩa khát quát sâu sắc, vượt ra ngoài tầm khôn ngoan lọc lỏi của Bá Kiến: “ Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?”. “Một nhân vật như thế chỉ có thể là của Nam Cao”( Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh-Chân dung văn học).
– Trong lần đối đầu sau cuối này, Chí hoàn toàn lột xác. Sự thay đổi đột ngột và nhanh chóng đến mức Bá Kiến không ngờ được. Chính vì không nắm bắt được đối phương, lại “ chủ quan khinh địch” nên Bá Kiến đã thất bại thảm hại. Hắn đã phải trả một giá rất đắt cho hành vi tội lỗi của chính hắn. Với dáng dấp hiên ngang ngạo nghễ,Chí chỉ tay vào mặt Bá Kiến mà ra lời dõng dạc: “ Tao muốn làm người lượng thiện”. Tư thế ấy ta chưa từng bắt gặp ở Chí. Trước đây hắn chỉ biết cúi đầu lế phép “ một điều bẩm cụ, hai điều lạy cụ”. Đó là sự chuyển biến và sự khẳng định mình của Chí.Ngôn ngữ của Chí càng lúc càng đậm màu sắc triết lý: “ Ai cho tao lương thiện? tao không thể là người lương thiện”. Lời cuối cùng được thốt lên với tất cả niềm cay đắng xót xa. Chí đã bị đẩy đến bước đường cùng. Cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở cho Chí thì đã bị đóng sầm lại.Chí đau đớn tuyệt vọng. Không còn lối thoát, không còn cách nào khác là kết án kẻ thù, giết chết Bá Kiến. sau đó anh tự sát. Anh không muốn sống nữa, vì giờ đây ý thức về nhân phẩm đã trở về. anh không thể sống kiểu lưu manh, không thể sống như thú vật nữa. Bởi vì lòng thương người của Thị Nở, chỉ một chút thôi đã đủ kéo Chí trở về cuộc sống làm người. “ Anh đã bâng khuâng mơ hồ buồn”. Anh đã nghe được âm thanh của cuộc đời: bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đàn bà đi chợ về …Những âm thanh bình thường quen thuộc ấy bỗng trở thành tiếng gọi của sự sống đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Cuộc gặp gỡ Thị Nở lóe sáng như một tia chớp trong cuộc đời tối tăm mịt mù của anh. Anh bỗng nhận ra tất cả tình trạng bi đát của số phận mình. Anh bỗng thấy “ Thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Tức là anh vô cùng khao khát được mọi người nhận anh trở lại “vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Tình yêu của Thị Nở mở đường trở lại làm người. Nhưng con đường đó vừa được hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô của Thị Nở không cho phép cháu bà” đi lấy một thằng (…) chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ” . Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Tất cả quen coi anh là “quỹ dữ”mất rồi. Hôm nay linh hồn anh trở về nhưng không ai nhận ra. Thế là Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch đau đớn khi hiểu ra rằng xã hội đã cự tuyệt mình. Vậy thì anh phải chết! Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa đời phũ phàng đóng chặt trước mặt anh. Chí Phèo chết quằn quại trên vũng máu tươi của mình, chết trong niềm uất hận và đau thương lớn lao. Vì niềm khao khát mãnh liệt, thiêng liêng của anh là được sống làm người không thực hiện được. Chí Phèo khổ quá, cô đơn quá! Khi chết mọi người chỉ đứng nhìn, kể cả người vợ đã từng chung sống năm ngày cùng chỉ đứng nhìn mà thôi. Tình người đâu? Làm thế nào để con người sống được cuộc sống con người, trong cái xã hội ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy. Qua hình tượng Chí Phèo ngòi bút nhân đạo Nam Cao đã đặt ra câu hỏi lớn ấy. Đó là một vấn đề có ý nghĩa xã hội, ý nghĩa triết học có tầm vóc lớn lao được đặt ra bằng một tài năng xuất sắc bậc thầy khiến cho “ Chí Phèo”Thuộc vào một trong những tác phẩm hay nhất, có giá trị nhất của văn học thế kỷ này.
– Tác phẩm “Chí Phèo” đã để lại trong lòng người bao trăn trở, bao suy tư ray rứt. Truyện đã phác họa thành công bức tranh về đời sống ở nông thôn Việt Nam thời kỳ 1930-1945. Nó đã trình bày sự mâu thuẫn và xung đột gay gắt giữa bọn cường hào ác bá và những người nông dân nghèo hèn rách rưới bị đẩy vào con đường tội lỗi mà tiêu biểu là NỖI ĐAU CỦA CHÍ PHÈO. Những mâu thuẫn nội tại ấy đã cho thấy sự xấu xa thối nát của xã hội đương thời. Hơn bao giờ hết, bức tranh nông thôn Việt Nam hiện ra mới xơ xác tiêu điều làm sao! Nó đầy rẫy những bọn người hèn hạ đốn mạt ( Bá Kiến. Bà Ba , đội Tảo…) Cũng như những tệ nạn xã hội: rượu chè, cờ bạc , trộm cướp…có thời cơ phát triển. Một xã hội không chỉ có sự bần cùng hóa mà còn có cả sự lưu manh hóa. Về điểm này tác giả xây dựng rất thành công chân dung của một người nông dân mới: Chí Phèo. Hình ảnh Chí trở thành một điển hình văn học. Một kiểu mẫu của loại người bị tha hóa về mặt nhân cách, vừa sống động vừa độc đáo mới mẻ. Cũng qua đó bật lên tiếng lòng nhân đạo cao cả. Một sự cảm thông, một thái độ trân trọng sâu sắc đối với số phận của người nông dân cùng bị xã hội chà đạp, ruồng rẫy, chối bỏ thậm chí tước bỏ cả quyền làm người. Những kẻ mà xã hội cho là cực kỳ xấu xa ấy, dưới con mắt yêu thương của tác giả vẫn còn một chút gì là tình người. Tình người và sự phản kháng muốn chống lại xã hội, muốn bứt ra khỏi cái xã hội vô nhân đạo, không có một chút tình người. Toát lên từ tác phẩm là niềm khát khao hạnh phúc, khát khao quyền làm người. Đặc biệt là tiếng kêu trước lúc giãy chết của Chí Phèo. Đó là tiếng kêu cứu của một con người. Một số phận bị vùi dập “Ai cho tao lương thiện? Tao muốn làm người lương thiện”. Tiếng kêu mới đau đớn và tha thiết làm sao! Nó cứ xoáy vào lòng người. Nó làm ta băn khoăn, ray rứt không nguôi. Nó kêu gọi hay nói đúng hơn là nó đặt ra một vấn đề cấp thiết. Một vấn đề chung không của riêng ai: ấy là “ số phận con người”. Nó kêu gọi tình người, kêu gọi sự quan tâm đến những kẻ bất hạnh. Kêu cứu vấn đề nhân phẩm con người đang trên đường bị hủy hoại. Nó đặt ra nhiệm vụ nóng bỏng của thời đại là hãy cứu lấy nhân phẩm, hãy bảo vệ quyền làm người của một con người.
– Tác phẩm có giá trị tố cáo xã hôi vô nhân đạo.Con người không thể nào sống nổi với nó. Cùng quẫn, bế tắc cảnh ao tù nước đọng.Chí Phèo này chết đi, có Chí Phèo con ra đời thay thế. Chi tiết cuối cùng của tác phẩm miêu tả Thị Nở “ Thị thoáng thấy hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, vắng người qua lại”. Phải chăng tác giả kín đáo báo hiệu một Chí Phèo con sắp sửa ra đời. Có người cho rằng đó là kết thúc bi quan. Tại sao không nghĩ rằng, Nam Cao đang kêu gọi chúng ta hãy cứu lấy những đứa con của Chí Phèo. Hãy đập nát lò gạch cũ để con người sống với nhau trong sáng hơn, cao đẹp hơn!
Viết về nỗi đau đó thật vô cùng ý nghĩa cho cả hôm qua, hôm nay và mai sau, tùy cấp độ khác nhau nhưng nỗi đau vẫn còn. Tác phẩm của Nam cao vì thế vẫn còn rất mới và mãi mãi trường tồn với thời gian.
– Tác phẩm của Nam Cao ghi lại những chuyện đời thường nhưng sao lại có sức gắn đến thế với cả cuộc đời rộng lớn. Cái tiếng thì thầm của tác phẩm lại có sức ám ảnh đến đối với nhiều lớp người trong hành trình cuộc đời. Giữa bao thăng trầm của lịch sử, truyện của Nam Cao là một đối tượng đầy hấp dẫn mà mỗi lúc nghĩ đến là gợi cả một bức tranh đời. Cả một tiểu vũ trụ nhân gian với bao màu sắc vừa hài hòa vừa tương phản.
– Nhà văn Nam Cao tuy không phải là nhà văn đầu tiên của dòng văn học hiện thực phê phán thời kỳ 1930-1945. Đã có biết bao cây bút nổi danh. Nhưng Nam Cao đã vươn tới đỉnh cao bởi vì Nam Cao có một phong cách riêng, không lẫn với ai được. Nếu không có Nam Cao thì trong lịch sử văn học sẽ trống đi một chỗ trong việc phản ánh đất nước. Tâm hồn con người sẽ thiếu đi một cây bút xuất sắc trong nền văn học dân tộc.
– Tuyên ngôn nghệ thuật của cụ là: “ Văn chương chỉ dung nạp được những ai biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có…” Nam Cao không dừng lại ở những hiện tượng bề mặt. Ông cố gắng đi sâu vào một bản chất của một sự vật và bày tỏ thái độ đồng cảm xót thương đối với những tâm hồn lao khổ. Tấm lòng yêu thương nhân đạo và sự hiểu biết sâu sắc về con người, đời sống ở thôn quê đã giúp Nam Cao xây dựng hình tượng người nông dân sinh động. Từ một làng quê heo hút của mình, nhà văn đã mở ra cả một thực trạng nông thôn đang thời kỳ lột xác.
Nam Cao có được một thi pháp rất độc đáo. Tác phẩm Nam Cao bộc lộ một kiểu tư duy mới. Tư duy phần tính đặc biệt thể hiện xuất sắc kiểu tâm lý nhân vật lưỡng khả- một lại tâm lý dang dở giữa tỉnh- say, khóc- cười..ý thức và vô thức. Sức hấp dẫn ở sự phân tích nhân vật sắc sảo. Nam Cao chú ý đến nội tâm hơn là ngoại hình nhân vật. (trừ những trường hợp có dụng ý đặc biệt thuộc về những chi tiết nghệ thuật). Dường như mọi đặc sắc nghệ thuật của Nam cao đều gắn với sở trường ấy: vấn đề đói miếng ăn và nhân phẩm con người. Vấn đề tưởng như cũ nhưng rất mới như vấn đề “ sống mòn”, vấn đề tha hóa cho đến nay vẫn còn rất mới. Vấn đề đói ăn , thiếu mặc chưa khổ bằng vấn đề bị tha hóa nhân phẩm con người.
– Nam Cao là người thực sự viết bài ai điếu tiễn đưa người nông dân vào cõi chết. Và chỉ có Chí Phèo mới là người trôi xa nhất trong dốc trượt của cuộc đời – là “cột mốc cuối cùng đi tới của các số phận”. Ngòi bút của Nam Cao như nhỏ từng giọt nước mắt theo số phận Chí Phèo. Nam Cao đã tìm được lối viết rất riêng. Khuôn mặt nhân vật của Nam Cao rất xấu: những Chí Phèo, Thị Nở, Trạch Văn Đoành… hình thức đó phải chăng là báo hiệu sự tha hóa,bóp méo về tâm hồn của họ ( xét về mối tương đồng) mà cũng có thể dụng ý của nhà văn là ở cái xã hội ấy phải sản sinh ra những con người ấy. Nhưng xét về mối tương phản có lẽ nhà văn muốn nhắc chúng ta hãy nhìn cho kỹ kẻo lầm. Thị Nở xấu xí vậy nhưng vẫn còn chút thương người. Còn Bá Kiến không xấu về hình thức nhưng lại độc ác giã man vô cùng. Ở Chí Phèo anh vẫn có điểm sáng. Anh ước mơ được trở lại cuộc sống con người lương thiện…
Anh đã giải quyết một cách thông mình cho đường đi không thể nào khác của số phận mình khi bị cuộc đời chối bỏ. Lối đặt tên nhân vật của Nam Cao lại cũng khác người. Nam Cao rất hiện thực và nhân đạo. Ở Nam Cao cái làm nên nghệ thuật là cái bình thường hàng ngày. Như vậy có thể nói mỗi chi tiết trong tác phẩm vừa là đơn thể vừa là chỉnh thể. Mỗi giọt nước mắt được Nam Cao miêu tả cũng chính là giọt nước mắt ấy đồng thời là cả biển cả khổ đau.
Nam Cao xứng đáng là nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam.
– Nam Cao ra đi để lại cho đời sau, những thế hệ người đọc một số lượng tác phẩm không nhiều nhưng đạt đến đỉnh cao của dòng văn học hiện thực phê phán. Đọc “ Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố,” Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, chúng ta từng bắt gặp những con người bị dồn đẩy đến chân tường và cũng đã chứng kiến không ít những số phận éo le.Nhưng đến Nam Cao cảnh nghèo đã thấm thía qua từng trang sách. Và người đọc cứ day dứt không nguôi về bi kịch của con người bị đẩy đến tận đáy cùng xã hội. Không có một nỗi khổ nào hơn nỗi khổ của Chí Phèo khi bị tước cả quyền làm người, quyền được lao động, quyền được mơ ước yêu thương. Do bị áp bức đè nén quá nặng nề, cờ bạc rượu chè cùng quẫn, đói ăn thiếu mặc, liều lĩnh. Chí Phèo là một kiểu nạn nhân đau khổ mà số phận của anh là một lời tố cáo mạnh mẽ, một tiếng kêu đau thương. Chí Phèo là sản Phẩm của một hoàn cảnh xã hội bế tắc.Con người bị tước đoạt hết mọi quyền sống tối thiểu nhất và bị xô đẩy vào vòng tội lỗi. Những truyện ngắn viết về người nông dân biến chất đã miêu tả quá trình suy sụp của họ trên cái dốc đời mà Chí Phèo là người trôi xa nhất nên cuối cùng rơi vào đáy tội lỗi. Nhưng điều đáng quý là anh đã mong muốn trở về con đường lương thiện.
– Con đường hoàn lương không thực hiện được vì bị kẻ thù chặn đứng lại, nhưng chính trên chặng đường ngắn ngủi này, bộc lộ bao xót xa đau đớn của nhân vật muốn khẳng định lại những ước mong chân chính được làm người. Do đó giá trị nhân đạo của vấn đề càng sâu sắc.
Nam Cao là một nhà văn tài hoa, giàu lòng nhân ái. Chỉ tiếc rằng cụ ra đi quá sớm nhưng sự nghiệp văn chương ngắn ngủi đó đã để lại cho chúng ta một “ Chí Phèo” và những truyện ngắn khác vẫn còn mãi với thời gian.
Top 41 bài phân tích, dàn ý tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao hay nhất
Bài giảng: Chí Phèo (Phần 2: Tác phẩm) – Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)
Phần Chí Phèo (Nam Cao) Ngữ văn lớp 11 gồm các bài văn mẫu: dàn ý, phân tích, nghị luận, cảm nhận, … hay nhất giúp các sĩ tử học tốt môn Văn lớp 11 và đạt điểm cao trong các bài kiểm tra, bài thi môn Văn.
Quảng cáo
Dàn ý Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
I. Mở bài
– Vài nét tiêu biểu về tác giả Nam Cao: Ông được xem là đại diện xuất sắc nhất của văn học hiện thực ở chặng đường phát triển cuối cùng của khuynh hướng này
– Giới thiệu tác phẩm Chí Phèo: Truyện ngắn kết tinh thành công của Nam Cao trên đề tài nông thôn, nông dân và là một kiệt tác trong nền văn xuôi trước cách mạng
II. Thân bài
1. Làng Vũ Đại – không gian nghệ thuật của truyện ngắn
– Đây chính là không gian nghệ thuật của truyện bởi toàn bộ những chuyện của Chí Phèo đều diễn ra tại đây
– Mâu thuẫn giai cấp gây gắt, âm thầm mà quyết liệt, không khí tối tăm , ngột ngạt.
– Đời sống của người nông dân vô cùng khổ cực bị đẩy vào đường cùng không lối thoát, bị tha hóa.
⇒ Không gian nghệ thuật làm cơ sở đi sâu khai thác hình tượng nhân vật, đồng thời thấy được giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm
2. Nhân vật Bá Kiến
– Tiếng cười Tào Tháo, mềm nắn rắn buông, dùng đầu bò trị đầu bò… ⇒ Xảo quyệt, gian hùng, thủ đoạn
– Nhân cách ti tiện bỉ ổi, dâm đãng, ghen tuông và độc ác
⇒ Điển hình cho loại địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng
3. Hình tượng nhân vật Chí Phèo
a. Sự xuất hiện của nhân vật
– Hắn vừa đi vừa chửi…: sự xuất hiện tự nhiên
– Qua tiếng chửi, chân dung nhân vật hiện lên: Kẻ lưu manh cứ rượu vào là chửi nhưng đằng sau đó thấy Chí Phèo mong muốn được coi là người bình thường
b. Lai lịch, cuộc đời Chí Phèo trước khi ở tù
– Hoàn cảnh xuất thân: không cha, không mẹ, không nhà, không cửa
– Tuy vậy, Chí vẫn giữ những phẩm chất tốt đẹp:
+ Là một con người lương thiện làm ăn chân chính với ước mơ giản dị và có lòng tự trọng
c. Sự biên đổi của Chí Phèo sau khi ra tù
– Sự kiện Chí Phèo bị bắt vào tù:
+ Vì Bá Kiến ghen với vợ hắn.
+ Chế độ nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành lưu manh, có tính cách méo mó và quái dị.
– Hậu quả của những ngày ở tù:
+ Hình dạng: biến đổi thành con quỷ dữ ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân hình.
+ Nhân tính: triền miên trong cơn say, đập đầu, chửi bới, phá phách và làm công cụ cho Bá Kiến ⇒ Chí Phèo đã đánh mất nhân tính.
– Quá trình tha hóa của Chi Phèo: Đến nhà Bá Kiến trả thù ⇒ Chí mắc mưu, trở thành tay sai cho Ba Kiến
⇒ Chí đã bị cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính
d. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở
– Tình yêu thương của Thị Nở đã đánh thức bản chất lương thiện của Chí Phèo.
+ Về nhận thức: Nhận biết được mọi âm thanh trong cuộc sống.
+ Nhận ra bi kịch trong cuộc đời của mình và sợ cô đơn, cô độc
+ Về ý thức: Chí Phèo thèm lương thiện và muốn làm hòa với mọi người.
– Hình ảnh bát cháo hành là hình ảnh độc đáo, chân thật và giàu ý nghĩa: lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng Chí được ăn trong tình yêu thương và hạnh phúc.
⇒ Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh
e. Bi kịch bị cự tuyệt
– Nguyên nhân: do bà cô Thị Nở không cho Thị lấy Chí Phèo → định kiến của xã hội .
– Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo:
+ Lúc đầu: Chí ngạc nhiên trước thái độ của Thị Nở
+ Sau Chí hiểu ra mọi việc: xách dao đên nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
⇒ Cái chết của Chí Phèo là cái chết của con người trong bi kịch đau đớn trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống làm người.
4. Đặc sắc nghệ thuật
– Xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
– Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo.
– Ngôn ngữ giản dị, diễn đạt độc đáo.
– Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, lôgic.
– Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hóa giàu kịch tính.
III. Kết bài
– Khẳng định lại những nét tiêu biểu nhất về mặt nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo
– Với tác phẩm này, nam Cao đã tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân nửa phong kiến và đồng thời trân trọng, phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng chừng họ đã biến thành quỷ dữ
Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao
Viết về đề tài người nông dân đã có rất nhiều nhà văn thành công trong đó có tên tuổi của Nam Cao với kiệt tác “Chí Phèo” tập chung khắc họa tình cảnh và số phận của nhân vật chính bị đẩy vào mức đường cùng, bị chà đạp tàn nhẫn mất nhân hình và nhân tính. Tác phẩm đã tố cáo hiện thực xã hội cũ và thể hiện tư tưởng nhân đạo, quan điểm nghệ thuật của nhà văn.
“Chí Phèo” được viết vào năm 1941 với cái tên là “Cái lò gạch cũ” dựa vào hình ảnh cái lò gạch bị bỏ hoang xuất hiện đầu và cuối câu chuyện cho thấy sự quẩn quanh bế tắc trong cuộc sống và số phận của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Nhan đề này thiên về sự bi quan, ảm đạm của nhà văn về đời sống và tiền đồ của nông dân nghèo. Sau đó nhà xuất bản đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi” hướng vào mối tình Chí Phèo-Thị Nở gây trí tò mò với người đọc. Đến năm 1946 Nam Cao lấy tên nhân vật đặt lại là “Chí Phèo” đây là sự lựa chọn thông minh và đúng đắn, mang dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Hoàn cảnh, số phận của Chí Phèo không phải là vấn đề của một tình huống cụ thể mà đó là hiện tượng phổ biến của bao người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ.
Câu chuyện “Chí Phèo” kể về cuộc đời và quá trình bị lưu manh tha hóa của nhân vật chính. Chí là một đứa trẻ bị bỏ hoang tại cái lò gạch cũ ở giữa đồng. Hắn lớn lên như cây như cỏ đi ở hết nhà này tới nhà khác. Bản chất vốn hiền lành lương thiện chỉ vì cơn ghen của Bá Kiến mà bị đẩy vào tù. Bảy, tám dưới chế độ cai trị tàn bạo của nhà tù phong kiến nửa thuộc địa làm cho tâm hồn Chí bị nhuốm đen, bị tha hóa mất hết tính người, ngoại hình bị biến dạng từ lời nói đến hành động, suy nghĩ không còn là anh canh điền chất phác. Ngày trở về làng hắn đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, bị quỷ dữ cướp đi linh hồn, bị bọn cường hào địa chủ tiêu biểu là cụ Bá hoàn thành nốt công đoạn cuối cùng biến hắn thành “con quỷ dữ”. Kể từ đó hắn bị mọi người ghẻ lạnh, xa lánh và gạch tên ra khỏi sự tồn tại của cộng đồng người làng Vũ Đại.
Mở đầu tác phẩm Nam Cao để cho nhân vật của mình xuất hiện một cách độc đáo ngất ngưởng trong cơn say cùng với tiếng chửi. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những đứa không chửi nhau với hắn, chửi cha mẹ đứa nào đẻ ra hắn. “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Nhưng điều lạ ở chỗ hắn chửi nhưng không ai đáp lại, chỉ có tiếng chó sủa và tiếng chửi của một thằng say, mọi người đều nghĩ “Chắc hắn trừ mình ra”. Cách vào truyện gây tò mò, cho người đọc băn khoăn với những câu hỏi: Tại sao Chí lại chửi nhiều đối tượng đến thế? Tại sao lại có kẻ tha hóa đến vậy? và vì sao nó chửi mà không ai thèm chửi nhau với hắn? Nam Cao đau lòng nhận xét: “Giá hắn biết hát thì có lẽ không cần chửi”, nếu biết hát thì Chí không phải khổ, mọi người cũng không cần nghe tiếng chửi của Chí. Cách thu hẹp đối tượng chửi cho thấy hắn tỉnh chứ không phải là say, chửi là chửi tỉnh chứ không phải say vì rượu mà chửi. Hắn thấm thía nỗi đau bị ghẻ lạnh mà càng uống càng chửi thì càng chẳng có ai quan tâm để mắt đến hắn. Tuổi thơ Chí đã sống trong ghèo khó, bất hạnh không có tình thương để rồi giờ đây số phận hắn vẫn không thay đổi một giọt hạnh phúc hi hữu cũng không.
Chí luôn ở trong trạng thái say tỉnh bất phân vừa về hôm trước hôm sau đã thấy ngồi ngoài chợ uống rượu với thịt chó từ trưa đến xế chiều. Anh Chí xuất hiện với ngoại hình “đầu trọc lốc như thằng sắng cá! Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngưc phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế”. Từng chi tiết được Nam Cao miêu tả thật xác đáng, Chí Phèo hiện lên dưới ngòi bút ấy đúng chất của thằng đầu bò hổ báo. Cuộc đời của hắn với tâm hồn và nhân cách có lẽ bị biến dạng méo mó từ đây cho đến khi gặp được thị Nở.
Nam Cao lột tả cuộc đời Chí là “Một cơn say dài, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở trên đời”. Lần say thứ nhất hắn xách chai đến nhà cụ Bá để rạch mặt ăn vạ, nhưng với một con người xảo quyệt, mưu mô mà thấu lòng đối phương như cụ anh Chí nhanh chóng bị hạ gục bởi mấy lời dụ dỗ ngon ngọt, chẳng biết có họ như thế nào với Lí Cường nhưng khi nghe Bá Kiến nói thế cũng thấy dịu dịu, nguôi ngoai cơn giận. Lần thứ hai hắn đến không gây gổ, ăn vạ mà dáng điệu hiền lành như cục đất, gãi đầu gãi tai xin cụ cho đi ở tù, hắn thấy đi tù sướng hơn nhưng thực chất là đòi miếng cơm, tấc đất. Mục đích và yêu cầu ấy thật chính đáng tuy nhiên lại bị tên địa chủ cường hào gian ác lợi dụng biến Chí thành tay sai đắc lực cho hắn. Kể từ đó Chí chìm đắm trong cơn say mà khi say hắn có thể làm bất cứ thứ gì mà người khác sai bảo. Chí là con quỷ thực sự “Hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện” tất cả dân làng đều sợ hắn, người ta đều tránh mặt khi hắn qua. Chị Dậu nghèo đói không có tiền nộp sưu cho chồng phải bán con bán chó nhưng không bán nhân phẩm. Còn Chí bán cả linh hồn cho quỷ để rồi bị cự tuyệt quyền làm người đến xót xa.
Như vậy cuộc đời của Chí Phèo đến đây có thể thấy rõ được hiện thực xã hội ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng, Nam Cao đã khẳng định một sự thật đau đớn mà người nông dân lương thiện bị chà đạp về tinh thần và bị bóc lột về thể xác đến cùng cực khiến cho họ trở thành con người bị lưu manh, tha hóa.
Tuy nhiên Nam Cao không để cho nhân vật của mình mãi chìm đắm trong cơn say, với tấm lòng nhân đạo ấy ông đã cho Chí Phèo có năm ngày hạnh phúc, được sống là con người đúng nghĩa. Sau khi gặp thị Nở đây thực sự là lúc hắn từ một con quỷ dữ hồi sinh sống lại với kiếp người. Thị Nở chẳng có gì ngoài ngoại hình xấu xí ma chê quỷ hờn, cái mặt ả là sự mỉa mai của hóa công lại còn là dòng giống con nhà mả hủi, nghèo và ngẩn ngơ nhưng con người ấy lại có một tấm lòng ấm áp, có sự cảm thông và quan tâm chân thành với Chí Phèo. Hai con người bị cô lập trong chính xã hội loài người tìm về được với nhau, đồng điệu trong tâm hồn.
Sáng hôm sau tỉnh dậy đây là lần đầu tiên từ khi trở về hắn hết say và tỉnh táo. Chí cảm nhận được tiếng gọi tha thiết của cuộc sống: tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng của người đi chợ nói chuyện với nhau. Cảnh tượng ấy khiến Chí nhớ về ngày xưa khi còn là anh canh điền hiền lành cũng đã từng có một thời mơ ước “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. chúng lại bỏ con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó là một ước muốn nhỏ nhoi, bình dị như bao người nông dân nghèo khó. Hắn cũng nhìn thấy được tương lai của bản thân là bệnh tật và cô đơn. Hắn chưa bao giờ tỉnh để nghĩ về điều đó giờ đây đã thực sự nhận thức được hoàn cảnh của bản thân mình.
Bát cháo hành của thị khiến cho Chí cảm động vô cùng hắn hết ngạc nhiên đến khóc vì trước giờ không có ai cho không hắn cái gì, hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi tay một người đàn bà như thế. Cứ vậy chúng thì thầm, chúng bẽn lẽn tỏ tình với nhau “Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”, “Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui” và chúng có năm ngày hạnh phúc ngắn ngủi cùng nhau. Trong con mắt của kẻ say tình thấy thị Nở xấu vậy mà cũng có duyên vô cùng “xấu mà e lệ cũng đáng yêu”, còn thị thấy Chí không hề đáng sợ thậm chí là còn thấy hắn hiền và đáng thương. Khi ấy Chí khao khát được hoàn lương, khao khát được sống bình yên với thị, muốn làm hòa với mọi người và thị Nở là cầu nối để hắn hòa nhập với xã hội, thị là người mở đường cho hắn. Bao nhiêu hi vọng, niềm tin, khao khát hắn đặt vào ở thị. Nhưng tiếc thay cho đôi tình nhân thị lại là người dở hơi đem câu chuyện của mình về xin ý kiến bà cô và tất nhiên bà ta không đồng ý mà dùng những lời cay nghiệt, xỉa xói thị. Đến nhà Chí ả vứt lại tất cả những lời nói ấy, sự tức giận ấy vào mặt hắn. Hắn đã chính thức bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến xã hội, đến cả thị người duy nhất hiểu và cảm thông, chấp nhận hắn cũng gạt tay hắn ra, ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về. Chí rơi vào bế tắc, tuyệt vọng hắn lại tìm đến rượu nhưng càng uống càng tỉnh, càng tỉnh lại càng đau khi ý thức rõ được hoàn cảnh của bản thân. Chí Phèo thực sự tỉnh để nhận diện rõ kẻ thù của mình là Bá Kiến để rồi dẫn đến hành động hắn cầm dao đâm chết cụ Bá và tự sát khi tiếng kêu đòi làm người lương thiện vẫn vang vọng trong đau đớn, xót xa: “Tao muốn làm người lương thiện!”, “Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?” Chí chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, hắn không thể chấp nhận kiếp sống thú hoang nên cái chết là lựa chọn đúng đắn và hợp lí nhất. Hành động đó không phải là giết người trong vô thức, cũng không phải là vụ giết người cướp của của gã Chí Phèo lưu manh thực hiện mà đó là hành động của sự thức tỉnh về quyền sống, quyền làm người của nông dân khi đã bị dồn nén quá mức uất ức vùng lên.
Chí Phèo chết nhưng chưa hết chuyện. Khi nghe tin hắn chết dân làng kéo nhau đến xem có biết bao lời bàn tán, trong đó cũng có thị tới, thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và “thấy thoáng hiện ra cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại”. Phải chăng vẫn cứ quẩn quanh trong sự tồn tại ấy, nếu chế độ xã hội không thay đổi thì hết Chí Phèo bố sẽ có Chí Phèo con và còn biết bao nhiêu thằng như Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức rồi cũng sẽ xuất hiện “tre già măng mọc” thể hiện cho quy luật xã hội “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”.
Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo mà nhà văn khắc họa trong tác phẩm toát lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Một mặt vừa phê phán, lên án tố cáo xã hội phong kiến nửa thuộc địa tàn ác, dã man đã nhẫn tâm đẩy người nông dân vào đường cùng, bị dồn nén xuống tận đáy của xã hội. Một mặt cảm thương, xót xa cho số phận người nông dân nghèo. Đồng thời Nam Cao cũng khẳng định bản chất lương thiện và khao khát hạnh phúc là bản tính tự nhiên tốt đẹp của con người không có thế lực tàn bạo nào có thể hủy diệt nó, ngay cả khi con người ta bị tha hóa, bị đẩy vào con đường lưu manh thì bản tính ấy chỉ tạm thời bị lắng xuống chứ không bị mất đi, nó như ngọn lửa cháy âm ỉ dưới lớp tro tàn nguội lạnh chỉ cần gặp được ngọn gió tình người ấm áp sẽ lại bùng cháy một cách mãnh liệt.
Nam Cao cũng viết về đề tài người nông dân như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan và bao nhà văn hiện thực khác nhưng ông không đi sâu vào nạn sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức… mà chủ yếu đi vào khai thác cuộc sống của người nông dân nghèo bị bạo lực, bị xã hội phi nhân tính tàn phá về tâm hồn và nhân cách. Truyện ngắn “Chí Phèo” là một kiệt tác, tác phẩm có giá trị đóng góp cho bộ mặt của người nông dân vào trong kho tàng văn học dân tộc. Dù trang văn đã khép lại bấy lâu nhưng người đọc vẫn nghe văng vẳng đâu đó tiếng kêu đòi làm người lương thiện của anh Chí và ám ảnh bởi chi tiết hắn giẫy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi, mắt trợn ngược, mồm ngáp ngáp muốn nói nhưng không ra tiếng.
Dàn ý Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện Chí Phèo
1. Mở bài
– Nam Cao là nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc của văn học Việt Nam,
– Sáng tác của ông nói về những số phận nhỏ bé trong xã hội, đặc biệt là người nông dân.
– Chí Phèo là tác phẩm thể hiện hình ảnh của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám bị thực dân phong kiến làm cho tha hóa nhân hình, nhân tính.
2. Thân bài
a) Chí Phèo, người nông dân lương thiện:
+ Sinh ra là đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, sống vất vưởng.
+ Lớn lên làm canh điền cho Bá Kiến, là người khỏe mạnh, chịu khó, “hiền lành như đất”.
+ Có ước mơ và hạnh phúc bình dị.
+ Có lòng tự trọng.
b) Chí Phèo, tên lưu manh, con quỷ dữ của làng Vũ Đại
+ Bị Bá Kiến đẩy vào nhà tù thực dân.
+ Người nông dân lương thiện bị nhà tù làm cho tha hóa cả về nhân hình và nhân tính.
=> Chí Phèo là hiện tượng có tính quy luật của xã hội đương thời, là sản phẩm của tình trạng đè nén, áp bức của nông thôn trước Cách mạng tháng Tám.
c) Chí Phèo, bi kịch của người sinh ra là người nhưng không được là người
+ Cuộc gặp gỡ với thị Nở đã đánh thức phần người trong Chí.
+ Chí thức tỉnh, khát khao được sống lương thiện, được trở về với cuộc sống đời thường, thực hiện những ước mơ bình dị. Biểu hiện cho sự thức tỉnh là Chí nhận ra mình đã già, nhận ra được những âm thanh của cuộc sống đời thường.
+ Thế nhưng bị từ chối quyền làm người và chịu một kết cục bi thảm khi Thị nghe lời bà cô từ chối sống cùng Chí. Bà cô chính là đại diện cho rào cản xã hội, là tiếng nói đại diện cho thành kiến của xã hội đương thời khiến Chí rơi vào đau đớn, tuyệt vọng đến cùng cực.
+ Kết cục bi thảm của Chí: Trong bế tắc, Chí ý thức được kẻ đã cướp đi bộ mặt và linh hồn của con người Chí chính là Bá Kiến. Chí đã đến trả thù, tiêu diệt Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
d) Đánh giá
– Nghệ thuật: Giọng kể đa thanh, khắc họa nhân vật độc đáo, xây dựng tình huống truyện hấp dẫn, hợp lý.
– Nội dung: Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mới mẻ. Vạch trần tội ác của bọn thực dân phong kiến đồng thời thể hiện niềm tin vào sức mạnh của tình người, vào nhân tính và bản chất con người.
3. Kết bài
– Chí Phèo đã trở thành hình tượng của người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam.
– Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo được thể hiện thông qua nhân vật Chí Phèo đã đưa tác phẩm trở thành kiệt tác số một của Nam Cao, khẳng định tên tuổi của ông trong nền Văn học Việt Nam.
Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện Chí Phèo
“Chí Phèo” được viết vào năm 1941, là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng 8. Đây là một trong những truyện ngắn có thể nói là nổi bật nhất trong các tác phẩm khác ra đời cùng thời và đưa Nam Cao đi lên vị trí hàng đầu trong lớp nhà văn hiện thực, phê phán xã hội vào giai đoạn 1930-1945.Tác giả đã xây dựng thành công , nổi bật hình tượng một nhân vật điển hình đó là nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa rất sâu cay vào loại tiêu biểu của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ.
Chí Phèo là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao dựa trên cơ sở người thật, việc thật ở vùng quê của mình, ông đã hư cấu tạo nên một bức tranh hiện thực về đời sống của những người dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8 với tất cả sự tăm tối, sự ngột ngạt cùng bao nhiêu là đau đớn, kinh hoàng,… Nhân vật Chí Phèo là đại diện cho bi kịch của những người nông dân bị tha hóa nhân cách trong xã hội cũ. Nhưng tất cả những nỗi khổ cực, bi đát trong cái xã hội đấy không thể làm cho những người người nông dân khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống một cuộc sống thanh bình hạnh phúc bên gia đình, vợ con. Nhưng thực ra ở bên trong con người họ lại luôn có một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Nam Cao không đề cập đến các vấn đề về sưu thuế, tô thuế như các tác phẩm cùng thời khác mà ông có những khám phá riêng của mình về số phận của những người dân lao động khốn khổ bị chà đạp. Đó là một cái nhìn vô cùng mới mẻ, độc đáo nhưng vô cùng sâu sắc, thể hiện nỗi đau trăm chiều của những người nông dân nghèo bị áp bức trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên là ai mà có ảnh hưởng lớn đến vậy? Mở đầu tác phẩm nhà văn Nam Cao đã giới thiệu nhân vật Chí Phèo của mình một cách rất ấn tượng và lôi cuốn người đọc. Nhà văn đã để hắn ta xuất hiện trong trạng thái say rượu, không có ý thức về mọi thứ “hắn vừa đi vừa chửi”. Điều này rất là lạ bởi thông thường người ta thường chửi có đối tượng cụ thể đằng này hắn chửi tất cả những gì hắn nhìn thấy, hướng tới tất cả cuộc đời trời đất này. Lạ lùng hơn nữa khi đây không phải là lần đầu tiên xảy ra chuyện này mà đã xảy ra rất nhiều lần trước đó, nó được minh chứng qua câu nói “bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vậy tại sao Chí Phèo lại ra nông nỗi như vậy? Nhân vận của Nam cao xuất hiện đã tạo ra một ẩn số khiến người đọc vô cùng tò mò. Có người sẽ dự đoán Chí Phèo chắc phải có nỗi khổ nào trong lòng mới dùng rượu để trút hết những tâm tư, suy nghĩ ra. Và quả thực cuộc đời hắn ta hiện lên trong tác phẩm như một cuốn phim bi thảm.
Chí Phèo vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi một cách rất tàn nhẫn, có thể hiểu đơn giản như mồ côi bố mẹ, sự ra đời của hắn không được bất kỳ ai mong đợi. Hay nói trắng ra là hắn là một đứa con hoang, khi hắn sinh ra cha không thừa nhận, mẹ hắn ra thì bỏ hắn lại ở cái lò gạch cũ mặc cho sống chết, đói rét, khóc thét. Vậy là chỉ có duy nhất cái lò gạch cũ là chấp nhận sự ra đời của hắn. Khi mà hắn ta trở nên xám ngắt cả thân thể trong chiếc váy đụp mẹ hắn để lại rồi những người nông dân nghèo khổ đã nhìn thấy và nhặt hắn về nuôi. Ban đầu người nuôi hắn ta là một anh đi thả ống lươn, sau đó là một người đàn bà góa phụ rồi đến bác phó cối.
Nhưng rồi khi bác phó cối chết đi Chí Phèo lại trở thành đứa bé bơ vơ, không nơi nương tựa. Những khi đói bụng muốn có cái gì đó ăn hắn phải đi hết nhà này đến nhà khác để xin miếng ăn sống qua ngày. Cuộc đời của Chí Phèo rất lênh đênh và tội nghiệp chẳng khác gì một thứ bèo dại trôi dạt từ nơi này sang nơi khác không có chỗ dung thân. Nhưng thực ra đó cũng là tình cảnh chung của những người nông dân trước cách mạng tháng 8, cuộc đời của họ cũng dập dềnh không khác gì Chí Phèo, những người đi ở đợ, nhưng người buôn thúng, bán mẹt nay đây mai đó không chỗ dung thân phải đi tha hương cầu thực ở xứ người.
Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đã đưa đẩy Chí Phèo đến với gia đình nhà Bá Kiến. Những tưởng được bước vào gia đình giàu có là sẽ kiếm được bát cơm manh áo , không phải lo chuyện no đói hằng ngày nữa nào ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi bà vợ của Bá Kiến cứ bắt hắn bóp chân hằng ngày, khêu gợi những chuyện tế nhị, hắn tuy còn trẻ và ít tuổi nhưng bản thân hắn cũng đủ ý thức phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa, bỉ ổi. Những lời dụ dỗ đó không thể làm mất đi bản chất của Chí Phèo. Nhìn chung lúc bấy giờ Chí là một chàng trai lương thiện, tốt bụng và có lòng tự trọng. Đọc đến đây nhiều người sẽ liên tưởng đến nhân vật chị Dậu của Ngô Tất Tố đã cầm đống giấy bạc để ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện, xấu xa. Hay gần gũi hơn nữa là nhân vật Lão Hạc của Nam Cao, chính lòng tự trọng rất cao đã khiến hắn từ chối mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão cũng đã tìm đến con đường chết để giữ lại lòng tự trọng cao quý ở chính con người mình.
Nhưng sống lương thiện trong xã hội này không hê được yêu thương và quý trọng mà thay vào đó là sự lợi dụng. Bản chất lương thiện, tốt bụng của Chí Phèo đã bị chính cái xã hội thối nát lúc bấy giờ ra sức hủy hoại. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho Bá Kiến bắt giam Chí Phèo và biến hắn từ một người lương thiện thành một con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ngồi tù và trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo đã trở thành một con quỷ đội lốt con người “đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “ trông gớm chết” . Trên người hắn xăm kín người với những hình thù quái dị, bản chất thánh thiện của hắn ngày xưa đã không còn. Bây giờ hắn trở thành một con người chỉ biết làm điều ác. Nhà văn đã sử dụng từ ngữ “ghê chết” để bày tỏ sự kinh hãi đối với hắn. Sự lưu manh trong con người hắn ngày càng hiện lên rất rõ qua những hành động hằng ngày. Khi hắn mua rượu để uống không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch vào mặt rồi nằm ăn vạ,…Hắn càng trở nên độc ác hơn bao giờ hết khi rơi vào tay Bá Kiến và trở thành công cụ đắc lực cho ông ta. Chỉ cần Bá Kiến cho hắn vài hào là hắn có thể đâm chém bất kỳ người nào được ông ta yêu cầu. Càng ngày Chí càng lún sâu vào con đường tội lỗi không có lối thoát.
Ở đây với những đặc điểm nổi bật này ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới và đầy tinh tế trong đời sống của người nông dân Việt Nam khổ cực trước cách mạng tháng tám. Nếu như chỉ dừng lại ở việc phân tích đời sống khốn khổ, bần cùng của những người nông dân thì đã có “tắt đèn”, “bước đường cùng”,… Nhưng cái mới của Nam Cao trong tác phẩm này đó là đã chỉ ra con đường lưu manh hóa, tha hóa của những người nông dân về bản chất. Họ vốn là những con người rất thật thà, chất phác, thánh thiện và giàu lòng tự trọng. Những con người cả cuộc sống không bước ra khỏi cổng làng thì làm sao có thể làm hại người khác được. Song nhà văn bằng ngòi bút xuất sắc và sắc sảo của mình đã vạch ra được tội ác của những kẻ đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó chính là thủ đoạn độc ác, để tiện của bọn cường hào giàu có như Bá Kiến kết hợp với sự tàn bạo, hà khắc của chính quyền thực dân lúc bấy giờ. Chính những con người này đã nhào nặn và bôi bẩn lên tâm hồn vốn rất mong manh và lương thiện của những người nông dân.
Cuộc gặp gỡ với nhân vật Thị Nở đã khiến cho cuộc đời của Chí Phèo bước sang một trang mới. Thị Nở không khác gì một ánh trăng dịu êm của đêm ấy, tình thương của Thị Nở dành cho Chí Phèo không khác gì dòng sông lấp lánh dịu êm dưới ánh trăng chứa chan bao nhiêu tình cảm. Chính những điều đó đã đánh thức bản chất lương thiện trong con người Chí, làm nó sống lại và giúp Chí sống lại kiếp sống của con người. Tình thương quả đúng là thần dược giúp khôi phục các vết thương, chữa lành những tổn thương nặng nhất. Thị Nở đã làm sống lại sự tự ý thức về bản thân trong con người của Chí Phèo. Hắn sống lại với ước muốn giản dị là “một gia đình nhỏ”. Vậy là sau bao nhiêu năm tháng, hôm nay Chí lại nghe thấy tiếng chim hót ở ngoài kia hay tiếng những bà cô đi chợ hỏi nhau “hôm nay vải mấy xu hả mấy dì?”
Những âm thanh này thực ra ngày nào chả có nhưng đến tận hôm nay Chí mới để ý và nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha mong về cuộc sống sau này. Bát cháo hành của Thị Nở đem đến cho Chí khiến hắn vô cùng cảm động “mắt ươn ướt”, “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn nghĩ rất nhiều về tương lai, một tương lai bình dị có một gia đình hạnh phúc. Chí đã khóc, chính giọt nước mắt và nụ cười ấy đã khiến Thị Nở thầm nghĩ “có lúc hắn hiền như đất”. Rồi Chí nói với Thị Nở một cách ấm áp và đầy tình mong muốn Thị Nở sang đấy ở hẳn với mình. Ngay lúc này hắn khát khao muốn được trở về cuộc sống lương thiện như ngày trước không phải bận tâm chuyện gì “trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.
Chính những trang văn ấy đã làm sáng bừng câu chuyện và sáng bừng cả cuộc đời tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, lời nói của hắn lại làm chúng ta cảm động đến vậy. Chúng thể hiện một điều rằng lần đầu tiên trong đời chí đã biết được lí tưởng sống, mục đích sống sau này của cuộc đời mình, nó nằm ở nơi người đàn bà bề ngoài xấu xí bị cả xã hội cười chê, xa lánh. Mong ước giản dị của hắn có thể làm bất kỳ người nào cũng phải giật mình và tự nhìn nhận lại những gì bản thân mình đang có để cảm thấy nâng niu và quý trọng nó hơn.
Tưởng rằng từ nay cuộc đời Chí sẽ bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch của Chí chưa dừng lại ở đó. Thị Nở đã từ chối lời đề nghị ở chung của Chí bởi bà cô Thị Nở không cho phép lấy một thằng không biết làm gì ngoài việc rạch mặt làm chồng. Nếu nhìn nhận đúng thì không thể nào trách bà cô của Thị Nở được bơi đó cũng chính là cách nhìn của những người sống trong xã hội lúc bấy giờ đối với Chí Phèo. Hắn ta khóc rưng rưng và tiếp tục lại rơi vào những ngày tháng bi kịch tuyệt vọng muốn được làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn lại tìm đến những chén rượu, hắn cứ uống cho đến lúc say mềm rồi cầm dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời, với người trong làng bằng những tiếng chửi rủa, còn đời đáp cũng đáp trả lại hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi khắp cả làng Vũ Đại. Vậy là đã rõ, cuộc đời Chí Phèo đã đi vào hồi kết không có lỗi thoát, kiếp hắn giờ cũng được ví như kiếp sống của những con chó mà thôi.
Miệng hắn thì không thôi chửi cô cháu Thị Nở nhưng đôi chân lại dẫn hắn đến trước ngôi nhà của Bá Kiến. Đoạn văn này được nhà văn Nam Cao miêu tả vô cùng tinh tế và sắc sảo và đầy tính nhân văn. Lúc này, Chí Phèo đang ở trạng thái nửa tỉnh , nửa say. Say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở còn tỉnh là để đến nhà Bá Kiến đi theo thói quen trong tiềm thức. Đến nhà Bá Kiến hắn không đòi tiền như thường lệ mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng lúc này hắn đã cảm nhận được sự tuyệt vọng trong cuộc đời của mình. Hắn hét lên trong vô vọng “ai cho tôi lương thiện?” Câu hỏi đó của Chí Phèo không một ai trả lời, điều đó đau đớn đến vô cùng. Câu hỏi của hắn làm người đọc cảm thấy cảm thương sâu sắc đối với những phận người bất hạnh không biết đi đâu vào đâu trong cái xã hội thối nát này. Quá tuyệt vọng, Chí đã lao vào đâm chết lão Bá Kiến độc ác và cũng Chí đã tự kết thúc đời khốn khổ của mình .
Kết câu chuyện Nam Cao để Chí Phèo chết điều đó thể hiện được rất nhiều ý tưởng sâu xa, sâu sắc góp phần tạo nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm vì Chí Phèo chết đã tạo thành một bản án tố cáo xã hội thối nát, áp bức đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa, vô tâm đã sẵn sàng tước bỏ đi quyền sống, quyền làm người của những người dân lương thiện, hiền lành. Chí chọn con đường chết cũng có nghĩa là anh ấy không muốn quay lại con đường lưu manh, không muốn tiếp tục sống một kiếp người làm kẻ độc ác nữa. Anh ấy thà chọn con đường chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng được hoàn lương, quyết tâm không quay lại con đường tội lỗi. Đó chính là sự tin tưởng của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người và Chí Phèo là một điển hình.
Khi miêu tả tấn bi kịch về số phận của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích chi tiết các nguyên nhân sâu xa, cốt lõi tạo nên mạch bi kịch trong cuộc đời bi đát của Chí Phèo. Trong đó nguyên nhân khách quan là xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đẩy con người vào vòng sa ngã không đứng lên được. Còn nguyên nhân chủ quan là bản thân những người nông dân cùng cảnh nghèo khó lại quay lưng lại với nhau, phủ định nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô của Thị Nở. Khi bị xua đuổi, đày đọa, áp bức một cách tàn nhẫn thì những người như Chí Phèo chống trả bằng con đường lưu manh. Kết thúc câu chuyện tác giả miêu tả cảnh Thị Nở nhìn xuống cái bụng của mình và thấp thoáng hình ảnh Chí Phèo hiện ra sau đó. Rất có thể một Chí Phèo con lại chào đời và sống tiếp quãng đường giống bố của nó. Hình tượng Chí Phèo được khắc họa rất thành công và khát quát hóa quy luật của xã hội. Vậy muốn kết thúc chuỗi bi kịch khốn khổ của Chí Phèo thì cần phải tiêu diệt cái xã hội ấy đi, đây chính là chiều sâu, là giá trị trong các tác phẩm của Nam Cao về miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc cũng như lòng thương cảm sâu sắc đối với những kiếp người bị tha hóa trước cách mạng tháng 8. Cùng với Chị Dậu, lão Hạc,…thì hình tượng nhân vật Chí Phèo lại một lần nữa khẳng định cần có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống, quyền làm người cho người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là lời nhắc, cảnh tỉnh cho chúng ta biết yêu thương, quý trọng những gì mà mình đang có và ra sức cống hiến để xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Tổng hợp các bài văn mẫu phân tích, dàn ý truyện ngắn Chí phèo hay khác:
Xem thêm các bài Văn mẫu phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 11 khác:
Mã giảm giá Shopee mới nhất Mã code
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.


Nhóm học tập facebook miễn phí cho teen 2k5: fb.com/groups/hoctap2k5/
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
Các loạt bài lớp 11 khác
Trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, có lẽ Chí Phèo là tác phẩm thành công nhất trong việc tạo cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ, khó quên về bức tranh tăm tối ngột ngạt, ngột ngạt của nhà thơ. nông thôn Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám, đồng thời thức tỉnh phần lương tâm tốt đẹp nhất của con người, khơi dậy lòng căm thù xã hội xấu xa chà đạp lên nhân phẩm con người, lòng trắc ẩn, đồng cảm với những số phận cùng đinh bị hành hạ, tha hóa trong chế độ cũ.
Căm ghét xã hội thực dân phong kiến thối nát, phê phán mạnh mẽ các thế lực thống trị xã hội, trên cơ sở đồng cảm, yêu thương và kính trọng con người, nhất là những người bị vùi dập, chà đạp, đó là cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 30-45. Tuy nhiên, ở Chí Phèo, Nam Cao khám phá hiện thực đó bằng một góc nhìn độc đáo. Nam Cao không trực tiếp miêu tả quá trình nghèo đói, áo rách mặc dù đó cũng là một thực tế phổ biến. Nhà văn trăn trở và suy nghĩ nhiều hơn về một hiện thực của con người: con người không được là chính mình, thậm chí không còn được làm người mà trở thành “quỷ”, bởi những âm mưu thâm độc và những ý đồ xấu xa. sự chà đạp của bộ máy thống trị bạo ngược. Bằng cái nhìn sắc sảo, đầy tính nhân văn, bằng khả năng phân tích, lí giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và tấm lòng nhân hậu, nhà văn đã xây dựng nên một tác phẩm có giá trị quý giá. Tính hiện thực và tính nhân văn độc đáo không thể tìm thấy ở các nhà văn đương đại.
Thực tế cho thấy, trong bất kỳ tác phẩm nghệ thuật chân chính nào, giá trị hiện thực luôn song hành với giá trị nhân đạo. Tác phẩm càng xuất sắc thì những giá trị đó càng thấm nhuần, thống nhất, khó tách rời. Chí Phèo của Nam Cao cũng không nằm ngoài quy luật đó. Vì nội dung phản ánh (và tiếp nhận) – yêu, kính hay ghét, khinh? Tách rời hai giá trị là phá vỡ sự gắn bó hữu cơ của một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất vốn có.
Đọc xong Chí Phèo ta thấy gì? Mở đầu tác phẩm là cảnh Chí Phèo vừa đi đường vừa chửi rủa, từ trời giáng xuống người, tiếng chửi rủa đầy căm thù, đê tiện và chua chát. Kết thúc là cảnh Chí Phèo vật vã tìm giữa vũng máu tươi. Bao trùm lên tất cả, tác phẩm ám ảnh ta bằng một không khí ngột ngạt, bế tắc khủng khiếp, đầy những mâu thuẫn không thể điều hòa của một làng quê Việt Nam trước Cách mạng, với những cảnh cướp bóc, đe dọa, chém giết, lừa bịp, cãi cọ… trong đó Chí Phèo xuất hiện như một nhân vật biếm họa tiêu biểu. . Hãy nghe nhà văn miêu tả: “Bây giờ anh ấy đã trở thành một người đàn ông trẻ mãi không già. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hoặc hơn bốn mươi. Khuôn mặt anh ta không trẻ cũng không già; đó không còn là khuôn mặt con người nữa: đó là khuôn mặt của một con vật lạ, hãy nhìn xem khuôn mặt của những con vật không bao giờ biết tuổi của chúng? Sau khi đi tù về, hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại mà chính mình cũng không biết. Cuộc đời anh không có ngày nào vì những cơn say triền miên. Anh ta ăn trong khi say, tỉnh dậy vẫn say, đập đầu và rạch mặt, chửi rủa, đe dọa trong khi say, uống khi say, rồi lại say, say không ngừng. Anh ấy không bao giờ tỉnh dậy và có lẽ không bao giờ tỉnh dậy để nhớ rằng mình đã ở trên đời. Chắc nó cũng biết nó là con quỷ dữ của làng Vũ Đại chuyên tạo quái thai cho bao dân làng. Anh ta không biết mình đã phá hủy bao nhiêu cơ nghiệp, bao nhiêu cảnh tan nát, bao nhiêu hạnh phúc tan vỡ, bao nhiêu nước mắt của những người lương thiện đã rơi… Tất cả dân làng đều sợ hãi và tránh xa anh ta mỗi ngày . khi anh ấy đi qua…”
Đoạn văn chất chứa biết bao đau khổ của một thân phận đã đánh mất đi mạng sống của một con người. Những năng lực vốn có của con người – năng lực cảm xúc, tri giác – gần như bị tiêu diệt, chỉ còn khả năng đâm chém và tiêu diệt. Chí Phèo đã tự hủy hoại nhân tính, nhân tính của mình như thế nào? Nhà văn không tập trung miêu tả dài dòng quá trình tha hóa. Ông thiên về lý giải, phân tích cội nguồn sâu xa dẫn đến kết cục bi thảm của nó, chỉ với vài nét phác giản dị về Bá Kiến, về ngục tù, về dì Thị Nở, về dư luận xã hội nói chung. … Trong chuỗi liên hệ đó, người đọc dễ dàng nhận ra: sở dĩ Chí Phèo (và không chỉ Chí Phèo mà cả Năm Thố, Bình Chúc – cả một lớp người được nhà văn cá thể hóa qua nhân vật Chí Phèo) từ một Chàng thanh niên ngoan như cục đất biến thành quỷ là vì Chí, từ khi sinh ra đã thiếu thốn tình cảm yêu thương và nhất là khi lớn lên chỉ bị đối xử khinh bỉ, thô lỗ. bạo lực và tàn ác. Thủ phạm trực tiếp là Bá Kiến, kẻ được nhà văn miêu tả là một con cáo già “thông minh”, “ném đá giấu tay”, “già trong đục khoét”, biết thế nào là “mềm yếu buông tay”. “Hay lén lút đẩy người ta xuống sông mà lôi lên bắt nó trả ơn. Hay đập bàn đập ghế đòi 5 đồng nhưng rồi lại ném đi vì thương con quá!”.Chính hắn đã bày mưu đẩy Chí Phèo vào ngục oan rồi dùng Chí Phèo làm tay sai đắc lực. để phục vụ cho những mưu đồ, lợi ích đen tối của mình, không có Bá Kiến thì không có Chí Phèo, mà Chí Phèo không chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà thậm chí còn là phương tiện thống trị tối ưu: “không có đầu bò thì làm gì có đầu bò?”. Chính Bá Kiến đã rút ra kết luận mà theo hắn là rất có lý. Là một tên tội phạm, nham hiểm, nhẫn tâm nhưng bề ngoài Bá Kiến lại là một người ôn hòa, dễ tính, có lý, khiến mọi người nhìn hắn với ánh mắt “nể phục”… Thế nên hắn mới so đo. Có bao nhiêu người lương thiện có thể bị lừa dối. Chí Phèo trở thành tay chân đắc lực của hắn; thực sự biến thành công cụ, phương tiện thống trị cho kẻ thù của mình mà chính mình không hề hay biết. Bá Kiến xuất hiện trong tác phẩm Chí Phèo với tư cách là một nhân vật điển hình, sống động và cá tính, đại diện cho một bộ phận giai cấp thống trị, được miêu tả và khám phá dưới ngòi bút điêu luyện. Song hành cùng anh là Lý Cường, chánh tướng, đội tảo… Chính họ đã mang đến bầu không khí ngột ngạt cho vùng quê Việt Nam vào thế “cá đá thực sự” (đàn anh chỉ là một trường đá cá ). vừa rình mồi, vừa rình rập để tiêu diệt nhau). Họ chính là thủ phạm gây ra tấn bi kịch Chí Phèo… Số phận của Năm Thọ, Bình Chúc tuy chỉ được nhắc đến trong tác phẩm nhưng cũng góp phần chỉ ra tính hệ thống, phổ biến của phương thức tha hóa nhân dân. trong sự thống trị của họ. Đằng sau Bá Kiến, Lý Cường, Chánh tổng… như một sự hỗ trợ gián tiếp nhưng tích cực là một hệ thống nhà tù man rợ, bẩn thỉu – một hoàn cảnh môi trường tồi tệ. Quá trình Chí Phèo ở tù không được miêu tả trực tiếp, chỉ biết khi ở trong tù Chí Phèo là người hiền lành lương thiện. Ra tù, anh trở về với dáng vẻ hung dữ, ngổ ngáo của một tên côn đồ mà anh học được từ đó. Người viết chỉ nói vậy thôi. Nhưng như vậy là quá đủ đối với những độc giả thông minh!
Với lối viết độc đáo, tài hoa, linh hoạt, biến hóa, Nam Cao khi miêu tả, khi kể kết cấu tâm lý và mạch dẫn dắt của truyện có vẻ khách quan, lạnh lùng, tàn nhẫn nhưng lại chứa đựng bên trong biết bao cảm giác quằn quại, đau đớn trước số phận đau thương của kiếp người. Lồng ghép vào bức tranh hiện thực trên là thái độ yêu ghét, là cách phân tích, đánh giá trước những vấn đề của hiện thực đặt ra của nhà văn. Ngay cả việc chọn một nhân vật cùng khổ nhất trong xã hội làm đối tượng để miêu tả và gửi gắm biết bao niềm thương cảm… tự nó đã hàm chứa một nội dung nhân đạo. Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện rõ nhất ở cách nhìn nhận của nhà văn đối với nhân vật bị tha hóa đến cùng. Nam Cao vẫn phát hiện trong sâu thẳm bản chất tốt đẹp vốn có của nhân vật, chỉ cần một chút tình cảm chạm nhẹ là có thể hồi sinh mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa đặc biệt. Con người xấu xa đến mức bị “quỷ ám”, kì diệu thay họ lại là nguồn sáng duy nhất soi vào chốn tăm tối của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, khơi dậy bản chất con người trong Chí Phèo, thắp sáng một trái tim. ngủ qua nhiều ngày bị nghiền nát và bị từ chối. Sau cuộc gặp ngắn ngủi với Thị Nở, Chí Phèo giờ đã nhận ra ánh sáng bên ngoài, nghe thấy tiếng chim hót líu lo vui vẻ, tiếng thuyền chài khua mái chèo đuổi cá, tiếng người xì xào bàn tán. đi chợ bán vải… Tiếng chẳng bao giờ có. Nhưng hôm nay Chi mới nghe. Chao ôi, buồn thay, trong giây phút tỉnh táo ấy, Chí Phèo dường như đã nhìn thấy tuổi già, đói lạnh, ốm đau và cô đơn của mình – điều này còn đáng sợ hơn cả đói rét và bệnh tật. May mà Thị Nở bưng đến bát cháo hành. Nếu không, hắn sẽ bật khóc trong tâm trạng đó… Nhìn bát cháo bốc khói nghi ngút, lòng Chí Phèo xốn xang và than thở: Hắn cảm nhận được tấm chân tình của một đứa trẻ, hắn muốn tán tỉnh cô như đã tán tỉnh mẹ mình… Ôi tại sao? Anh ấy tử tế! “Thèm lương thiện – Khát khao làm hòa với mọi người”… Từ một con quỷ dữ, nhờ Thị Nở, nói đúng hơn là nhờ tình yêu của Thị Nở, Chí mới thực sự trở lại làm người, với tất cả sức mạnh của mình. vốn có. Một chút tình yêu, thậm chí là tình yêu của một con người điên khùng, bệnh hoạn, thô lỗ, xấu xí… cũng đủ làm sống dậy cả một bản chất con người trong Chí Phèo. Khi đó bạn mới biết sức mạnh tình cảm của tình yêu tuyệt vời như thế nào!
Với chi tiết này, Nam Cao đã chiếu lên tác phẩm một ánh sáng nhân đạo cao đẹp – Nhà văn như muốn hòa mình vào nhân vật để đồng cảm, sẻ chia những phút giây hạnh phúc hiếm hoi của Chí Phèo…
Nhưng bi kịch và đau đớn thay, cuối cùng Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Chút hạnh phúc cuối cùng vẫn không đến với Chí Phèo. Và thật nghiệt ngã, khi bản chất con người Chí Phèo trỗi dậy cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không thể trở về lương thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi quyền làm người của Chí và sẽ không bao giờ trả lại được. Những vết sẹo ngang dọc trên gương mặt, hậu quả của nhiều lần say rượu, nhiều lần bị đâm, rạch mặt… đã làm đứt nhịp cầu nối Chí với cuộc đời. Và, như Đỗ Kim Hối đã nói, “một khi đã được nếm mùi làm người, tình cảm không thể mất đi… Đó là bi kịch tột cùng mà giải pháp duy nhất là cái chết.” (Tạp chí Văn học số 3-1990)
Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời lên án mạnh mẽ một xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền con người, là lời kêu gọi khẩn thiết: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Đó là những tư tưởng, tình cảm lớn có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc mà người đọc rút ra từ những trang văn nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa tính hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo trở thành bất hủ, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm cao đẹp trong lòng mọi độc giả. tuổi.
Phân tích tình yêu trong Chí Phèo của Nam Cao
Xem giải pháp
Bài tập làm văn phân tích nhân vật Chí Phèo lớp 11 của Nam Cao bao gồm dàn ý phân tích nhân vật Chí Phèo và các bài văn mẫu chọn lọc. Hy vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh phân tích nhân vật Chí Phèo hay nhất.
Dàn ý phân tích nhân vật Chí Phèo
1. Mở bài:
– Nam Cao là nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc của văn học Việt Nam,
– Sáng tác của ông nói về những số phận nhỏ bé trong xã hội, đặc biệt là người nông dân.
– Chí Phèo là tác phẩm thể hiện hình ảnh của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám bị thực dân phong kiến làm cho tha hóa nhân hình, nhân tính.
2. Thân bài:
b. Luận điểm 1: Chí Phèo, người nông dân lương thiện:
- Sinh ra là đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi, sống vất vưởng.
- Lớn lên làm canh điền cho Bá Kiến, là người khỏe mạnh, chịu khó, “hiền lành như đất”.
- Có ước mơ và hạnh phúc bình dị.
- Có lòng tự trọng.
b. Luận điểm 2: Chí Phèo, tên lưu manh, con quỷ dữ của làng Vũ Đại
- Bị Bá Kiến đẩy vào nhà tù thực dân.
- Người nông dân lương thiện bị nhà tù làm cho tha hóa cả về nhân hình và nhân tính.
Chí Phèo là hiện tượng có tính quy luật của xã hội đương thời, là sản phẩm của tình trạng đè nén, áp bức của nông thôn trước Cách mạng tháng Tám.
c. Luận điểm 3: Chí Phèo, bi kịch của người sinh ra là người nhưng không được là người:
- Cuộc gặp gỡ với thị Nở đã đánh thức phần người trong Chí.
- Chí thức tỉnh, khát khao được sống lương thiện, được trở về với cuộc sống đời thường, thực hiện những ước mơ bình dị. Biểu hiện cho sự thức tỉnh là Chí nhận ra mình đã già, nhận ra được những âm thanh của cuộc sống đời thường.
- Thế nhưng bị từ chối quyền làm người và chịu một kết cục bi thảm khi Thị nghe lời bà cô từ chối sống cùng Chí. Bà cô chính là đại diện cho rào cản xã hội, là tiếng nói đại diện cho thành kiến của xã hội đương tời. Khiến chí rơi vào đau đớn, tuyệt vọng đến cùng cực.
Kết cục bi thảm của Chí: Trong bế tắc, Chí ý thức được kẻ đã cưới đi bộ mặt và linh hồn của con người Chí chính là Bá Kiến. Chí đã đến trả thù, tiêu diệt Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.
d. Luận điểm 4: Đánh giá
– Nghệ thuật: Giọng kể đa thanh, khắc họa nhân vật độc đáo, xây dựng tình huống truyện hấp dẫn, hợp lý.
– Nội dung: Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo mở mẻ. Vạch trần tội ác của bọn thực dân phong kiến đồng thời thể hiện niềm tin vào sức mạnh của tình người, vào nhân tính và bản chất con người.
3. Kết bài:
– Chí Phèo đã trở thành hình tượng của người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám trong văn học hiện thực phê phán Việt Nam.
– Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo được thể hiện thông qua nhân vật Chí Phèo đã đưa tác phẩm trở thành kiệt tác số một của Nam Cao, khẳng định tên tuổi của ông trong nền Văn học Việt Nam.
Bài văn mẫu phân tích nhân vật Chí Phèo
Phân tích nhân vật Chí Phèo – bài 1
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối củng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay.
Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Phân tích nhân vật Chí Phèo – bài 2
Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng: “Trong mảnh sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao, có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật “có vấn để” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”. Và nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật “có vấn đề” như thế, nhưng chính những lời văn mà tác giả viết về nhân vật này và những bi kịch mà y phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.
Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”. Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và cũng chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách. Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình và rồi trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền. Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.
Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên sự có mặt của hắn ở trên đời.
Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm, lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí. Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay nào hắn có thấy ai tự cho ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, hắn bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ và cùng với đó là khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập cùng mọi người, họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn tự đặt ra câu hỏi cho mình: hắn có thể làm bạn được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người mà Chí đặt niềm tin vào, Chí tin Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc sống đó.
Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa. Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.
Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình yêu của hắn chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn ý thức được ai mới chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình. Hắn xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến tột cùng, Chí đã tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó là cái chết, chết để kết thúc tất cả bi kịch của cuộc đời Chí.
Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của mình đối với những người có số phận bất hạnh. Ở sâu thẳm trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phân tích nhân vật Chí Phèo – bài 3
Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã khắc hoạ bức chân dung của người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát. Kết cục tha hoá lưu manh hoá là tất yếu như một sự giải thoát. Qua nhân vật Chí Phèo nhà văn đã mang đến cho người đọc những giá trị nhân văn sâu sắc mà mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chí “chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa.
Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”. Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.
Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”. Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám. Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.
Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỉ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất.
Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Thì nay chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền!“. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Đó là giây phút Chí “thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người”. Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở “hay là cậu sang đây ở với tớ một nhà cho nó vui”. Từ một con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!
Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo. Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.
Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe thoang thoảng mùi cháo hành rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu trong con người của Chí, anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:
– Tao muốn làm người lương thiện
– Ai cho tao lương thiện?
Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại.
Phân tích nhân vật Chí Phèo – bài 4
“Khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Người ta vẫn coi Chí Phèo như một hiện tượng lạ của văn học và đời sống, một sáng tạo đặc biệt của Nam Cao mà qua đó, bao lớp hiện thực được lật dở, bao tầng tư tưởng được cày xới.
“Chí Phèo” thật sự đã đưa tên tuổi của Trần Hữu Tri chính thức trở thành Nam Cao. Vốn là một nhà văn hiện thực đến sau, bước vào làng văn khi mà mảnh đất về người nông dân đã được lật xới nhiều lần, Nam Cao vẫn cày được những đường cày thật đẹp và nâng tác phẩm của mình trở thành tuyệt tác. Tôi cho rằng “Chí Phèo” là tác phẩm Nam Cao viết hay và sâu sắc nhất về người nông dân bởi tính hiện thực và tư tưởng nhà văn gửi trong đó.
Đi theo cách nhà văn muốn dẫn dắt người đọc, Nam Cao đã đẩy Chí Phèo ra giữa sân khấu cuộc đời với trạng thái say và chửi – một trạng thái đầy ấn tượng và ám ảnh: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi.” Hắn – cái cách mà Nam Cao gọi Chí Phèo – là một kẻ đang đằm mình trong men rượu và đối thoại với đời bằng tiếng chửi. Tiếng chửi có lớp có lang, có gần có xa, từ chửi trời, hắn chửi đời, rồi chửi sang cả dân làng Vũ Đại, chửi đứa nào không chửi nhau với hắn, và sau cùng là chửi “đứa chết mẹ nào đã đẻ ra hắn”. Tiếng chửi như đã trở thành quy luật sống của một kẻ say, Nam Cao đã cho ta thấy trạng thái tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được chất lưu manh trong con người hắn, và phần nào thấy được bi kịch bị cự tuyệt của Chí Phèo. Trong tiếng chửi dường như có sự cô độc. Dân làng Vũ Đại không ai ra điều, đáp lại hắn chỉ là tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo bị gạch tên ra khỏi xã hội chăng? Vì đâu mà hắn bị cả xã hội ghê sợ và lảng tránh? Những câu hỏi gợi mở Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã cho ta lần bước tìm hiểu về nhân vật…
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã và không sao gượng dậy được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù chỉ vì một cơn ghen bạo chúa, bi kịch lưu manh hóa cũng bắt đầu từ đó.
Chí ra tù, mang theo sự biến đổi nhân hình và nhân tính đến méo mó dị dạng. Từ một anh canh điền khỏe mạnh, Chí trở nên là một đứa “đặc như thằng săng đá”, với “cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng, cái mặt câng câng, con mắt gườm gườm. Người ta tưởng như một con quỷ dữ về làng. Chuỗi ngày sau khi ra tù, hắn ngụp lặn trong trạng thái tinh thần say miên man. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say. Đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên thành hình, nó còn đang dần gặm nhấm từ bên trong khi mà Chí đã tự mình bán rẻ linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Vậy là chỉ sau những lời mời dụ ngọt nhạt của tên gian hùng lọc lõi như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay đi đòi nợ thuê, chém giết thuê. “Hắn đâu biết hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người dân lương thiện”. Chí Phèo đã thực hiện đúng mưu đồ của cha con nhà Bá Kiến: “Lấy thằng đầu bò để trị những thằng đầu bò”. Chất Người trong hắn dường như đã cạn kiệt, linh hồn quỷ xâm chiếm và tàn phá hắn.
Nhưng cũng chính từ bi kịch ấy mà ta nhìn thấy bản chất, bộ mặt của cả một xã hội – một xã hội vô nhân với những những con người cạn sạch tính người, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “chó đểu”. Ở đó, có những tên cường hào ác bá như Bá Kiến nắm mọi quyền lực, có thể tuyệt đường sống của người dân lương thiện bất cứ lúc nào, có nhà tù thực dân bắt vào một người lương thiện và thả ra một con quỷ dữ, có những người như dân làng Vũ Đại khước từ sự dung nạp và chấp nhận một người như Chí Phèo.
Tưởng như Chí đã trượt dài và lún sâu trong tấn bi kịch đời mình, nhưng Nam Cao vẫn đủ tin tưởng và trái tim nhà văn vẫn rất nhân đạo khi “cố tìm mà hiểu” chất Người trong tâm hồn của một kẻ mà phần Con đã chiếm thế. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn của làng Vũ Đại. Qua cái đêm ăn nằm như vợ chồng với thị, Chí tỉnh dậy và bao nhiêu sự hồi sinh đã được đánh thức. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình cảm và tiếng nói con người. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí nghe thấy “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Cũng lần đầu, hắn ý thức được về tuổi tác của mình, về hiện tại “đã già mà vẫn còn cô độc”, về quá khứ với ước mơ lành thiện khi xưa, về tương lai với “đói rét, ốm đau và cô độc”. Con người ấy lần đầu có những cảm giác rất người, thức dậy cả về lương tri và lương tâm. Hắn biết lo, biết sợ, biết xúc động rưng rưng trước bát cháo hành tỏa nồng hơi ấm, biết ăn năn hối cải về tội ác của mình. Chính bàn tay của một người phụ nữ có dòng dõi mả hủi đã cứu đỡ hắn ra khỏi bờ vực tha hóa, để rồi không chỉ bộc lộ bản chất lương thiện vẫn luôn sẵn có trong con người, Chí Phèo còn trỗi dậy cả khao khát hoàn lương – trở về với xã hội loài người. Hắn tin rằng “Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”; “Thị có thể làm hòa với hắn sao mọi người lại không thể”. Chưa bao giờ, ước muốn được quay trở về làm người lương thiện lại mãnh liệt đến thế. Chính đôi mắt tinh tế và tấm lòng cảm thương của Nam Cao đã nhìn thấy mầm thiện của một con người vốn sống lương thiện, bị xã hội tàn ác vùi dập và đày đọa.
Nhưng hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thành với hiện thực của Nam Cao đã không chối bỏ một sự thật khác, rằng sống trong xã hội đầy rẫy những định kiến cổ hủ lạc hậu, con người không thể sống yên ổn theo đúng nghĩa. Một lần nữa, Chí Phèo rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người bởi định kiến của bà cô Thị Nở. Người đàn bà ấy đã dõng dạc tuyên bố rằng: “Trai làng đã chết hết hay sao mà đi đâm đầu lấy một thằng không cha, lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Cái loa của định kiến làng xã đã đưa bước chân Thị Nở đến từ chối thẳng thừng khát vọng hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Giây phút nhân vật nửa tin nửa ngờ, nửa say nửa tỉnh, cố níu mà không thể giữ, bàng hoàng đến đau đớn đã biến Chí Phèo trở thành một kẻ thật sự tội nghiệp và đáng thương. Thị Nở bước đi, cánh cửa dẫn lối về xã hội loài người đóng sầm ngay trước mặt. Chí Phèo tìm đến tên kẻ thù lớn nhất của đời mình để trả thù và cũng kết liễu luôn đời mình. Chết là một kết cục bi thảm đau đớn, nhưng là lẽ tất yếu khi sống trong xã hội đầy nhơ nhuốc ấy. Không được dung nạp vào xã hội chung, Chí Phèo cũng không thể trở lại làm quỷ dữ, bởi lương tri và lương tâm đã trở về. Chí có chết mới là cách giải quyết tốt nhất, dù nó thật đau đớn. Đó là cái chết bảo toàn nhân phẩm, cái chết cảnh tỉnh cho cả một xã hội, để rồi ngày nay, tiếng hỏi “Ai cho tao lương thiện?” vẫn không ngừng vang vọng và ám ảnh.
Để làm nên thành công của tác phẩm trong việc xây dựng nhân vật, không thể không kể đến nghệ thuật phân tích tâm lý bậc thầy của Nam Cao, nghệ thuật kết cấu linh hoạt theo dòng tâm lý và sử dụng những đoạn độc thại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã điển hình hóa một kiểu người, một số phận trong xã hội, để ngà nay Chí Phèo vẫn là cái tên đầu tiên khi người ta nhớ về Nam Cao.
Phân tích nhân vật Chí Phèo – bài 5
Truyện Chí Phèo ghi nhận thành công xuất sắc nhất của Nam Cao về đề tài người nông dân, cũng là một trong những đỉnh cao nhất của trào lưu hiện thực phê phán. Thành công của hình tượng Chí Phèo chứng tỏ tài năng nghệ thuật độc đáo của Nam Cao, kết tinh giá trị hiện thực lớn lao và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này.
Bối cảnh hiện thực của truyện ngắn Chí Phèo là xã hội nông thôn Việt Nam xác xơ nghèo đói những năm bốn mươi. Trong không khí tối sầm này, không ít người nông dân bị xô đẩy vào con đường bần cùng, lưu manh, không ít người phải điên khùng, liều lĩnh mà tồn tại. Tính cách Chí Phèo mang ý nghĩa điển hình cho lớp người ấy trong thời buổi xã hội ấy.
Bước vào tác phẩm ta bắt gặp ngay Chí Phèo ngất ngưởng vừa đi vừa chửi. “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi…”. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao để Chí Phèo xuất hiện bằng tiếng chửi. Chí Phèo chửi ai? Chí Phèo trời, chửi đời nghĩa là y đối lập với tạo hóa, với xã hội. Chí Phèo chửi cà làng Vũ Đại nghĩa là y đối lập với quê hương. Chí Phèo chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn nghĩa là y đối lập với tất cả (vì có đứa nào chửi nhau với hắn đâu!). Chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn để hắn phải khổ đến nỗi này nghĩa là Chí Phèo tự đối lập lại nguồn gốc, sự tồn tại của mình. Những mong tìm mối dây liên hệ với xã hội chỉ bằng tiếng chửi mà không thể có. Chí Phèo tồn tại như một con vật. Ấy là một kẻ lưu manh, liều lĩnh trong tình cảnh cô độc tuyệt đối. Ngay từ khi được sinh ra, Chí Phèo đã bị ném khỏi nhà,cuộc sống, chỉ trông mong vào lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Trong làng Vũ Đại, Chí Phèo là “một thằng cùng hơn cả dân cùng; không cha không mẹ, không thước đất cắm dùi”. Cả đời Chí Phèo “chưa bao giờ được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà”, đến nỗi mơ ước chung sống với một người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn cũng không đạt được. Chí Phèo tồn tại trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Và Chí Phèo chết đi cũng trong sự cô độc. Không gì độc, tủi nhục hơn khi chết mà không được lấy một giọt nước mắt, chết mà người ta mừng! Mong ước trở lại làm người của Chí Phèo đã bị cự tuyệt, bị xã hội từ chối phũ phàng. Số phận khốn khổ ấy của Chí Phèo tiêu biểu cho số phận của cả một lớp người cố cùng dưới đáy xã hội cũ.
Hiện tượng Chí Phèo vô cùng độc đáo nhưng không phải ngẫu nhiên, cá biệt. Thông qua tính cách điên khùng, số phận bi thảm của Chí Phèo, tác phẩm đã khái quát lên quy luật tha hóa con người nghiệt ngã của xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái gì đã đẩy Chí Phèo vào con đường tội lỗi? Ai đã biến Chí Phèo thành con quỷ dữ làng Vũ Đại?
Cái con quỷ dữ ấy đã từng có một thời gian làm người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi thơ “bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác” đến tuổi thanh niên “làm canh điền cho ông Lí Kiến” Chí Phèo sống cuộc đời lao động cực khổ của người cố nông ở nông thôn. Anh nông dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản dị trong lao động. Tuy còn trẻ trung, anh cũng phân biệt được tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa; bị bà Ba gọi lên bóp chân, anh “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất trong trắng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào và nhà tù thực dân ra sức bóp chết. Chí Phèo vô cớ bị đẩy đi ở tù và bảy, tám năm sau về làng, hắn đã thành người khác hẳn.
Về giữa cái làng Vũ Đại chật chội mà bao thế lực xâu xé nhau, một thước đất cấm dùi không có, Chí Phèo biết làm gì để sống. Không thể hiền lành mà muốn sống – oái oăm thay – phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh, phải gan góc. Những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Người ta đây chính là Bá Kiến – kẻ ăn tiên chỉ làng Vũ Đại, kẻ lọc lõi, gian ngoan vô cùng trong nghề bóc lột. Chúng ta còn nhớ lần thứ nhất Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau hôm đi ở tù về. Dẫu bằng tiếng chửi, bằng vỏ chai rạch mặt ăn vạ, dù sao lần này Chí Phèo còn đến đế trả thù, còn mường tượng ra kẻ thù. Nhưng đến khi từ nhà cụ Bá về với tâm trạng thỏa thuê, với đồng bạc trong tay, đặc biệt từ lần đòi được nợ ở nhà đội Tảo (nhờ sự may mắn tình cờ) thì Chí Phèo đã dần trở thành công cụ mù quáng trong tay Bá Kiến. Chí Phèo đã bán đi cả nhân phẩm lẫn nhân hình để tồn tại và tồn tại như một con vật. Hiện tượng Chí Phèo tiêu biểu cho sự tha hóa phổ biến trong xã hội tàn phá ghê gớm con người. Khi những người nông dân vốn lương thiện mà dốt nát, tăm tối bị rơi vào tình trạng bần cùng hóa thì dễ uất ức mà trở thành những “kẻ cô’ cùng liều thân”. Gặp kẻ thống trị xảo quyệt, sự liều thân cô độc này rất dễ bị lợi dụng, mua chuộc để biến thành sự phá hoại mù quáng. Rốt cuộc, họ lại trở thành “đày tớ tay chân” cho kẻ tử thù. Đó là một quy luật đầy mỉa mai, chua xót trong xã hội cũ. Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là ở chỗ đó.
Một hình tượng điển hình đầy sức sống bao giờ cũng là một “con người này” (theo cách nói của Hêghen). Ấy là một cá tính độc đáo, rõ nét, một gương mặt không thể lẫn. Hình tượng Chí Phèo vừa mang tính khái quát cao, tính phổ biến sâu rộng đồng thời mang những nét riêng độc đáo. Mấy ai có “lai lịch” lạ lùng như Chí Phèo. Mấy ai lớn lên với cảnh ngộ tội nghiệp như con người này. Chí Phèo là một cuộc đời rất riêng ngay từ khi sinh ra, lớn lên cho đến lúc chết đi. Chí Phèo độc đáo từ ngoại hình đến tiếng chửi, đến cách hành động. Một bộ mặt không hẳn ra con người; không hẳn ra con vật, đầy những vằn ngang vạch dọc do những lần đâm chém, cào rạch ăn vạ. Một lối chửi rủa điên khùng, uất ức thật … Chí Phèo. Cũng thật Chí Phèo từ cách uống rượu đến lối toan đốt quán khi không được uống chịu, thậm chí đến lô’i “ướm lời” với Thị Nở và cách đâm chém kẻ thù rồi tự kết liễu đời mình. Hình tượng Chí Phèo gây ấn tượng thật sâu đậm đối với người đọc. Mặt tiêu biểu, khái quát của số phận Chí Phèo bộc lộ qua những nét cụ thể, độc đáo của y; ngược lại, những nét riêng, độc đáo trong tính cách Chí Phèo phản ánh sinh động cảnh ngộ, số phận của một lớp người.
Nhưng sự kết hợp biện chứng, hài hòa giữa hai mặt tính chung và tính riêng ở hình tượng Chí Phèo không chỉ thể hiện ở trên. Xây dựng hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã phát hiện ra và hết sức trân trọng bản chất lương thiện ở người nông dân nghèo khổ. Phần sau tác phẩm, nhân vật này được thể hiện cho một tính cách người đang hồi sinh. Trên phương diện này, Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm và sự vùng dậy phản kháng quyết liệt, tuyệt vọng nhưng rất đáng quý trọng ờ người lao động bị áp bức.
Năm ngày chung sống với Thị Nở như tia sáng lóe lên trong cuộc đời tối tăm dằng dặc của Chí Phèo để rỗi vụt tắt ngấm đưa anh ta vào cõi chết. Cuộc gặp gỡ tình cờ với Thị Nở (hai duyên số kì lạ dưới bàn tay xếp đặt khéo léo của ông mối Nam Cao) không chỉ khơi dậy bản năng sinh lí của gã đàn ông mà quan trọng hơn, đã đánh thức người cô’ nông lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp trong con quỷ dữ Chí Phèo. Phần viết về quá trình hồi sinh cảm động của Chí Phèo và bi kịch đau đớn trong cõi tinh thần sau đó ờ anh ta trở thành những trang hay nhất của kiệt tác Chí Phèo. Nó là bài ca về sức mạnh kì diệu của tình người, của tình yêu. Sự chăm sóc ân cần của Thị Nở, bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở thật sự đã mang hương vị ngọt ngào của tình yêu khiến cho Chí Phèo lại biết khóc, biết cười như một con người. Thị Nở đâu chỉ là tình yêu mà chính là con đường sống, là chiếc cầu dẫn Chí Phèo trở lại cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của loài người. Có hiểu hết niềm vui hồi sinh ờ Chí Phèo, có hiểu hết vai trò quan trọng của Thị Nở như thế ta mới càng thấm thía nỗi đớn đau, tuyệt vọng của Chí Phèo khi chiếc cầu kia đột ngột bị “rút ván”. Khi bị Thị Nở đột ngột “trở mặt”, Chí Phèo ban đầu chưa thể hiểu bởi anh ta đang “say” với nguyện ước trở lại làm người. Khi chợt hiểu ra, Chí Phèo vơ lấy rượu uống. Nhưng thật lạ, lúc này càng uống lại càng tỉnh, “Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo nành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức …”. Có lẽ, trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo chỉ có một lần khóc như thế! Người đàn ông khốn khổ đến lúc này mới được hưởng hương vị cháo hành thì chẳng thể nào quên … Không thể quay lại làm quỷ dữ nữa, Chí Phèo đành đi đến cái chết. Nhưng trước khi chết, phải trả thù kẻ thù đích thực của mình! Rốt cuộc, một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là một Chí Phèo đang lớn tiếng đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi quyền lương thiện. Diễn tả quá trình hồi sinh rồi bị cự tuyệt quyền làm người để đi đến hành động trả thù, tự sát quyết liệt ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo sâu sắc về con người.
Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Chí Phèo là một hình tượng vô cùng độc đáo. Cuộc đời đầy đau thương, tủi hận của Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm của tầng lớp nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa không lối thoát trong xã hội cũ, của những người cùng khổ, tăm tối dưới ách áp bức tàn bạo, xảo quyệt của giai cấp thống trị. Với hình tượng văn học điển hình bất hủ này, Nam Cao đã lớn tiếng vạch trần bản chất tàn bạo của thứ guồng máy xã hội đè nghiến, hủy hoại con người, đồng thời thể hiện một niềm tin sâu sắc vào bản tính tốt đẹp của con người.
Phân tích nhân vật Chí Phèo – bài 6
Là một nhà văn ngắn liền với người nông dân Việt Nam những có lẽ tác phẩm để lại cho ông nhiều tiếng vang nhất phải kể đến tác phầm Chí Phèo, một nhân vật điển hành cho kiếp người khốn khổ la nạn nhân của xã hội cường hào ác bá lúc bấy giờ. Trong tác phẩm nhà văn cho nhân vật của mình bước ra với những bước đi ngật ngưỡng đầy nỗi đau và những ám ảnh khiến cho người đọc có rất nhiều băn khoăn về nhân vật.
Cũng ra đời cùng thời với Chí phèo cũng có rất nhiều bài viết của những tác giả khác nhau viết về làng quê Việt Nam , viết về người nông dân , nhưng người nông dân của Nam Cao xuất hiện mang mọt vẻ sầu bi đầy khốn khổ thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Nhưng qua đó, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Về xuất thân của Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được. Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, cho con nhà Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Chí đã trở thành một con người hoàn toàn khác, và mọi người dân xung quanh có những cách nhìn nhận khác nhau về Chí, họ không cò gọi anh là anh Chí như ngay xưa, mà họ đặt cho anh một cái tên là Chí phèo và anh có thêm một cái tật uống rượu và chuyên rạch mặt ăn vạ.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh. Và để rồi với một hình tượng khó thể để mọi người tiếp nhận và mọi người trong làng đã quay lưng lại với Chí, không ai cho Chí sự lương thiện, không ai giúp Chí quây trở lại làm anh Chí của người xưa, hiện lành tốt bụng biết phải trái đúng sai. Và chính cái sự tha hóa của Chí Phèo đã là tiếng nói phê phán tố cáo cái xã hội thối nát, biến những con người bần cùng của xã hội lại trở nên bần cùng thêm, khốn khổ thêm.
Càng lấn sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Và tưởng chừng như Chí Phèo không thể nào thoát khỏi được cái nhìn ghẻ lạnh của mọi người nhưng may thay có một tấm lòng xuất hiện giúp anh tìm thấy được một phần thiên lương của mình hé mở cho anh một cuộc sống mới có niềm vui có niềm hạnh phúc. Và ở đây, nhà văn để cho nhân vật Thị Nở xuất hiện, dù là một người rất xấu, tính tình dở hơi, nhưng thiên lương lại hoàn toàn trong sáng chính vì vậy, Chí đã một lần may mắn được thức tỉnh và có mong muốn trở về làm người lương thiện . Hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở đã giúp cứu dỗi một tâm hồn, giúp hắn nhận ra rằng cuộc đời hắn chưa bao giờ được ăn một bát cháu hành nồng ấm hương vị tình người đến vậy. Chỉ bằng một chi tiết cho nhân vật phụ tác động tới nhân vật chính mà cuộc đời của Chí phèo đã bước sang một ngưỡng cửa mới, và hắn đã có suy nghĩ đi đòi lại thiên lương của mình.
Và khi đó hắn tìm đến gia đình Bá kiến- bởi lúc này anh đã nhận rõ được rằng chính cha con nhà Bá Kiến đã đẩy cuộc đời anh từ một người hiện lành tốt bụng thành một kẻ lưu manh không nhà không cửa, và khiến cho cả xã hội đã quay lưng lại, không ai đón nhận Chí quay trở lại với xã hội. Và khi đến nhà Bá kiến tại đây kẻ xấu và người đòi lương thiện được tái hợp và kết cục bằng thảm cảnh là cái chết của cha con Bá Kiến và Chí phèo.
Như vậy, qua nhân vật Chí phèo, cho ta thấy được ngòi bút sắc sảo của Nam sao khi tái hiện lại nhân vật của mình, bằng những hình ảnh bình dị bằng những câu từ hết sức mộc mạc chân thật của làng quê. Và qua đó, cũng thể hiện được mong muốn thoát khỏi những rằng buộc phong kiến, và cuộc chiến đòi lại công bằng cho tất cả mọi người.
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Và cũng chính từ đó, sẽ giúp cho những con người cũng bị đẩy vào thảm cảnh như Chí sẽ đứng dậy chống lại lật lại chế độ phong kiến góp phần xây dựng lên một xã hội công bằng hơn.
Trên đây là bài tập làm văn phân tích nhân vật Chí Phèo, Baitaplamvan chúc các bạn học tốt!
Bài viết được sgkphattriennangluc.vn tham khảo từ nguồn:
https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-tac-pham-chi-pheo-cua-nam-cao-40814n.aspx
https://ccedu.vn/doc-tin/nghi-luan-van-hoc-chi-pheo/
https://dean2020.edu.vn/chi-pheo-nam-cao/
https://download.vn/phan-tich-nhan-vat-chi-pheo-trong-truyen-ngan-chi-pheo-cua-nam-cao-36083
https://toplist.vn/top-list/bai-van-phan-tich-tac-pham-chi-pheo-cua-nam-cao-hay-nhat-39826.htm
https://toploigiai.vn/ly-luan-van-hoc-ve-chi-pheo
https://vietjack.com/van-mau-lop-11/chi-pheo-1.jsp
https://baivanmau.net/nghi-luan-van-hoc-phan-tich-tac-pham-chi-pheo-cua-nam-cao/
https://loigiaihay.com/tong-hop-cac-bai-van-nghi-luan-ve-tac-pham-chi-pheo-e19659.html