Trận An Lộc – Wikipedia tiếng Việt mới nhất

Trận An Lộc là trận An Lộc[8]. Đây là trận đánh mà Việt Nam Cộng hòa coi là giai đoạn 2 của Chiến dịch Mùa hè 1972 hay còn gọi là “Mùa hè đỏ lửa” của Chiến tranh Việt Nam. [9]. Về phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, đây là trận đánh hiệp đồng trong đợt 1 Chiến dịch Nguyễn Huệ (1/4/1972 – 19/4/1973).

An Lộc là một địa bàn chiến lược quan trọng đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa vì là cửa ngõ Tây Bắc ngăn chặn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến về thủ đô Sài Gòn sau khi quận lỵ Lộc Ninh rơi vào tay quân đội VNCH. Quân đội. họ ngày 7 tháng 4 năm 1972.

Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trực tiếp tấn công thị xã An Lộc gồm Sư đoàn 9, 2 trung đoàn pháo binh 28 và 42, 4 tiểu đoàn pháo phòng không.[10] và Tiểu đoàn thiết giáp 20, sau này được tăng cường bởi Tiểu đoàn thiết giáp 21[11]. Tham gia trận đánh vòng ngoài có các Đoàn 5, 7 và Phân đội C30B.

Phòng thủ thị xã An Lộc, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có Sư Đoàn 5 Bộ Binh, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, Lực Lượng Bảo Vệ Nhân Dân và Tỉnh Đội Bình Long. Trong trận đánh, Không lực Hoa Kỳ dùng trực thăng chở thêm hàng ngàn quân VNCH vào An Lộc, đồng thời huy động gần 20.000 quân tìm cách giải tỏa vòng vây bằng các trận đánh dọc Quốc lộ 13. Ngoài ra, Không quân Hoa Kỳ được hỗ trợ bởi gần 1.000 máy bay và trực thăng đủ loại, từ ném bom, vận tải đến thương mại.

 

Quang cảnh trước trận đánh

Tháng 8 năm 1971, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ra Nghị quyết mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên các hướng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị Thiên (chiến dịch Trị Thiên), trong đó Đông Nam Bộ là hướng tiến công. công lý để tiêu diệt một lực lượng quân sự lớn và mở rộng khu vực chiếm được. Chủ trương ở Đông Nam Bộ là đánh lui Quân đoàn III và lực lượng trừ bị của Việt Nam Cộng hòa.

Cuối tháng 2, khi quá trình chuẩn bị đã hoàn tất, Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch Nguyễn Huệ với lực lượng tương đương cấp Quân đoàn.

Trước trận đánh, Quốc lộ 13 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam kiểm soát. Lúc này An Lộc bị cô lập, quân đội VNCH muốn yểm trợ cũng chỉ dùng đường không.[12] Ngày 5 tháng 4 năm 1972, Quân Giải phóng mở chiến dịch Nguyễn Huệ. Ngày 7 tháng 4, Quân Giải phóng làm chủ hoàn toàn quận Lộc Ninh, thọc sâu vào quận Chơn Thành và bao vây thị xã An Lộc.[7]

lực lượng giải phóng quân

Thường trực tại sở chỉ huy còn có: Hoàng Văn Thái, Phạm Hùng, Trần Độ, Hoàng Cầm[13].

Trực tiếp chỉ huy các đơn vị tác chiến tại mặt trận An Lộc là Sư đoàn trưởng Nguyễn Thới Bưng và Sư đoàn trưởng Sư đoàn 5 Bùi Thanh Vân. Trận An Lộc do toàn đội hình Sư đoàn 9 tấn công, nằm trong chiến dịch Nguyễn Huệ.

Lực lượng Quân giải phóng miền Nam cho chiến dịch Nguyễn Huệ được chuẩn bị chu đáo: Sư đoàn 5, 7, 9; Trung đoàn bộ binh 24, 271[14]; Trung đoàn đặc công 429; 2 Trung đoàn 28 và 42 Pháo binh Vùng; 2 tiểu đoàn thiết giáp độc lập 20, 21 và đại đội 33; Đại đội 52 Pháo phòng không tự hành; 4 tiểu đoàn pháo phòng không. Đội hình tấn công An Lộc lúc đầu có trên 10.000 quân, sau tăng lên 15.000 quân (thuộc 40.000 quân của chiến dịch Nguyễn Huệ). Đóng quân phía sau Bộ chỉ huy Miền, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ còn 3 trung đoàn dự bị cuối cùng là 201, 205 và 207, nhưng khi kết thúc chiến dịch chỉ có trung đoàn 205 được điều về tăng cường phòng ngự cho sư đoàn 7. Hỗ trợ cho bộ đội chủ lực có 63 bộ đội địa phương các tỉnh cùng tham gia chiến đấu, nhưng sự tham gia của du kích khá hạn chế do chiến trường chủ yếu diễn ra ở đô thị. Lực lượng này đóng vai trò nòng cốt trong công tác hậu cần, trinh sát cho lực lượng chủ lực, một số đơn vị địa phương khác tham gia sơ tán dân.

Tổng quân số Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại khu vực xung quanh An Lộc được Mỹ ước tính là 35.470 người, trong đó có khoảng 15.000 người trực tiếp tấn công An Lộc:[15][cần số trang]

Khi chỉ huy chiến dịch Nguyễn Huệ có nhiều ý kiến ​​về cách đánh khác hiệu quả hơn để đuổi địch ra khỏi An Lộc càng nhanh càng tốt. Theo tướng Trần Văn Trà, ông đề xuất ý kiến ​​đánh thẳng vào Chơn Thành, loại An Lộc ra khỏi mục tiêu tác chiến; mất Chơn Thành, QLVNCH ở An Lộc phải tự rút lui. Ý tưởng này đã bị từ chối vì nó quá mạo hiểm.

Quân Đội Hoa Kỳ – VNCH

Lực lượng phòng thủ An Lộc lúc đầu gồm có: Liên đoàn 3 BĐQ, 3 trung đoàn 8, 7 và 52 bộ binh. Tổng cộng khoảng 7.500 quân. Trong trận đánh, được tăng cường thêm 25.000 quân, trong đó một phần tiếp tế cho nội thành An Lộc.

Quân đội Hoa Kỳ hầu như không có quân trên bộ mà chủ yếu sử dụng Lực lượng Không quân Hoa Kỳ để hỗ trợ hỏa lực. Trong chiến dịch, Mỹ huy động hơn 1.000 máy bay và trực thăng các loại, thực hiện 12.115 phi vụ ném bom, 6.473 phi vụ trực thăng và 268 phi vụ rải thảm B-52, thả hơn 40.000 tấn bom các loại.

Trước Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Quân đội Mỹ – Việt Nam Cộng hòa có nhiều lợi thế: bộ binh phòng ngự trong đô thị nên có lợi thế về địa hình, lợi thế về trang bị với sự hỗ trợ đắc lực của lục quân. Lực lượng Không quân Hoa Kỳ.

Ghi chú

  1. ^ Andrew Wiest, chủ biên. Lâm Quang Thi. Tiếng Sấm Rền Trong Vùng Đất Nhẹ Nhàng. Chương 6. Oxford: Nhà xuất bản Osprey, 2006
  2. ^ Có một “Điện Biên Phủ trên không” ở An Lộc, báo Quân đội nhân dân, 29/12/2012
  3. ^ “Địa Ngục An Lộc”. sách Google. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2018.
  4. ^ Hồ sơ của Cục Quân y: Chiến dịch Nguyễn Huệ 4/1972 – 1/1973: 13.412 thương binh chiếm 26,83% quân số; trong đó đợt 1 là 6.214, chiếm 13,42% quân số. Tổng số tử vong do cháy toàn chiến dịch được ghi nhận là 3.961 chiếm 7,92% quân số
  5. ^ Một b Thi, Lâm Quang (2009). Địa Ngục An Lộc: Trận Phục Sinh 1972 và Trận Chiến Cứu Miền Nam Việt Nam. Nhà xuất bản Đại học Bắc Texas. P. 187. ISBN 9781574412765.
  6. ^ https://books.google.com/book
  7. ^ Một b http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Buc-thu-gui-tu-ben-kia-chien-tuyen-340599/
  8. ^ An Lộc là tỉnh lỵ của tỉnh Bình Long thời Việt Nam Cộng hòa, nay là thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước
  9. ^ Đợt 1 là cuộc tấn công vào Quảng Trị và Thừa Thiên thuộc Quân Khu I Việt Nam Cộng Hòa vào hạ tuần tháng Ba. Giai đoạn 2 là mở mặt trận Bình Long tại Quân khu 3 vào tuần đầu tiên của tháng 4. Và giai đoạn thứ ba là cuộc tấn công. Kontum và Pleiku trên Tây Nguyên của Quân khu 2 vào giữa tháng 4 theo chiến thuật “đốt pha”. – Andrew Wiest, chủ biên. Lâm Quang Thi. Tiếng Sấm Rền Trong Vùng Đất Nhẹ Nhàng. Chương 6. Oxford: Nhà xuất bản Osprey, 2006
  10. ^ Nguồn: Bách Khoa Toàn Thư Quân Sự 2004
  11. ^ Nguồn: Lịch sử Binh chủng Tăng Thiết giáp Quân giải phóng miền Nam và Quân khu 7
  12. ^ Hồi Ký Đời Quân Chương V của tác giả Thượng Tướng Nguyễn Thế Trị
  13. ^ Bộ Chỉ Huy Miền-Hồ Sĩ Thành, Trần Thị Nhung-NXB Trẻ
  14. ^ Trong quá trình thực hiện chiến dịch, các đoàn 24 và 271 tổ chức thành đoàn C30B hay còn gọi là Đoàn Bình Long.
  15. ^ Nguồn: Thiếu tướng James F. Hollingsworth, “Cộng sản xâm lược vùng III quân sự,” tường thuật chưa xuất bản, 1972. (Microfiche Reel 44, University Publications of America: Records off Military Assistance Command, Vietnam.)

liện kết ngoại

Tiếng Anh

Ngôn ngữ tiếng Việt


donvithamdu

Với nhưng Logo trên là những Đơn Vị tham chiến tại An Lộc

nvminh

CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972 – Phần 1

Đây là cuốn sử liệu sưu tầm trên mạng . Bản quyền thuộc về các tác giả có tên phía dưới.

Những chiến hữu và thân hữu có tên dưới đây đều có chung một Hoài Bão, bảo một Ý Chí, và một Tâm Niệm như nhau, trong công cuộc hình thành quyển sử liệu CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972 nầy.

Chúng tôi, với tình huynh đệ chi binh, không nêu tên theo cấp bậc cũng như vai trò trong Ban Biên Soạn mà chỉ nêu tên theo tuổi tác.

• Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường
• Trung Tá Trần Văn Tính
• Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh
• Đại Úy Lê Hoàng Ân
• Bà Lê Thị Kim Liễu, Đại học Rice, Houston

Tâm Thư của Trung Tướng NGUYỄN VĂN MINH. Nguyên Tư Lệnh Quân Đoàn 3/Quân Khu III.

Tôi sống ẩn dật trên đất Mỹ đã trên 30 năm, tuổi đời đã gần 80, bỗng nhiên nhận được bức tâm thư của nhóm anh em Quân Nhân thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà hiện cư ngụ tại Tiểu Bang Texas, gửi cho tôi, để hỏi ý kiến về việc thực hiện cuốn sách “Trận Chiến Thắng An Lộc năm 1972”.

Đọc xong bức Tâm Thư, lòng tôi rất bồi hồi, tưởng nhớ lại những chuyện xảy ra xa xưa trong cuộc đời Binh Nghiệp của mình, nhất là Trận An Lộc, tinh thần và ký ức phấn chấn trở lại, sau bao nhiêu năm tháng, ngỡ như mọi sự việc đã được vùi sâu tận cõi lòng của một con Người đang sống lưu vong, tha hương từ lâu nay rồi.

Đọc nội dung bức Tâm Thư, cá nhân tôi rất cảm kích tinh thần bất vụ lợi, mang đầy ý nghĩa cao cả, hy sinh cho đại cuộc, của nhóm Anh Em Quân Nhân tại Texas, với hoài bảo là làm sáng tỏ Chính Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc, nhất là cuộc chiến đấu kiên trì và oai hùng của tất cả Quân Dân Cán Chính Tỉnh Bình Long vào năm 1972, để lưu truyền lại cho các Thế Hệ con cháu mai sau.

Từ đó tôi vội vàng moi trí nhớ, lục lại được một số giấy tờ và sách báo của những thông tin Việt, Pháp, từ năm 1972 đã viết và khen ngợi Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà có tham dự trong trận chiến An Lộc, đã kiên trì và anh dũng đánh bại 4 Sư Đoàn quân Cộng Sản phương Bắc vào năm 1972, mà tôi còn lưu trữ, và liền gửi những tài liệu có liên quan đến Trận An Lộc, cho người đại diện theo địa chỉ ghi trong Bức Tâm Thư, kèm theo đôi dòng ca ngợi và khuyến khích.

Tôi thành thật cám ơn tất cả các anh em đã hỏi ý kiến của tôi, và cầu chúc các Anh Em trong nhóm chủ trương biên tập, vượt qua mọi trở ngại khó khăn, để đạt đến mục tiêu cuối cùng, đúng theo như ý nghĩa của Bức Tâm Thư, và mong rằng có nhiều Quân Nhân cũng như các Công Dân Việt Nam Cộng Hòa khác, những ai đã từng chiến đấu hay chứng kiến suốt 93 ngày đêm, trong nội ngoại vi Tỉnh Bình Long, nên nhiệt tình hưởng ứng lời kêu gọi đầy ý nghĩa chính đáng này, của nhóm Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tại Tiểu Bang Texas.

Chúc Anh Em Thành Công Trọn Vẹn.

Ngày 10 tháng 11 năm 2006

Trung Tướng Nguyên Văn Minh
Cựu Tư Lệnh Quân Đoàn 3/Quân Khu III

Huy Hiệu Của Các Đơn Vị
VIỆT NAM CỘNG HOÀ
Có Tham Chiến và Yểm Trợ
Cho Chiến Trường AN LỘC 1972

CHƯƠNG 1 – TÀI LIỆU THAM KHẢO

A- TÀI LIỆU ĐƯỢC GIẢI MẬT VỀ CHIẾN TRANH VIỆT- NAM VÀ CÁC SÁCH BẰNG TIẾNG MỸ

* COMBINED ARMS RESEARCH LIBRARY (tài liệu này được giảng dậy tại Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp của Quân Đội Hoa Kỳ, Fort Leavenworth)
* A BETTER WAR (The Unexamined Victories and Final Tragedy of America’s last years in Viet Nam) của tác giả Lewis Sorley : giáo sư của Trường West Point và Trường Đại Học Chiến Tranh Bộ Binh, đồng thời thuộc Ban Tham Mưu của Bộ Quốc Phòng. Sau đó ông trở thành công chức cao cấp của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương.
* AMERICAN’S LAST VIETNAM BATTLE của Dale Andradé
* THE EYEWITNESS HISTORY OF THE VIETNAM WAR 1961-1972 của GEORGE ESPER (THE ASSOCIATED PRESS)
* THE VIETNAM WAR DAY BY DAY của JOHN BROWMAN
* AFTER ACTION REPORT, “THE BATTLE OF LOC- NINH” của Thiếu Tá Mark Smith (cố vấn của Trung Đoàn 9 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà tại Lộc Ninh năm 1972)
* THE BATTLE OF AN LOC của tác giả James H. Will- banks, cố vấn của Chiến Đoàn 52, Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà tại An Lộc năm 1972

B- TÀI LIỆU VÀ NHỮNG SÁCH BẰNG TIẾNG VIỆT

* Nhật Ký Hành Quân của Quân Đoàn 3/Quân Khu III ghi về Trận Chiến An Lộc năm 1972 :
• Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 Quân Khu III kiêm Tư Lệnh Chiến Trường An Lộc
• Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh, Phụ Tá Hành Quân Tư Lệnh đặc trách Chiến Trường Ngoại Biên và An Lộc
• Trung Tá Huỳnh Văn Bé, Trung Tâm Trưởng Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn 3/Quân Khu III
* TRUNG ĐOÀN 8 BỘ BINH VÀ TRẬN CHIẾN AN LỘC của Chuẩn Tướng MẠCH VĂN TRƯỚNG, Nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh, cựu Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 Sư Đoàn 5 Bộ Binh
* THIÊN ANH HÙNG CA QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ của Phạm Phong Dinh (về Sư Đoàn 18 Bộ Binh, tác giả trích từ cuốn băng cassette của Tướng Lê Minh Đảo gửi cho tác giả).
* AN LỘC ANH DŨNG của nhà xuất bản Đại Nam phát hành năm 1972
* VIỆT NAM THÔNG TẤN XÃ (các bản tin liên quan tới Trận AN LỘC và trích bản của sách báo ngoại quốc ca tụng về Trận AN LỘC)
* LỮ ĐOÀN 1 NHẨY DÙ của Vương Hồng Anh
* AN LỘC – MÙA HÈ ĐỎ LỬA của Phan Nhật Nam
* Tưởng niệm 30 tháng 04 : tử chiến với Cộng Quân trước giờ G do Vương Hồng Anh tổng hợp trích trong bản tin Việt Báo ngày 30 tháng 04 năm 2004 (Mục Tham Khảo)
* “Mẹ Viêt Nam ơi, dân ta có tộI tình gì” của tác giả Pierre Darcourt, do Dương Hiếu Nghĩa dịch thuật, trích trong Đặc San “Thế Giới” tháng 05 năm 2004, trang 22, chương XIII.
* Hồi ký của Thượng Tướng Cộng Sản Bắc Việt Hoàng Cầm : ”Chặng Đường Mười Nghìn Ngày”.

C- CÁC MẠNG LƯỚI TOÀN CẦU:

* BIỆT ĐỘNG QUÂN QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ
* BIỆT CÁCH DÙ VÀ LỰC LƯỢNG ĐẶC BIỆT QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ
* WEBSITES của Viện Đại Học Rice, Houston, Texas : những bài liên quan đến trận chiến An Lộc và cuộc chiến tranh Việt Nam do bà Lê Thị Kiêm Liễu sưu khảo và biên soạn.
* WEBSITE “VIỆT NAM LỊCH SỬ 1954-1975”
* 362avnco.com.anloc1.html
* freevb.org/qlvnch/Jennifer/anloc_e1.html

D- TÀI LIỆU CỦA NHỮNG NHÂN CHỨNG SỐNG đã từng trực tiếp chiến đấu hoặc có mặt tại An Lộc trong thời gian cuộc chiến, hiện đang có mặt tại Tiểu Bang TEXAS, CALIFORNIA và tại các tiểu bang khác trên đất nước Hoa Kỳ cũng như đang cư ngụ tại Pháp, Úc, Canada và các nước tự do khác trên thế giới, v.v… gửi về cho Ban Biên Soạn ở Tiểu Bang TEXAS, Hoa Kỳ.
CHƯƠNG 2 – BỐI CẢNH MÙA HÈ ĐỎ LỬA

MÙA HÈ ĐỎ LỬA, một mùa hè thời gian dài như thế kỷ đối với người dân cũng như người Chiến Sĩ thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trong năm 1972. Mùa Hè Đỏ Lửa, bắt đầu vào ngày 30 tháng 03 năm 1972, khi Quân Cộng Sản Bắc Việt xua toàn bộ 14 Sư Đoàn quân chính quy, khoảng 120,000 quân Bộ chiến + 1200 chiến xa đủ loại, chia làm 3 mũi tấn công vào lãnh thổ nước Việt Nam Cộng Hoà của chúng ta tại BA mặt trận : QUẢNG TRỊ (30 Tháng 03); KONTUM (14 Tháng 04), và AN LỘC, TỈNH BÌNH LONG (05 Tháng 04 năm 1972). (1)

Chú thích (1) :
“Thiết Giáp! The Battle of An Lộc, April 1972”, tác giả Trung Tá James H. Willbanks. Combined Arms Research Li- brary (Command and General Staff College). Đề mục The North Vietnamese Strategy trang 8-10/64.

Kết cuộc là Quân Cộng Sản Bắc Việt đã bị QUÂN DÂN VIỆT NAM CỘNG HOÀ anh dũng đánh lui toàn bộ. Địch quân đành phải chịu ngậm đắng nuốt cay, rút lui và phải để lại chiến trường hơn 2/3 nhân mạng tử vong, bị thương, và hầu như toàn bộ chiến cụ nặng như Chiến Xa T.54, PT.76, các chiến xa cơ động phòng không, các khẩu pháo tầm xa 130 ly, và các giàn phóng hoả tiễn 107 ly và 122 ly, bị huỷ diệt (xem bản đồ 1).

Tại lãnh thổ Quân Đoàn 3/Quân Khu III (Việt Nam Cộng Hoà), Cộng quân tung 4 Sư Đoàn gọi là Công Trường (C.T.) như Công Trường 5, Công Trường 7, Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt và Công Trường Bình Long tân lập của Cục R. Từ biên giới Cambodia, quân Cộng Sản Bắc Việt ồ ạt tấn công vào thị xã nhỏ bé An Lộc, một thị xã có khoảng 20,000 dân trên một diện tích khoảng 4 cây số vuông bên trong lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà. Địa danh An Lộc là thị xã của tỉnh lỵ Bình Long với tổng số khoảng 45,000 dân, trên diện tích khoảng 2,240 cây số vuông, Bắc và Tây giáp ranh nước Cambodia, Đông giáp ranh Tỉnh Phước Long (Việt Nam Cộng Hoà), Nam giáp ranh Tỉnh Bình Dương (Việt Nam Cộng Hoà), Tây Nam giáp ranh Tỉnh Tây Ninh (Việt Nam Cộng Hoà), Nằm dọc theo Quốc Lộ 13, từ ranh giới nước Việt Nam Cộng Hoà và nước Cambodia, với những rừng cây cao su ngút ngàn, và vài ngọn đồi thoai thoải chung quanh thị trấn: Đồi 100 về hướng Tây, Đồi Đồng Long về hướng Bắc, Đồi Gió và Đồi 169 về Đông Nam. Đó là những cao thế địa hình dùng làm các cứ điểm quân sự rất thuận lợi trong việc phòng thủ bảo vệ Thị xã AN LỘC. Thị xã An Lộc chỉ cách Thủ Đô SÀI GÒN 100 cây số về hướng Bắc. Mục đích của địch là tạo áp lực quân sự trước cửa ngõ Thủ đô nước Việt Nam Cộng Hoà (Sài Gòn), và ra mắt Chính phủ của cái gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” (là công cụ bù nhìn của Cộng Sản Bắc Việt đẻ ra), đồng thời để hổ trợ cho hoà đàm Ba Lê đang hồi kết thúc.

Từ ngày 01 đến ngày 03 tháng 04 năm 1972, địch mở màn bằng các trận đánh dương Đông kích Tây trên Quốc Lộ 22 phía Bắc tỉnh Tây Ninh, và đã tung vào trận chiến đơn vị C30B, gồm 2 Trung Đoàn là Trung Đoàn 24 địa phương và Trung Đoàn 271 của Công Trường 9, 2 tiểu đoàn đặc công, và 1 đơn vị thiết giáp (gồm 6 chiếc M.41 và M.113 chiến lợi phẩm chiếm được của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà),và 1 tiểu đoàn súng cối và phòng không 12 ly 8, mục đích để cầm chân Sư Đoàn 25 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đang có trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ Tình/Tiểu Khu Tây Ninh, Hậu Nghĩa và Long An, tạo THẾ NGHI BINH (Tây Ninh là DIỆN) nhưng ĐIỂM là Bình Long (AN LỘC).

Mặt trận An Lộc được khởi diễn vào đêm 04 rạng 05 tháng 04 năm 1972 khi Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt xuất phát từ biên giới Cambodia xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà tấn công quận lỵ Lộc Ninh thuộc tỉnh Bình Long, rồi đến Tỉnh Lỵ Bình Long ( An Lộc ) cho đến :

* ngày 07 tháng 07 năm 1972 là ngày được xem như kết thúc trận chiến, là ngày toàn thắng của Quân, Dân, Cán, Chính Việt Nam Cộng Hoà tại An Lộc Bình Long, sau 93 ngày đêm tử thủ,

* ngày mà cả 4 Công Trường quân Cộng Sản Bắc Việt bị Quân Dân tỉnh Bình Long đánh tan nát, gây kiệt quệ cả về tinh thần lẫn khả năng tác chiến, và buộc phải âm thầm rút lui trong tủi nhục ra khỏi trận chiến, với sự thiệt hại thật nặng nề, về nhân mạng cũng như quân dụng ( khoảng 70 đến 80 % quân số và chiến cụ nặng Chiến Xa T.54 + PT.76 + các xe Thiết Giáp Phòng Không di động + đại bác tầm xa 130 ly + các giàn phóng hoả tiễn 122 và 107 ly bị phá huỷ), do sự phối hợp chiến đấu oai hùng của Quân Dân Cán Chính tỉnh Bình Long chiến đấu trên diện địa, với sự yểm trợ của Không Quân Hoa Kỳ và Việt Nam oanh kích và oanh tạc trên các lộ trình tiến công của địch,

* ngày mà toàn thể Quân Dân Cán Chính tử thủ Bình Long đón chào vị Nguyên Thủ Quốc Gia kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Đội, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, cùng phái đoàn đáp trực thăng xuống An Lộc để ủy lạo và tưởng thưởng cho những Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà hữu công và an ủi thăm hỏi dân chúng tỉnh Bình Long, trong lúc vẫn còn tiếng pháo kích của Cộng quân vào thành phố. Tổng Thống và phái đoàn đã nhìn tận mắt một Thị Xã nhỏ bé với diện tích khoảng 4 cây số vuông bị đổ nát bởi trên 200 ngàn quả pháo đủ loại trên mặt đất, xen lẫn mùi thuốc súng và mùi hôi thối của xác chết xông lên, của khoảng 8 ngàn thường dân vô tội và chiến binh tử vong trong những cơn mưa pháo của địch quân vào thị xã này.

* ngày mà tất cả các vị có mặt trong phái đoàn tháp tùng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gồm nhiều vị Tướng Lãnh Việt, Pháp, vào ủy lạo Quân, Dân, Cán, Chính tại mặt trận An Lộc, đã chứng kiến tận mắt chiến tích oai hùng này. Sự chiến đấu kiên trì của Quân Dân tỉnh Bình Long đã giáng trả cho đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt một trận để đời. Kết quả của trận chiến An Lộc thật
là kỳ diệu đã làm đảo ngược những tiên đoán của các nhà quân sự và các giới quan sát Tây Phương có mặt tại Sài Gòn trong thời gian đó. Tướng Vanuxem của Pháp, người từng tham gia trong cuộc chiến Việt Nam, từng là Tư Lệnh Quân Khu Tả Ngạn sông Hồng Bắc Việt trước năm 1954, đã ví trận chiến An Lộc như một Điện Biên Phủ thứ nhì, một trận chiến quyết định tại An Lộc cho Hoà Đàm Ba Lê tương tự như trận Điện Biên Phủ đã quyết định cho Hoà Đàm Genève năm 1954. Lịch sử đã không tái diễn như vậy; lần này Tướng Vanuxem cùng giới quan sát quốc tế rất đổi ngạc nhiên trước một kỳ công to tát của toàn quân và toàn dân Việt Nam Cộng Hoà tại An Lộc, là một chiến tích vĩ đại và điển hình để nói lên tinh thần chiến đấu hào hùng kiên cường bất khuất bằng quyết tâm chống Cộng Sản để bảo vệ lý tưởng Tự Do Dân Chủ cho Miền Nam Việt Nam. Trận chiến An Lộc, một trận chiến lẫy lừng về trình độ tác chiến phòng ngự, đã đi vào quân sử một cách vẻ vang, đã làm rạng danh người Chiến Sĩ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trong công cuộc chiến đấu bảo vệ quê cha Đất Tổ Việt Nam,

* ngày mà vị Lãnh Đạo Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà quỳ trước nghĩa trang Biệt Cách Dù, ngậm ngùi cầu nguyện trước Anh Linh của 68 Chiến Sĩ Biệt Cách Dù và hàng ngàn các chiến sĩ thuộc các quân binh chủng và dân thường vô tội khác, đã bỏ mình vì Đại Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc trong suốt 93 ngày đêm chiến đấu thề quyết tâm tử thủ không ngừng nghỉ tại chiến trường An Lộc,

* ngày mà hai câu thơ của cô giáo Pha được đi vào lịch sử của Trận Chiến Thắng An Lộc :

AN LỘC ĐỊA, SỬ GHI CHIẾN TÍCH
BIỆT CÁCH DÙ VỊ QUỐC VONG THÂN

Chiến thắng An Lộc năm 1972 đã tượng hình từ năm 1971 sau những cuộc hành quân Toàn Thắng của Quân Khu III do cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí phát động, dự định đổ quân lên Kratié (một quận lỵ của nước Cambodia) để tiêu diệt Cục R, bản doanh đầu não của cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, đồng thời là căn cứ hậu cần của quân Cộng Sản Bắc Việt xâm nhập vào Miền Nam lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà. Nhưng không may, Đại Tướng Đỗ Cao Trí phải đền xong nợ nước vì lý do chiếc trực thăng chở ông bị nổ tung khi vừa mới cất cánh tại Tây Ninh, đến bây giờ cũng không ai biết đích xác về nguyên nhân gây ra tai nạn này.

Trung Tướng Nguyễn Văn Minh được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định thay thế người tiền nhiệm tài ba và đầy lòng yêu nước đó.

Trong cái thế chẳng đặng đừng, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh buộc lòng phải có quyết định cho lệnh rút các lực lượng cơ hữu của Quân Đoàn 3 trở về nội địa Việt Nam Cộng Hoà để bảo toàn lực lượng, hoàn tất vào ngày 31 tháng 05 năm 1971.

Việc rút đoàn quân trên 2 Sư Đoàn (Sư Đoàn 18 Bộ Binh + 2 Liên Đoàn Biệt Động Quân + Trung Đoàn 8 của Sư Đoàn 5 Bộ Binh + Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ + Liên Đoàn 30 Công Binh Chiến Đấu) về đến nội địa vừa kịp lúc. Nhờ vậy mà khi quân Cộng Sản Bắc Việt mở cuộc tấn công vào lãnh thổ Quân Khu III vào ngày 05 tháng 04 năm 1972, phần lớn lực lượng kể trên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã là thành phần nòng cốt, tương đối đủ khả năng cấp thời để chống trả lại 4 Sư Đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt.

Cuộc rút quân từ chiến trường ngoại biên năm 1971 về nội điạ Việt Nam Cộng Hoà là một cuộc hành quân lui binh đúng lúc trước tình hình biến chuyển ngõ hầu có đủ lực lượng phòng thủ diện địa, nhất là việc phòng thủ An Lộc trong trận chiến năm 1972 khi lực lượng bạn chỉ có một phải chống trả lực lượng địch đông hơn gấp sáu lần, trong khi đó địch có pháo binh và chiến xa yểm trợ trực tiếp, ta không có chiến xa chỉ có các phi vụ B.52 và các phi tuần phản lực của Không Lực Hoa Kỳ và Không Lực Việt Nam Cộng Hoà yểm trợ.

Việc địch quân được biết trước cuộc rút quân là điều tối kỵ của binh pháp và là một chuyện chẳng đặng đừng mà Trung Tướng Nguyễn Văn Minh phải ra lệnh thi hành. Sự kiện này đã gây nhiều ấn tượng sâu sắc trong tâm khảm và cuộc đời binh nghiệp không những cho riêng Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, mà còn cho tất cả những chiến sĩ liên quan đến Trận Chiến An Lộc.( xem bản đồ số 1)

CHƯƠNG 3 – MẶT TRẬN LỘC NINH

1. ĐIỂM LÀ AN LỘC, ĐƯỢC KHỞI ĐẦU BẰNG TRẬN TẤN CHIẾM LỘC NINH

Trận tấn chiếm Lộc Ninh được xem như khởi diễn vào khoảng 17 giờ 45 ngày 04 tháng 04 năm 1972, là trận mở màn cho trận chiến An Lộc, khi đại đội trinh sát của Chiến Đoàn 9 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, chạm trán nặng và bất ngờ với Trung Đoàn E.6 Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt, tại vùng hoạt động 4 cây số, Tây Lộc Ninh. Cả đại đội trinh sát của Chiến Đoàn 9 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, bị địch tràn ngập và tiêu diệt hoàn toàn trong khoảnh khắc, chỉ còn lại một hiệu thính viên mang máy còn sống sót, gọi báo cho Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9, về tình hình chiến xa và bộ binh địch, đang tràn ngập và cận chiến xáp lá cà, với các chiến sĩ trinh sát 9 Việt Nam Cộng Hoà, và đang tiếp tục tiến về hướng Quận Lỵ Lộc Ninh. Người chiến sĩ anh hùng hiệu thính viên, của Đại Đội Trinh Sát, vẫn tiếp tục báo về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9, tình hình những sự di chuyển của địch, cho đến chiều ngày 06 tháng 04, tiếng nói của Người Hiệu Thính Viên quả cảm, im bặt vào khoàng 18 giờ 30. Tại Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 (-) Việt Nam Cộng Hoà, mọi người đều biết tình hình chiến trận bắt đầu trở nên nghiêm trọng. Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 9 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, cùng cố vấn trưởng, và toàn thể các đơn vị trong căn cứ Hoả Lực, kể cả Chi Khu Lộc Ninh, đều ban hành lệnh báo động ứng chiến (2)

Chú thích: (2) After Action Report “The Battle of Loc Ninh” (4-7 April 1972) của tác giả Thiếu Tá Mark Smith, trang 5/13

Lúc 05 giờ 50 sáng ngày 05 tháng 04 năm 1972, mở màn cho cuộc tấn công của chiến dịch mà Cộng Quân được mang tên là “Nguyễn Huệ”, Cộng Quân bắt đầu pháo kích vào Quận Lỵ, để dọn đường cho bộ binh và chiến xa đang xâm nhập vào vùng Quận Lỵ Lộc Ninh.

Đến 06 giờ 00 sáng ngày 05 tháng 04 năm 1972, từ phía Tây và Tây Bắc, Cộng quân tung vào chíến trường Lộc Ninh, Quận Lỵ của Tỉnh Bình Long, khoảng 30 cây số Bắc An Lộc, toàn bộ Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt, gồm có Trung Đoàn 275, Trung Đoàn 174, Trung Đoàn E.6, được tăng cường Trung Đoàn 95C của Công Trường 9, + Trung Đoàn địa phương + đại đội chiến xa trực thuộc trung đoàn 203 Chiến Xa hỗn hợp (T.54, PT.76), tổng cộng 10 chiếc tham chiến + Trung Đoàn phòng không cơ động 271, dưới sự yểm trợ hoả lực của Trung Đoàn Pháo nặng 42D 130 ly (tầm xa 30 cây số) + các giàn phóng hoả tiễn 122 ly và 107 ly. Tổng cộng quân số địch tham dự trận mở màn Lộc Ninh vào khoảng 15,000 cán binh cộng sản (Bộ Binh, Thiết Giáp, Pháo Binh).

Phía lực lượng Việt Nam Cộng Hòa, gồm có các đơn vị : Chiến Đoàn 9 (-) Sư Đoàn 5 Bộ Binh, do Đại Tá Nuyễn Công Vĩnh chỉ huy, Thiết đoàn 1 (-) do Trung Tá Nguyễn Đức Dương chỉ huy, (gồm các Chiến Xa M.41 + Thiết Vận Xa M.113) + Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng, Trung Đội Pháo Binh 105 ly, các đơn vị Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát, trực thuộc Chi Khu Lộc Ninh, chỉ huy bởi Trung Tá Nguyễn Đức Thịnh, Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng Lộc Ninh. Tổng cộng quân số khoảng 3,000 chiến binh Việt Nam Cộng Hoà. (Bộ Binh, Thiết Giáp, Pháo Binh, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân, Cảnh Sát). Như vậy, lực lượng tương quan là 1 chống 5.

Khởi đầu trận đánh, quân Cộng Sản Bắc Việt mở trận mưa pháo vào vị trí đóng quân của Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng, 5 cây số phía Nam lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà (căn cứ hoả lực Alpha) và Thiết Đoàn 1 (-) đóng tại căn cứ dã chiến (căn cứ Hoa Lư vùng ngã ba Lộc Tấn, dọc theo Quốc Lộ 13 từ Bắc xuống Nam), 10 cây số Bắc Lộc Ninh, cùng lúc pháo vào Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 (-) Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, Quận/Chi Khu Lộc Ninh, nơi có các Khẩu Đội 105 ly trú đóng, theo chiến thuật “Bịt Pháo Công Đồn”.

Nhận biết ý đồ của địch, Đại Tá Vĩnh khẩn điện cho Trung Tá Dương cắt bớt một Chi Đoàn gữi trở về cho Chiến Đoàn 9 (-) Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Công Hoà, để phòng thủ Quận Lỵ Lộc Ninh và Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, cấp thời di chuyển về phía Nam Quốc Lộ 13..

Chi Đoàn 3/1 hỗn hợp Chiến Xa và Thiết Vận Xa do Trung Úy Lê Văn Hùng làm Chi Đoàn Trưởng, rời vị trí đơn vị Mẹ trong đêm, nhưng khi chỉ còn cách Quận Lỵ Lộc Ninh 5 cây số về hướng Bắc, bị lọt vào ổ phục kích quân địch, có Chiến xa T.54 và PT.76 trợ chiến, và bị mất liên lạc với Thiết Đoàn 1 cũng như Bộ Chỉ Huy/Chiến Đoàn 9 Việt Nam Cộng Hoà, sau nửa giờ giao tranh.

Trung Tá Nguyễn Đức Dương, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 1 (-) liền báo cáo về cho Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 9 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, đã mất liên lạc với đứa con Chi Đoàn 3/1, nhưng tại Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9, tần số liên lạc bị gián đoạn, vì trong giờ phút đó hầm truyền tin của Chiến Đoàn 9 bị Cộng quân pháo sập, mãi cho đến sáng hôm sau, Đại Tá Vĩnh mới lên tần số, Ông chỉ thị cho Trung Tá Dương rút hết lực lượng còn lại tại ngã ba Lộc Tấn gồm Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn (-)Hỗn Hợp (Chi Đoàn 2/1) + Tiểu Đoàn 2/9 (-) tùng thiết và Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng + 1 khẩu đội Pháo Binh 105 ly, khẩn rút về tăng cường phòng thủ cho Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 và Quận Lỵ Lộc Ninh .

Dọc theo Quốc Lộ 13 xuôi về hướng Nam, khi nhận diện được điểm địch phục kích, mà Chi Đoàn 3/1 bị đánh tan vào đêm trước, Thiết Đoàn 1 (-) thình lình khám phá ra ổ phục kích của địch quân, gồm Chiến xa T.54+ PT.76, và hàng ngàn cán binh, đồng loạt hô xung phong, tiến đánh xáp lá cà, với các chiến sĩ tùng thiết (Tiểu Đoàn 2/9), và Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng. Sau hơn 1 giờ chiến đấu quyết liệt một cách anh dũng trước địch quân đông hơn gấp nhiều lần, các chiến sĩ tùng thiết cùng các con ngựa sắt M.41 và M.113 và Tiểu Đoàn 74 Biệt Đông Quân Biên Phòng, đành phải thúc thủ trước các chiến xa T.54 và PT.76 của Cộng quân.

Trung Tá Dương và Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn (-) với 2 Thiết Vận Xa, tung phá vòng vây, vượt được khỏi nơi phục kích khoảng 1 cây số về phía Nam, rồi cũng bị chận đánh, phải bỏ xe mà chạy bộ đến ngày hôm sau,cuối cùng cũng bị Cộng quân chặn bắt cùng với 15 chiến sĩ Thiết Kỵ của Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 1 (-),vào khoảng 11 giờ 00 sáng ngày 07 tháng 04 năm 1972). (3)

Chú thích: (3) Lời tường thuật của nhân chứng sống Trung Tá Nguyễn Đức Dương, Thiết Đoàn TrưởngThiết Đoàn 1/5 và Trung Sĩ Lê Hoàng Long thuộc Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng .

06 giờ 00 sáng ngày 06 tháng 04 năm 1972, Cộng quân gia tăng cường độ pháo kích vào các cứ điểm phòng ngự trong Chi khu Lộc Ninh, hơn 3,000 quả pháo đủ loại thi đua nhau nổ trên trận tuyến, bất kể là Quân hay Dân sự, rồi từng đợt biển người ồ ạt tấn công vào hai cứ điểm chánh : Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà và Bộ Chỉ Huy Quận/ Chi Khu Lộc Ninh .

A.- Tại Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 Sư Đoàn 5 Bộ Binh chỉ còn lại Tiểu Đoàn 3/9 + 1 Đại Đội của Tiểu Đoàn 2/9 + thành phần của Pháo Đội 105 ly (còn sử dụng được 6 khẩu), đôi khi phải hạ nòng bắn trực xạ vào Chiến Xa và Bộ binh địch, đang áp dụng chiến thuật xung phong biển người cận kề trước tuyến phòng thủ. Các chiến sĩ Chiến Đoàn 9 và Pháo Đội Pháo Binh, đã đẩy lui nhiều đợt xung phong của Bộ Binh địch có chiến xa T.54 và PT.76 yểm trợ. Trận chiến kéo dài đến chiều tối, Quân Bạn càng lúc càng ít đi vì bị thương và tử trận trên chiến tuyến, còn địch, càng lúc càng đông, cho đến khi phòng tuyến phía Bắc và Đông Bắc bị Cộng quân tràn ngập, Đại Tá Vĩnh cùng Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, các cố vấn Mỹ và một số anh em của Pháo Đội Pháo Binh, sau khi phá hủy hết các các khẩu đại pháo, rút ra khỏi vị trí phòng thủ, đồng thời nhờ Đại Uý Mark Smith, cố vấn Mỹ, gọi các phi tuần phản lực Hoa Kỳ đánh bom Napalm thiêu gọn bọn quỷ đỏ đang tràn ngập căn cứ. Cố vấn trưởng Trung Tá Richard Schott, vì bị thương nặng biết là không thể chạy được, đã tự sát để cho những người cố vấn khác có cơ hội thoát ra được. (4)

Chú thích: (4) After Action Report “The Battle of Loc Ninh” của Thiếu Tá Mark Smith trang 11/13

Và sau đó, đoàn quân còn lại chưa đầy 100 quân, lần mò trong đêm tối, rút về phía Nam, lại bị địch chận đánh, khiến mọi người bị tản mác thất lạc., Đại Tá Vĩnh cùng một số chiến sĩ còn lại của Chiến Đoàn 9 và vị cố vấn Mỹ duy nhất còn lại là Đại Úy Mark A. Smith, buộc phải buông súng đầu hàng. Riêng Đại Tá Vĩnh, một quân nhân già dặn và can đảm, bị bắt khi mình mẩy và bộ đồ trận trên thân người đẫm đầy máu, vì bị nhiều thương tích trong lúc chiến dấu.

Tần số liên lạc của Chiến Đoàn 9 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, im bặt vào lúc 10 giờ 30 tối đêm 06 tháng 04 năm 1972.

B.- Tại Bộ Chỉ Huy Quận/Chi Khu Lộc Ninh : Sau khi mất liên lạc truyền tin với Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9, ngầm biết Chiến Đoàn 9 đã tan, và sau khi biết lực lượng của Thiết Đoàn 9 (-)và Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng từ phía Bắc rút về đã bị đánh tan,cũng như lực lượng tiếp ứng từ phía Nam bị chận đánh, phải tháo lui trở lại, Trung Tá Thịnh liền họp Bộ Chỉ Huy Chi Khu và cố vấn trưởng, Thiếu Tá Thomas A. Davidson, quyết định phân tán rút lui,lợi dụng trời tối, vượt hàng rào phòng thủ về hướng Nam để vượt thoát vòng vây.

Trung Tá Thịnh là con người có vóc dáng nhỏ, nhanh nhẹn, da ngăm đen, nhưng thật rắn rỏi và kiên cường, sau khi thoát được vòng vây, len lỏi trong rừng sống như đồng bào Thượng, đôi lần gặp mặt Cộng quân, nhưng Trung Tá Thịnh làm bộ trả lời nhiều câu hỏi bằng tiếng Việt không thông, nên bị chúng đuổi đi, vì ngỡ rằng là Người Thiểu Số. Bôn ba lặn lội đầy gian lao khổ cực, cuối cùng cũng về đến An Lộc vài ngày sau đó. Trung Tá Thịnh được trực thăng bốc về Lai Khê, và sau khi nghỉ ngơi, sức khỏe và tinh thần được hồi phục, Trung Tá Thịnh được Trung Tướng NGUYÊN VĂN MINH, Tư LệnhQuân Đoàn3/Quân Khu III, bổ nhiệm làm Quận Trưởng /Chi Khu Trưởng Chi Khu Võ Đắc, thuộc Tỉnh Bình Tuy vào tháng 08 năm 1972. Còn cố vấn trưởng chi khu Thiếu Tá Thomas A. Davidson, chỉ sau đó 4 ngày, đã về đến phía Đông An Lộc, được một đơn vị Biệt Động Quân Việt Nam Cộng Hoà đang án ngữ phía Đông tiếp cứu, vào ngày 10 tháng 04 năm 1972.

Riêng Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng đang trú đóng tại căn cứ hoả lực Alpha (5 cây số phía Nam biên giới Việt Miên) liên tục bị địch quân pháo kích, và gia tăng áp lực tấn công, nên phải âm thầm rút lui trong đêm tối xuôi về phía Nam sau khi đã phá hủy hoàn tòan các khẩu pháo trong căn cứ trong đêm 05- 04-72, và rồi sáp nhập với Thiết Đoàn 1 (-) của Trung Tá Dương cùng di chuyển về Lộc Ninh và sau đó, bị đánh tan giữa đường.

Mặt trận Lộc Ninh kể như chấm dứt sau 48 giờ giao tranh ác liệt, Quân Cộng Sản Bắc Việt đã làm chủ tình hình chiến trận.
(Xem bản đồ số 2)

2. CÂU CHUYỆN SAU TRẬN LỘC NINH

Sau khi làm chủ tình hình tại Quận Lộc Ninh, Cộng quân liền trưng dụng tất cả các xe chở hàng và chở hành khách của dân chúng, ép buộc những tài xế của những xe này phải tuân lệnh chúng, lái xe để chuyên chở tù binh Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ, từ Lộc Ninh về khu đồn điền cao su Mimot, trong nội địa Cambodia và trong chuyến trở lại, chở các cán binh bổ sung cho các đơn vị Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt.

Một trong những tài xế, cũng là chủ nhân của chiếc xe hàng đang hành nghề chuyên chở những bành mủ cao su cho các đồn điền Pháp từ Lộc Ninh về Sài Gòn tên là Nguyễn Văn Nại, 42 tuổi (vào thời điểm năm 1972), là cậu ruột của chiến hữu Không Quân Trần Văn Long,đang hành nghề địa ốc (Broker) tại Austin,TX. Chiến hữu Long kể lạI rằng, khi ông cậu còn sống đã kể lại cho chiến hữu Long nghe, cuộc đào thoát đầy gian truân và nước mắt, của gia đình ông cậu như sau :

Vào các ngày 07 và 08 tháng 04 năm 1972. ông Nại bị Công quân bắt buộc dùng chiếc xe hàng của ông để làm công việc chuyển vận, Ông không bằng lòng lái xe, Cộng quân hăm dọa, đem cả gia đình gồm vợ và 3 con nhỏ, tuổi từ 12 đến 2, ra bắn bỏ, buộc lòng ông Nại phải lái xe cho Cộng quân. Lái từ buổi trưa ngày 07 tháng 04 năm 1972 đến Mimot rồi trở về Lộc Ninh. Đến chiều ngày 08-04-1972. Ông Nại cởi chiếc đồng hồ vàng đeo trên tay, lo lót cho một tên cán bộ Cộng Sản, đặc trách kiểm soát đoàn xe tại bến xe Lộc Ninh, Ông xin phép được về nhà cũng tại Lộc Ninh để thăm gia đình, xem vợ con như thế nào. Ông hứa khi xong, sẽ trở lại lái xe như thường. Tên cán bộ nhìn thấy chiếc đồng hồ vàng, cũng ưng thuận ngay, và dặn dò về nhà xong rồi phải trở lại liền, Ông Nại cám ơn, rồi chạy bộ trở về nhà. Trong lúc đó, gia đình vợ và 3 con của ông cũng đang lo chuẩn bị rời bỏ nơi cư ngụ tại Lộc Ninh, để về Bình Dương. Vợ ông đã móc nối được với một người Thượng trước đây đã giúp cho ông Nại trong việc chuyên chở mủ cao su. Người Thượng này rất thông thuộc đường rừng từ Lộc Ninh về An Lộc, chịu hướng dẫn gia đình ông Nại trốn chạy.

Trời vừa tối, gia đình ông Nại được người Thượng hướng dẫn rời Lộc Ninh băng tắt đường rừng về An Lộc.

Dọc đường, khi băng xuyên qua một con suối, phía trên có cầu bắt ngang, phía trên cầu có nhiều cán binh Cộng Sản di chuyển qua lại, thì bỗng nhiên đứa con trai 2 tuổi ré lên tiếng khóc. Sợ bị bại lộ, ông Nại liền bịt miệng và bóp cổ đứa trẻ, để không thoát ra tiếng khóc, đồng thời thúc dục gia đình vượt qua giòng suối dưới chân cầu. Tay ông bóp cổ người con không biết nặng nhẹ như thế nào mà sau đó ít phút, ông thấy người con buông xuôi hay tay không còn nhúc nhích được nữa, Ông nghĩ rằng đứa con ông đã chết, ông cũng không dám nói với vợ ông.

Đến khi vượt qua cái chỗ nguy hiểm, ông ngừng lại và cùng với mọi người lo cứu cấp đứa trẻ,nhưng cũng vẫn không thấy cử động. Ông đành rơi nước mắt,vác con trên vai, lòng thì thật sự tan nát, cùng mọi người tiếp tục vượt rừng hướng về An Lộc. Sau 3 đêm 2 ngày, gia đình ông Nại cũng về đến được An Lộc.Trên đường di chuyễn, khi dừng chân, ông Nại đặt con xuống bên lề đường, nhưng lại cảm thấy đứa nhỏ đã bắt đầu cử động. Nhìn kỹ lại, thì thấy đứa bé còn sống. Thật là cám ơn Trời Phật, và sau đó gia đình ông Nại theo đoàn dân di tản lội bộ từ Bình Long đến tỉnh Bình Dương. Gia đình ông được tạm cư tại nhà một người bà con tại Tỉnh Bình Dương, sau đó 4 năm ông Nại qua đời, gia đình và đứa bé 2 tuổi (1972) đến nay đã 36 tuổi đã có vợ con và vẫn còn ở tại Tỉnh Bình Dương, Việt Nam.

3. KẾT QUẢ TỔN THẤT ĐÔI BÊN :

ĐỊCH : 2,150 tử trận 2 T.54 + 1 PT.76 bị Pháo Binh Việt Nam Cộng Hoà bắn hạ.

BẠN : 600 tử trận và 2,400 bị địch bắt làm tù binh . Thiết Đoàn 1 (-) gồm 38 Chiến Xa M.41 và Thiết Vận Xa M.113 bị địch chiếm đoạt hay bị địch bắn hạ .

1 Pháo Đội của Căn Cứ Alpha+ Khẩu Đội Pháo Binh của Chiến Đoàn 9 tăng cường (8 khẩu 105 ly và 155 ly, được phá huỷ hoặc bị hư hại).

DÂN CHÚNG : Ước độ 200 chết và 300 bị thương, và một số thường dân bị bắt dẫn về biên giới Miên để làm dân công tải đạn hoặc làm tài xế lái xe vận tải.

4. BÌNH LUẬN TRẬN CHIẾN LỘC NINH

A.- Cộng quân đã thành công trong chiến thuật gọi là bỏ qua tuyến phòng thủ phía trước, như Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng và Thiết Đoàn 1 (-) Kỵ Binh của Việt Nam Cộng Hoà, và huy động nguyên cả Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt + 1 Đại Đội Chiến Xa của Trung Đoàn 203, chĩa mũi dùi chính, chia làm 3 hướng Tây, Bắc và Đông đánh thẳng vào Bộ Chỉ Huy đầu não của Chiến Đoàn 9 Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà và Quận/Chi Khu Lộc Ninh, với quan niệm, tạo áp lực tấn công, tại Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 và Chi Khu Lộc Ninh, thì lực lượng vòng ngoài, sẽ phải co rúm lại (rút về) để tiếp ứng, và vì muốn tiếp ứng kịp thời, thì phải vội vã rút lui, kém đề cao cảnh giác, nên chỉ cần tổ chức một cuộc phục kích cấp Trung đoàn có xe tăng T.54 trợ chiến, là có thể tiêu diệt được đoàn quân bên ngoài rút về tiếp ứng.(Trung Đoàn 95 C Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt đảm trách trận đánh này),Khi cái vỏ bên ngoài bị đánh bể, thì ruột bên trong sẽ không còn ai tiếp ứng phòng vệ, công thêm phải đương đầu với một lực lượng nhiều lần đông hơn, và khí thế mạnh hơn, tất nhiên phải thất thủ hay đầu hàng . (Lộc Ninh thất thủ sớm hơn 3 ngày, chiếu theo ước tính của Bộ Chỉ Huy chiến dịch Miền Cộng Sản Bắc Việt).

B.- Đây là trận đánh mà Cộng quân đã chuẩn bị tương đối dầy đủ, như xây dựng một con lộ ngầm dưới mặt nước của một con suối, ăn thông ngang qua rừng từ Lộc Ninh về biên giới Miên, chính con lộ ngầm này, Cộng quân dùng để di chuyển các chiến lợi phẩm và tù binh Việt Mỹ xuyên qua Miên; Đã gây cho phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà hai cái bất ngờ : 1.- Áp dụng chiến thuật tiền pháo (mưa pháo) hậu xung (biển người), 2.- lần đầu tiên xử dụng chiến xa tại chiến trường Miền Nam cho nên binh sĩ vả kể cả cấp chỉ huy Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, bị mất tinh thần ngay từ giờ phút đầu, khi thấy xe tăng của địch xuất hiện, tại
một nơi mà theo lý thuyết các chiến xa này không thể đến được.

C.- Tham khảo theo tài liệu của một nhân chứng sống, tựa để là After Action Report, the Battle of Lộc Ninh, của cựu Đại Uý cố vấn Mỹ, của Chiến Đoàn 9/Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, Mark Smith viết lại, thì giữa vị Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 9 Việt Nam Cộng Hoà Đại Tá Vĩnh và toán Cố Vấn Mỹ (Trung Tá Richard Schott, Thiếu Tá Albert E. Carlson, Đại Úy Mark A. Smith, Trung Sị Nhất Thường Vụ Howard Lull, Trung Sĩ Kenneth Wallingford có một sự bất đồng sâu đậm trong việc phối hợp điều quân để chống trả quân địch (5)

Chú thích: (5) After Action Report, “The Battle Of Loc Ninh” của Thiếu Tá Mark Smith trang 3/13

D.- Về cái chết oanh liệt của cố vấn trưởng, Trung Tá Schott, đã phải tự sát vì vết thương trên đầu quá nặng, để cho các cố vấn còn lại khỏi phải vướng bận về ông khi trên đường rút lui ra khỏi căn cứ phòng thủ. Tài liệu này còn viết rằng, sau khi toán cố vấn Mỹ rút ra khỏi vị trí, thì Đại Úy Smith còn quay trở lại để định kéo xác Trung Tá Schott, nhưng khi vừa tới nơi đã thấy ba tên Cộng Sản Bắc Việt đang quay quần bên xác chết, tước lon, lột bảng tên và một tên thì đang dùng dao định cắt đầu ngườI chết . Thật là bọn man rợ vô lương tri, cả ngườI chết rồi mà cũng không tha, còn lột lon, lắc đầu.( Theo lời cựu Trung Tá James Willbanks, tác giả quyền The Battle of An Lộc, vào năm 2002. toán Tìm Những Người Mỹ Mất Tích Tại Việt Nam, Lào và Cao Miên, đã tìm thấy hài cốt của Trung Tá Schott tại địa đểm hầm chỉ huy của Chiến Đoàn 9 cũ (thời điểm 1972) bây giờ đã là một khu vườn trồng cây hột điều (6) .

Chú thích: (6) The Battle of An Lộc, James Willbanks, trang 177.
CHƯƠNG 4 – MẶT TRẬN CẦU CẦN LÊ

(15 cây số Bắc An Lộc)
1. DIỄN TIẾN

Theo tin tức tình báo ghi nhận được, sau khi Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt làm chủ tình hình Lộc Ninh, Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Quân Đoàn Cộng Sản Bắc Việt và Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R), di chuyển vào trú đóng trong vùng Lộc Ninh. Còn hậu cần và Cơ Sở Chỉ Huy Chiến Dịch Nguyễn Huệ vẫn còn trú đóng trong vùng đồn điền cao su Mimot gần quốc lộ 7 trên lãnh thổ Cambodia.

Theo lệnh của Hà Nội, tất cả các đơn vị Cộng Sản Bắc Việt tại Mặt Trận Bắc Quân Khu III trong chiến dịch Nguyễn Huệ, phải dứt điểm An Lộc trước ngày 20 tháng 04 năm 1972, để ra mắt cái Chính Phủ bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt, sau khi thành công trong việc tấn chiếm Lộc Ninh, phải tạm dừng quân, để chỉnh đốn hàng ngũ, bổ sung quân số, tái tiếp tế lương thực, đạn dược, nhiên liệu, di tản tù binh Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ trở lui về điểm tiếp nhận hậu cần, v.v…, trước khi tiếp tục tiến về hướng Nam (An Lộc) để tiếp xúc với các cánh quân của Công Trường Bình Long và Công Trường 9 đang có mặt trong vùng, từ 5 đến 10 cây số phía Bắc, và Công Trường 7 đang hình thành tuyến phục kích tại vùng phía Nam An Lộc.

Việc Bổ Sung Quân Số : Cộng quân dùng phương cách di chuyển bằng đường bộ, cả bằng xe vận tải đủ cỡ,kể cả xe hàng dân sự mà chúng trưng dụng, lẫn những xe GMC của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà còn bỏ lại. Chuyến đi thì chở tù binh Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ trong đó có Đại Úy Smith, chuyến về thì chở cán binh bổ sung cho chúng.

Việc Tái Tiếp Tế : Cộng Sản Bắc Việt chủ trương nguồn bổ sung dựa vào chiến lợi phẩm, tịch thu được của quân dân Việt Nam Công Hoà.

a.- Về lương thực, quân Cộng Sản Bắc Việt, cho tìm các nơi có dự trữ gạo của quân dân Việt Nam Cộng Hoà, cho lệnh lục soát trên người từng Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà, kể cả sống hay chết, để tịch thu hết các khẩu phần lương khô, rồi phân phát lại cho tất cả các cán binh Cộng Sản, bất cần đến sự đói no của Quân Dân Việt Nam Cộng Hoà;

b.- vể đạn dược và nhiên liệu: quân Cộng Sản Bắc Việt cho lệnh đi tìm các kho xăng dự trữ của Quân Dân Việt Nam Cộng Hoà, ngay cả trong bình chứa xăng của những chiến xa M.113, M.41 và cả những xe đò chở hành khách, xe chở hàng dân sự, ở những chiếc nào không còn dùng được để châm vào những trang bị cơ giới, cũng như tất cả đạn và vũ khí đủ loại còn sử dụng được nhầt là đạn súng cối 81 ly, Cộng quân sẽ dùng được cho súng cối 82 ly của các đơn vị bộ binh Cộng Sản Bắc Việt.

c.- nhân lực cho việc khuân vác, Cộng quân bắt cả Quân lẫn Dân Việt Nam Cộng Hoà đi làm tạp dịch và khuân vác.

Tất cả công việc này, Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt, phải hấp tấp thực thi cả tuần lễ, mà vẫn chưa hoàn tất, dưới áp lực càng lúc càng đè nặng bởi các vụ oanh tạc, đủ loại, của Không Lực Hoa Kỳ.

Một trung đoàn của Công Trường Bình Long và 1 trung đoàn của Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt đã tổ chức tuyến phục kích dài 3 cây số trên Quốc Lộ.13 hướng lên Lộc Ninh, để chặn đánh Tiểu Đoàn 2 Chiến Đoàn 52 (-) Sư Đoàn 18 Bộ Binh, đang đóng tại Căn Cứ Hoả Lực Cầu Cần Lê, do Trung Tá Nguyễn Bá Thịnh làm Chiến Đoàn Trưởng. Căn Cứ Hoả Lực Cầu Cần Lê, còn có tên là Hùng Tâm, đóng tại vị trí 3 cây số phía Đông cầu Cần Lê, trên Liên Tỉnh Lộ 17. Hai trung đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt, có hai nhiệm vụ chính yếu là chận đánh viện quân của Việt Nam Cộng Hoà từ hướng An Lộc lên tiếp viện và chận bắt các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hoà tháo lui từ Lộc Ninh về An Lộc.

Trận chiến Cầu CẦN LÊ khởi diễn vào sáng sớm ngày 06-04-1972. Khi nhận được lệnh của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, từ Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa chỉ huy, đang có mặt tại An Lộc . Lệnh tức tốc gửi một Tiểu Đoàn lên tăng viện Lộc Ninh – Tiểu Đoàn 2 Chiến Đoàn 52, liền xuất quân đi cứu viện. Xuất phát từ Liên Tỉnh Lộ 17, Tiểu Đoàn 2 Chiến Đoàn 52 vừa ra đến ngã ba Quốc Lộ 13 và Liên Tỉnh Lộ 17, bị 2 Trung Đoàn của Công Trường Bình Long và Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt phục kích chận đánh .

Sau một giờ chống trả mãnh liệt, với sự yểm trợ không ngừng của các khẩu Pháo 105 và 155 ly trong căn cứ hoả lực Hùng Tâm, Tiểu Đoàn 2/52 đã gây cho địch tổn thất thật đáng kể. Mặc dù được Pháo Binh yểm trợ rất đắc lực, Tiểu Đoàn 2/52 vẫn không thể tiến lên được, và trước áp lực địch càng lúc càng gia tăng, vị Tiểu Đoàn Trưởng, gọi máy về cho Trung Tá Thịnh, xin lệnh rút lui trở về căn cứ với sự thiệt hại trung bình.

Khi 2 Trung Đoàn của quân Cộng Sản Bắc Việt khai hoả chận viện, tại ngã ba Liên Tỉnh Lộ 17 và Quốc Lộ, phía Đông căn cứ, cùng lúc căn cứ hoả lực Hùng Tâm bắt đầu bị pháo kích, và thấy địch xuất hiện ở mặt phía Tây và Tây Bắc của căn cứ hoả lực. Như vậy thì cả ba mặt Đông, Tây và TâY Bắc, đều nhận thấy có địch, áp lực càng lúc càng nặng.Để bảo toãn lực lượng, Trung Tá THỊNH khẩn điện về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, trình sự việc lên Tướng Hưng, xin cho rút lui khỏi căn cứ di chuyễn về An Lộc .Nhận được sự chấp thuận của Tướng Hưng vào đêm 07 tháng 04 năm 1972.

Cuộc hành quân triệt thoái của Chiến Đoàn 52 (-) bắt đầu vào sáng ngày 8 tháng 04 năm 1972. Tiểu Đoàn 1 Trung Đoàn 48 (tăng phái cho Chiến Đoàn 52), do Thiếu Tá Nguyễn Yêm, Tiểu Đoàn Trưởng, dẫn đầu, cũng theo Liên Tỉnh Lộ 17 tiến về phía Đông. Trên đường từ Liên Tỉnh Lộ 17 ra Quốc Lộ 13, cánh quân đầu của Tiểu Đoàn 1/48 chạm địch, trong khi đó phía sau là đoàn xe 20 chiếc kéo theo 6 khẩu 105 ly và 4 khẩu 155 ly, và các xe chở đạn dược, đi sau cùng là Tiểu Đoàn 2/52 do Thiếu Tá Nguyễn Văn Dưỡng làm Tiểu Đoàn Trưởng. Cộng quân lại tiến công đánh xáp lá cà với các chiến binh Tiểu Đoàn 1/48, lần này, Cố Vấn Trưởng Chiến Đoàn là Trung Tá Walter D. GINGER, gọi trực thăng võ trang và các phi tuần Phản Lực Cơ Hoa Kỳ đến yểm trợ rất đắc lực.

Cuộc chiến kéo dài đến chiều tối, mà vẫn không vượt qua được khỏi tuyến phục kích của Cộng quân, buộc lòng Trung Tá Thịnh phải cho lệnh lui quân trở về căn cứ hoả lực, để phòng thủ qua đêm, chờ tìm biện pháp cho kế hoạch mới.

Kiểm điểm lại, ta mất 3 khẩu pháo 105 ly. Một số chiến sĩ bị thương và tử trận được mang trở về căn cứ hoả lực. Trung Tá Thịnh khẩn báo tình hình lên Tướng Hưng, nhất là khi thấy một số đông lực lượng Cộng quân đang chuẩn bị dứt điểm Căn Cứ Hoả Lực. Tướng Hưng ra lệnh cho Chiến Đoàn 52 Bộ Binh (-) phá huỷ hết chiến cụ nặng, chỉ còn lại BỘ BINH mà thôi, băng tắt đường rừng về An Lộc càng sớm càng tốt.

Sau khi thi hành lệnh phá huỷ các chiến cụ nặng, gồm các khẩu pháo, đạn dược và tất cả xe cộ, Chiến Đoàn 52 (-) được rảnh tay. Vào lúc 08 giờ sáng ngày 09 tháng 04 năm 1972, Chiến Đoàn 52 (-), tái xuất phát, trực chỉ về An Lộc. Lần này Tiểu Đoàn 1/48, được lãnh ấn tiên phong dẩn đầu đoàn quân, chặng giữa là Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, đoạn hậu thì giao cho Tiểu Đoàn 2/52, có nhiệm vụ làm thế nghi binh, mặt Tây và Tây Bắc (Căn Cứ Hoả Lực), phòng hờ các cánh quân của Cộng Sản Bắc Việt truy kích cắt đứt đoàn quân đang di chuyển. Nói về Tiểu Đoàn 1/48 khai thông đường máu, đánh tan cánh quân địch trên Liên Tỉnh Lộ 17, thừa thắng xông lên quét tan một đơn vị khác của địch trên Quốc Lộ 13, rồi trực chỉ về phía Nam hướng An Lộc. Khi được tin Tiểu Đoàn 1/48 phá vỡ tuyến phục kích đầu, Tiểu Đoàn 2/52 liền rời vị trí Căn Cứ Hoả Lực di chuyển tiếp nối với đoàn quân bạn đang trên lộ trình ép về phía Đông ven rừng.

Sau khi được báo động Chiến Đoàn 52 (-), đột phá vòng vây, rút lui, các cánh quân Cộng Sản Bắc Việt liền tập trung truy kích, trung đoàn của Công Trường Bình Long bọc chận đầu Tiểu Đoàn 1/48 còn 1 đơn vị khác của Cộng Sản Bắc Việt rượt đuổi kịp và xáp chiến với Tiểu Đoàn 2/52 đang bảo vệ đoạn hậu. Một trận thư hùng đánh xáp lá cà được diễn ra ác liệt. Cố Vấn Mỹ điều động các trực thăng võ trang tác xạ rất chính xác vào các đơn vị Cộng quân đang bao vây ngăn cản đường rút quân của Chiến Đoàn 52 (-). Mặc dầu bị chặn lại giữa đường, nhưng Chiến Đoàn 52 (-) vẫn còn giữ được đội hình, đánh bật Cộng quân ra ngoài. Cuộc chạm trán nẩy lửa này được diễn ra suốt một ngày một đêm. Các Cố vấn Mỹ rất tận tình gọi không quân yểm trợ quân Bạn. Ban ngày thì được các phi tuần phản lực đánh bom Napalm và oanh kích, ban đêm thì có RỒNG GIÀ AC.130 (Spectre Gunship) bao vùng . Đại Úy Cố Vấn Mỹ tên Zumwalt bị miểng của quả B.40 văng trúng mặt, thương tích trầm trọng. Cố Vấn Trưởng, Trung Tá Ginger, xin trực thăng tản thương, giữa các lằn đạn cận kề tại chiến trận, trực thăng vừa đáp xuống để tản thương Đại Uý Zumwalt và một số chiến binh Việt Nam Cộng Hoà bị thương nặng, liền bị ngay một tràng AK.47 bắn bừa lên trực thăng gây tử thương cho một sĩ quan phi hành tên Robert L. Hors và một y tá trên chiếc trực thăng có sơn dấu hồng thập tự đỏ . Trực thăng vẫn được cất cánh an toàn, mặc dù bị thủng nhiều lỗ đạn, nhờ còn viên phi công chánh là Đại Uý John B. Whitehead thuộc Tiểu Đoàn 229 Trực Thăng Xung Kích Hoa Kỳ điều khiển chiếc trực thăng ra khỏi vùng nguy hiểm (7) .

Bật mí:  Bộ 25+ tranh tô màu Bảo Vệ Môi Trường đẹp nhất cho bé mới nhất

Chú thích: (7) “Thiết Giáp ! The Battle of An Loc”, tác giả Trung Tá James H. Willbanks, trang 19/64

Rồi đến Trung Tá Trung Đoàn Phó Chiến Đoàn 52 (-), Hoàng Văn Hiến và Trung Tá Cố Vấn Trưởng Ginger cùng Trung Sĩ Nhất Winland cũng bị thương, trong khi hướng dẫn các phi tuần phản lực, oanh kích Cộng quân. Mặc dù cả toàn ban Cố Vấn Hoa Kỳ đều đã bị thương tích, Trung Tá Ginger vẫn không gọi trực thăng tản thương rời đơn vị Chiến Đoàn 52 (-).Ông đã ở lại chiến trường, và tận tình hướng dẫn không quân Hoa Kỳ oanh kích, địch quân chết hàng đoàn trong những đợt tập trung xung phong biển người. Thật đáng ca tụng và khen ngợi tinh thần trách nhiệm của toàn thể toán Cố Vấn của Chiến Đoàn 52 (-) Sư Đoàn 18 Bộ Binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà. Mãi hai ngày sau khi Chiến Đoàn 52 (-), đột phá được vòng vây, đến gần An Lộc, thấy đã có được sự an toàn cho đoàn binh lui quân, Trung Tá Ginger mới chịu gọi trực thăng đến tản thương, về Bệnh Viện 3 Dã Chiến Hoa Kỳ tại Sài Gòn để chăm sóc vết thương đã có từ hai ngày trước.

Trận chiến được xem như ác liệt và đẫm máu. Tiểu Đoàn 1/48 do Thiếu Tá Nguyễn Yêm, Tiểu Đoàn Trưởng, tả xung hữu đột, như Triệu Tử Long trong trận Tương Dương Trường Bảng thời Tam Quốc Chiến vậy. Cuộc chiến đấu trong thế lui quân kéo dài suốt 2 ngày. Nhờ sự chỉ huy tài ba của Trung Tá Thịnh, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 52 (-) và sự tận tình trợ lực của toán Cố Vấn Hoa Kỳ và tất cả các Chiến Sĩ dũng cảm, gan lỳ của Chiến Đoàn 52 (-), cuối cùng đơn vị này cũng về được đến An Lộc vào buổi sáng ngày 11 tháng 04 năm 1972. Chiến Đoàn 52 (-), mặc dầu bị xáp chiến nhiều lần, nhưng vẫn còn giữ được gần 1/2 quân nhân các cấp trên tổng số 1,000 khi khởi phát đến trấn đóng tại Căn Cứ Hoả Lực Hùng Tâm. Riêng Trung Tá Trung Đoàn Phó Hoàng Văn Hiến chẳng may bị mất máu quá nhiều trên đường di chuyễn, đã trút hơi thở cuối cùng trước khi về đến An Lộc.

Tương quan lực lượng của trận cầu CẦN LÊ được ghi nhận như sau :

ĐỊCH : Công Trường Bình Long Cộng Sản Bắc Việt gồm có 3 Trung Đoàn bộ chiến : Trung Đoàn Thép, Trung Đoàn Đồng Nai, và Trung Đoàn Phước Long. Tại mặt trận Cầu Cần Lê địch chỉ sử dụng có hai trung đoàn : Trung Đoàn Thép của Công Trường Bình Long và 1 Trung Đoàn của Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt, tổng cộng tham dự trận đánh có khoảng 4,400 cán binh bộ chiến, chưa kể Sư Đoàn Pháo 69 yểm trợ hoả lực .

BẠN : Chiến Đoàn 52 (-) = 900 chiến sĩ + Pháo Đội Pháo Binh hổn hợp = 100. Tổng cộng : 1,000 Binh Sĩ.

SO SÁNH THỰC LỰC : 1 chống 4. Có một đơn vị Không Lực Hoa Kỳ yểm trợ : Tiểu Đoàn 229 Trực Thăng Xung Kích.

2. TỔN THẤT ĐÔI BÊN

ĐỊCH : khoảng 3,200 bị loại khỏi vòng chiến do các Chiến Sĩ Chiến Đoàn 52 (-) bắn hạ và do máy bay oanh kích và tác xạ.

BẠN : Tử thương = Khoảng gần 600 và 1 viên phi công Hoa Kỳ của Tiểu Đoàn 229 Trực Thăng Xung Kích Hoa Kỳ. Tự phá huỷ: 3 khẩu pháo binh 105 ly và 4 khẩu 155 ly, 20 chiếc xe GMC và tất cả đạn dược của Pháo Binh.

Sau khi bứng được Căn Cứ Hoả Lực Cầu Cần Lê, Công Trường Bình Long vượt qua Quốc Lộ 13 tiếp tục di chuyển về hướng Đông, Đông Nam (phi trường Quản Lợi) 5 cây số Đông An Lộc, bủa gọng kềm từ hướng Đông, Đông Bắc, Đơn vị của Công Trường 9, rút thì tiếp tục di chuyển về phía Tây An Lộc, án binh bất động, dường như làm thành phần trừ bị cho Quân Đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt, còn Công Trường 7 Cộng Sản Bắc Việt thì di chuyển đến tuyến ẩn phục vùng 5 cây số Nam An Lộc xuyên qua các Xã Xa Trạch, Xa Cam, Tân Khai, Tàu Ô đến Quận Chơn Thành Tỉnh Bình Long, tổ chức chốt kiền dọc theo Quốc Lộ 13 về hướng Nam, với ba nhiệm vụ linh động : thứ nhất là chặn bắt hết quân của Việt Nam Cộng Hoà nếu có tháo lui từ An Lộc trở về Bình Dương, thứ hai là tổ chức tuyến phục kích (Chốt Kiền) để chặn viện binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, thứ ba là dùng làm nỗ lực chính để tấn công dứt điểm An Lộc khi tình hình chiến trận thuận lợi. Công Trường 7 còn được sự yểm trợ của Sư Đoàn 69 Pháo nặng 130 ly, Tiểu Đoàn Chiến Xa của Trung Đoàn Thiếp Giáp 203 với T.54 và PT.76, Trung Đoàn Cơ Giới Phòng Không và hoả tiễn 122 ly, các đơn vị cấp Trung Đội Bộ Binh của Công Trường 7 còn được trang bị loại vũ khí tối tân của Nga Sô là loại hoả tiễn tầm nhiệt cầm tay SA.7, loại khắc tinh của các trực thăng để khống chế các trực thăng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà và Đồng Minh bay trên cao độ từ 4,000 đến 7,000 bộ, lập một hàng rào hoả lực dầy đặc trên vùng trời phía Nam An Lộc nhất là tại vùng Xa Cam, khiến cho việc tiếp tế và tản thương về phía Việt Nam Cộng Hoà bị bế tắc.

3. BÌNH LUẬN VỀ CUỘC RÚT LUI CỦA CHIẾN ĐOÀN 52 SƯ ĐOÀN 18 BỘ BINH TẠI MẶT TRẬN CẦU CẦN LÊ.

Tương quan lực lượng giữa đôi bên quá chênh lệch (1 chống 4, trên trận thế “nổi” rút quân, không có công sự như là phòng thủ). Địch quân đã ở vào vị thế Phục Kích và Truy Đuổi cũng như áp dụng chiến thuật thí quân BIỂN NGƯỜI, nhưng vẫn không đánh tan được Chiến Đoàn 52 (-), mà ngược lại còn bị tổn thất gấp 5 lần hơn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa .

Các Chiến Sĩ của Chiến Đoàn 52 (-) trong đó có Tiểu Đoàn 1/48 thật là xuất sắc và thiện chiến, nếu đem so sánh một Tiểu Đoàn1/48 có thể đánh thủng cả trung đoàn của quân Cộng Sản Bắc Việt phục kích và bao vây.

Vị Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 52 (-), Trung Tá Nguyễn Bá Thịnh, gốc Dù, từng là cựu Huấn Luyện Viên Khoa Tác Chiến của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, cũng là cấp chỉ huy tài giỏi và linh hoạt ứng phó thật tài tình trong mọi hoàn cảnh và trạng huống ; hay nói cách khác, kỹ thuật lãnh dạo chỉ huy giỏi và rất được các cấp dưới quyền và toàn thể toán cố vấn Mỹ kính nễ. Tinh thần hy sinh cao cả vì chức vụ cố vấn của Trung Tá Walter D. Ginger, dù rằng đã bị thương nhưng không hèn nhát xin tản thương, mà vẫn ở lại mặt trận cùng sống chết với bạn Đồng Minh Việt Nam Cộng Hoà. Một điểm son cho toán cố vấn Sư Đoàn 18 Bộ Binh là ngay khi Chiến Đoàn 52 (-) về đến An Lộc, thấy không còn vị cố vấn nào vì đã bị thương và di tản về Bệnh Viện 3 Dã Chiến Hoa Kỳ tại Sài Gòn để trị liệu Cố Vấn Trưởng Sư Đoàn 18 Bộ Binh liền cắt cử toán cố vấn khác thay thế tức thì để điền khuyết cho Chiến Đoàn 52 (-) tại An Lộc. Trưởng toán là Thiếu Tá Raymond Haney và cố vấn phó là James Willbanks (cũng chính là tác giả của tập tài liệu cho vấn đề tham khảo này). Thành thật ca ngợi tinh thần trách nhiệm toàn thể toán cố vấn Sư Đoàn 18 Bộ Binh Quân Đoàn 3 (năm 1972).

Trái lại toán cố vấn Mỹ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà thì hơi khác, qua hai sự kiện sau đây :

a.- Ngày 11-04-1972 trong lúc Trung Đoàn 8 Bộ Binh đang sắp toán tại sân bay Dầu Tiếng chờ trực thăng đến bốc thả vào An Lộc thì Trung Tá Abramawith Cố Vấn Trưởng Trung Đoàn 8 Bộ Binh đến nói với Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 Mạch Văn Trường là : – Lệnh của MAC.V là nơi nào không an toàn thì Cố Vấn Mỹ có quyền không đến. An Lộc sắp trở thành chiến trường đẫm máu, toán Cố Vấn Mỹ Trung Đoàn 8 sẽ đi về Lai Khê, là hậu cứ của Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, không theo Trung Đoàn vào An Lộc !!! Đại Tá Trường đành phải chấp nhận sự không có mặt của toán Cố Vấn Mỹ khi Trung Đoàn 8 Bộ Binh đổ quân vào An Lộc.

b.- Ngày 07-04-1972, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng di chuyển Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Cố Vấn Mỹ từ Lai Khê lên An Lộc (An Lộc là Quận Châu Thành của Tỉnh Lỵ Bình Long) để thống nhất chỉ huy các lực lượng Chính Quy và Diện Địa của Tiểu Khu Bình Long, tổ chức phòng thủ chống lại cuộc tấn công cấp Quân Đoàn của Việt Cộng âm mưu đánh chiếm Tỉnh Lỵ Bình Long (An Lộc). Nơi đây Công Binh Sư Đoàn đã làm sẵn một căn cứ dã chiến bằng bao cát lót vỉ sắt PAP (Plain Aluminum Plate) khá vững chắc cho Bộ Chỉ Huy Tiền Phuơng Sư Đoàn 5 Bộ Binh ở phía Đông An Lộc gần ga xe lửa. Tình hình lúc này thì Tỉnh Lỵ Bình Long hoàn toàn bị Việt Cộng bủa lưới bao vây. Pháo binh địch đã bắt đầu bắn vào Tỉnh Lỵ, Địch chỉ mới bắn lai rai để điều chỉnh tác xạ vào các mục tiêu : sân bay, bãi đáp trực thăng, các căn cứ quân sự, và các mục tiêu khác nhu nhà thương, nhà thờ, chùa chiền, và các con đường chính dẫn vào thị xã nhất là các Bộ Chỉ Huy của Sư Đoàn 5 và của Tiểu khu Bình Long. Đại Tá Miller Cố Vấn Trưởng nói với Tướng Hưng : Vị trí Bộ Chỉ Huy Hành Quân Sư Đoàn 5 Bộ Binh làm bằng bao cát và vỉ sắt không chống được các loại pháo hạng nặng, hoả tiễn 122 ly của địch quân, nên toán cố vấn ở đây không có đủ an toàn. Ông và toán Cố Vấn Mỹ Sư Đoàn, sẽ rời An Lộc để về lại Lai Khê. Tướng Hưng không đồng ý cho Cố Vấn Mỹ rút khỏi An Lộc. Ông nói :

“Trận chiến sắp tới, Sư Đoàn rất cần Cố Vấn Mỹ để có sự yểm trợ hoả lực về không yểm của không lực Hoa Kỳ, Sự có mặt của Cố Vấn Mỹ ở lại đây rất cần thiết cho vấn đề giúp liên lạc với Không Quân Hoa Kỳ. Nếu Ông muốn có vị trí an toàn hơn, tôi sẽ đưa Ông đi tìm vị trí khác ở gần đây”. Tướng Hưng dắt Đại Tá Miller đi vào trung tâm Thị Xã An Lộc, cạnh bệnh viện Bình Long, nơi đây có một thành lính do quân đội Nhật Hoàng xây cất từ hồi Đệ Nhị Thế Chiến, đúc bằng xi măng cốt sắt, hầm sâu dưới mặt đất, có đường giao thông hào, rất kiên cố, có khả năng chống bom của phi cơ Đồng Minh. (Trại này trước đây được sử dụng làm Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long, có tên là Trại Đỗ Cao Trí. Năm 1971 Mỹ rút quân, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long dời về Compound Mỹ ở phía Nam An Lộc, Trại Đỗ Cao Trí đang bỏ trống). Quan sát xong, Đại Tá Miller không còn lý do từ chối nên toàn bộ Ban Cố Vấn Mỹ Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa, đã ở lại An Lộc với Tướng Hưng tử thủ suốt 3 tháng. Đại Tá Miller đã giúp Tướng Hưng rất nhiều trong việc sử dụng không lực Hoa Kỳ yểm trợ rất hữu hiệu cho chiến trường An Lộc.

Căn cứ thành chìm này còn có cái tên là “Thành Đỗ Cao Trí”, 800 thước phía Tây Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 Bộ Binh cũ.

Một điểm mà chúng tôi muốn luận bàn thêm về Trận Chiến An Lộc, những cái MAY RỦI, VÔ TÌNH của Trận Chiến. Như trường hợp kể trên, nếu không có sự từ chối của Đại Tá Miller ở vào giờ phút chót đó, thì nơi địa điểm cũ (Hầm Nổi) là mục tiêu Pháo của Cộng Quân, đã được Cộng Quân điều nghiên và điều chỉnh toạ độ pháo xong xuôi, cho đến khi Cộng Quân mở cuộc mưa pháo vào An Lộc, căn cứ nổi đó trở thành BÌNH ĐỊA, hứng không biết bao nhiêu quả đạn pháo 130 ly và hoả tiễn, từ những ngày đầu cuộc chiến, và Bộ Chỉ Huy đầu não của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh nếu còn ở vị trí cũ, chắc chắn đã bị chôn vùi dưới đống bao cát và vỉ sắt tung rách tả tơi, trong đó toàn Bộ Tham Mưu kể cả Tướng Hưng có lẽ cũng đã bị chôn vùi và bị banh thây vào đêm 12 qua những ngày 13, 14, tháng 04 năm 1972 rồi. Đó có phải là một trong những cái may mắn do TRỜI ĐỊNH hay không?

Quyết định của Tướng Hưng cho lệnh Chiến Đoàn 52 (-) Bộ Binh phá huỷ hết các Chiến Cụ Nặng, chứng tỏ Tướng Hưng là một vị TƯỚNG GIỎI, TƯỚNG BIẾT ỨNG PHÓ VỚI TÌNH HÌNH VÀ HOÀN CẢNH, LÀ MỘT TƯỚNG BIÊT TRỌNG TÍNH MẠNG BINH SĨ HƠN LÀ CHIẾN CỤ, nhờ vậy các binh sĩ Chiến Đoàn 52 (-) Bộ Binh mới được rảnh rổi tay chân để quần thảo với quân địch đông hơn gấp nhiều lần.

Tử Thủ An Lộc Mùa Hè Năm 1972 

Lâm Vĩnh Thế 

Mùa Hè 1972 chứng kiến một cuộc Tổng Tấn Công dữ dội của các lực lượng Cộng sản (CS) tại Miền Nam với 3 mặt trận:

1) Quảng Trị ở ngay phía Nam Khu Phi Quân Sự tại Vùng I;

2) Kontum trên Cao Nguyên Trung Phần thuộc Vùng II; và,

3) Bình Long thuộc Vùng III.  Bài viết này chỉ trình bày cuộc tử thủ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (QLVNCH) tại An Lộc, tỉnh lỵ của tỉnh Bình Long.

Các đơn vị tham chiến của hai bên

Về phía CS, có sự tham dự của các đơn vị sau đây:

  • 3 Công Trường (tức là sư đoàn) 5, 7 và 9; mỗi công trường gồm có 3 trung đoàn: Công Trường 5 với 3 Trung Đoàn E6, 174 và 275; Công Trường 7 với 3 Trung Đoàn 141, 165, và 209; Công Trường 9 với 3 Trung Đoàn 271, 272, và 95C
  • 2 Trung Đoàn độc lập 101 và 205
  • Sư Đoàn pháo binh 69 gồm 2 trung đoàn 42 và 208
  • Trung Đoàn phòng không 271
  • Trung Đoàn thiết giáp 203
  • Trung Đoàn vũ khí đặc biệt 202
  • Toán đặc công 429

Về phía QLVNCH, có sự tham dự của các đơn vị sau đây:

  • Sư đoàn 5 Bộ Binh (sau đây sẽ viết tắt Bộ Binh = BB) gồm 2 Trung Đoàn 7, 8 (Trung Đoàn 9 đã bị xóa sổ sau trận Lộc Ninh)
  • Trung Đoàn 52 của Sư Đoàn 18 BB
  • Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, gồm 3 Tiểu Đoàn 31, 36, và 52
  • Các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân của Tiểu Khu Bình Long
  • Về sau có thêm sự tăng viện của: Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù (gồm 3 Tiểu Đoàn 5, 6, và 8), Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, toàn bộ Sư Đoàn 21 BB, và Trung Đoàn 15 của Sư Đoàn 9 BB

Sơ lược về Vùng III, Tỉnh Bình Long và Thị Trấn An Lộc

Vùng III Chiến Thuật có lãnh thổ bao gồm 11 tỉnh của Miền Đông Nam Phần thuộc trách nhiệm phòng thủ của Quân Đoàn III với 3 Sư Đoàn BB được phân bố như sau:

  • Sư Đoàn 5 BB: với Bộ Tư Lệnh đặt tại Lai Khê, chịu trách nhiệm 3 tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long
  • Sư Đoàn 18 BB: với Bộ Tư Lệnh đặt tại Xuân Lộc, chịu trách nhiệm 5 tỉnh Biên Hòa, Bình Tuy, Gia Định, Long Khánh, Phước Tuy, và Đặc Khu Vũng Tàu
  • Sư Đoàn 25 BB với Bộ Tư Lệnh đặt tại Đồng Dù (Củ Chi), chịu trách nhiệm 3 tỉnh Hậu Nghĩa, Long An, và Tây Ninh

Tại thời điểm tháng 4-1972, Tư Lệnh Quân Đoàn III là Trung Tướng Nguyễn Văn Minh.1 Tướng Minh được bổ nhiệm vào chức vụ này trước đó hơn 1 năm vào ngày 23-2-1971 sau khi Trung Tướng (truy thăng Đại Tướng) Đỗ Cao Trí bị tử nạn trực thăng.

Tu thu An Loc 01

Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III

Sư Đoàn 5 BB, chịu trách nhiệm tỉnh Bình Long, dưới quyền Tư Lệnh của Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng,2 với Tư Lệnh Phó là Đại Tá Lê Nguyên Vỹ,3 gồm có 3 Trung Đoàn là:

  • Trung Đoàn 7, với Trung Đoàn Trưởng là Trung Tá Lý Đức Quân, có Bộ Chỉ Huy đóng tại Phú Giáo
  • Trung Đoàn 8, với Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá Mạch Văn Trường,4 có Bộ Chỉ Huy đóng tại Dầu Tiếng
  • Trung Đoàn 9, với Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh, có Bộ Chỉ Huy đóng tại Lộc Ninh

Tu thu An Loc 02

Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB

 Tu thu An Loc 03

Bản đồ Tỉnh Bình Long

 Tu thu An Loc 04

Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB – Trong thời gian Trận An Lộc, ông là Đại Tá Tư Lệnh Phó, Sư Đoàn 5 BB 

Tỉnh Bình Long là một tỉnh nằm về góc Tây Bắc của Vùng III Chiến Thuật, với dân số khoảng 60.000, phía Bắc và Tây Bắc giáp với Campuchia, phía Đông giáp với Tỉnh Phước Long, phía Nam giáp với Tỉnh Bình Dương, và phía Tậy Nam giáp với Tỉnh Tây Ninh.  Bình Long gồm có 3 quận: phía Bắc là quận Lộc Ninh, ở giữa là quận An Lộc, và phía Nam là quận Chơn Thành.  Thị trấn An Lộc, nằm trong quận An Lộc, là tỉnh lỵ của Tỉnh Bình Long, với dân số vào khoảng 15.000, cách Sài Gòn ở phía Nam vào khoảng 100 KM.  Trục giao thông chính của Bình Long là Quốc Lộ 13, chạy theo hướng Bắc Nam, từ biên giới Campuchia, xuyên qua các thị trấn Lộc Ninh, An Lộc, Tân Khai, Cầu Tàu Ô, Chơn Thành, và Lai Khê (thuôc tỉnh Bình Dương) để về Sài Gòn.  Chung quanh thị trấn An Lộc phần lớn là các đồn điền cao su chiếm một tổng diện tích khoảng 75.000 mẫu.  Tình Trưởng Bình Long vào thời gian trận An Lộc là Đại Tá Trần Văn Nhựt,5 một sĩ quan gốc Thủy Quân Lục Chiến, với nhiều kinh nghiệm chiến trường.  Về sau, Đại Tá Nhựt vinh thăng Chuẩn Tướng, và được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 2 BB.

Tu thu An Loc 05

Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Đoàn 2 BB –  Trong thời gian Trận An Lộc, ông là Đại Tá, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Long 

Sau khi được tin tình báo về các hoạt động mới nhứt của các sư đoàn 5, 7, và 9 của CS cho thấy phe CS có ý đồ mở một cuộc tấn công với quy mô lớn vào tỉnh Bình Long, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng (vừa được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu thăng cấp từ Đại Tá lên Chuẩn Tướng vào ngày 9-3-1972), Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB của QLVNCH đã quyết định di chuyển bản doanh của Sư Đoàn 5 BB từ Phú Lợi lên Lai Khê ở phía Bắc tỉnh Bình Dương gần ranh giới phía Nam của tỉnh Bình Long, đồng thời cho đặt Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Đoàn 5 BB ngay tại An Lộc dưới quyền chỉ huy của Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 BB là Đại Tá Lê Nguyên Vỹ.

Các đơn vị chính và tăng phái của Sư Đoàn 5 BB được bố trí như sau: 6

“- Trung Đoàn 7 Bộ Binh tại Phú Giáo do Trung Tá Lý Đức Quân chỉ huy, hoạt động dọc theo hành lang sông Bé ngăn chặn đường xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt vào chiến khu D.

– Trung Ðoàn 8 Bộ Binh tại Dầu Tiếng (Quận Trị Tâm) do Ðại Tá Mạch Văn Trường chỉ huy hoạt động ngăn chặn các đoàn xâm nhập Cộng Sản Bắc Việt từ biên giới Việt Miên theo hành lang sông Sài Gòn tiến vào Bình Dương.

– Trung Ðoàn 9 Bộ Binh (trừ 1 Tiểu Ðoàn) do Ðại Tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy, được tăng phái Thiết Ðoàn 1 Kỵ Binh (trừ 1 Chi Ðoàn) do Trung Tá Kỵ Binh Nguyễn Đức Dương chỉ huy, và Tiểu Ðoàn 74 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng, hợp thành Chiến Ðoàn 9 Bộ Binh, trú đóng tại Quận Lộc Ninh tổ chức phòng thủ ngăn chặn địch từ Snoul (đất Miên) tiến đánh Việt Nam theo đường tiến sát Quốc Lộ 13.

– Trung Đoàn 52 Bộ Binh (trừ 1: gồm Tiểu Ðoàn 2/52 và Tiểu Ðoàn 1/48) do Sư Ðoàn 18 Bộ Binh tăng phái và 1 Pháo Ðội hỗn hợp (105 ly và 155 ly) do Trung Tá Nguyễn Bá Thịnh chỉ huy thiết lập căn cứ hoả lực tại Cầu Cần Lê (cách An Lộc 15 cây số, trên Quốc Lộ 13) để yểm trợ hoả lực cho An Lộc, Lộc Ninh và Căn Cứ Tống Lê Chân.

– Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 Bộ Binh đóng tại Lai Khê. Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Ðoàn 5 Hành Quân đặt tại Tỉnh Lỵ Bình Long do Ðại Tá Tư Lệnh Phó Lê Nguyên Vỹ chỉ huy.”

Tu thu An Loc 06

Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB – Trong thời gian Trận An Lộc, ông là Đại Tá, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8, Sư Đoàn 5 BB

 

Lý do An Lộc được chọn làm mục tiêu của trận đánh

Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao An Lộc, tỉnh lỵ của Tỉnh Bình Long, một tỉnh nhỏ, dân số ít và không có tiềm năng lớn về kinh tế lại dã được phe CS chọn làm một trong 3 mục tiêu chính cho cuộc Tổng Tấn Công mùa Hè 1972.   Câu trả lời là: Hòa Đàm Paris, bắt đầu họp từ năm 1968 giữa các phe liên hệ sắp đi đến giai đoạn phải kết thức.  Phe CS đã thành lập Chánh Phủ Cách Mạng Lậm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN) để đại diện cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại bàn hội nghị. Chánh Phủ này cần phải có một thủ đô, và họ đã chọn An Lộc làm thủ đô, đồng thời từ đó có thể dễ dàng tiến đánh vào Sài Gòn.7 Do đó phe CS đã huy động một lực lượng rất lớn, quyết chiếm cho được An Lộc.  Và cũng vì vậy, QLVNCH, bằng mọi giá, phải giữ cho được An Lộc.

Sau đây là Bảng ước tính quân số của các đơn vị phe CS đã tham chiến trong thời gian trận tấn công vào An Lộc, tổng cộng vào khoảng trên 35.000 quân:

Tu thu An Loc 07

Nguồn: The Battle of An Loc / James H. Willbanks, tr. 33

Các trận đánh mở màn

Thật ra, trước khi Trận An Lộc bắt đầu vào đầu tháng 4-1972, tin tình báo được cung cấp cho MACV của Hoa Kỳ (MACV = Military Assistance Command – Vietnam = Bộ Tư Lênh Viện Trợ Quân Sư – Việt Nam) và Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH cũng như Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III (và từ đó chuyển đến Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB) đều cho rằng Tỉnh Tây Ninh sẽ là nơi mà phe CS muốn chiếm làm thủ đô cho CPCMLTCHMNVN.

Ớ cấp vùng chiến thuật, Thiếu Tướng James F. Hollingsworth, Cố Vấn Trưởng Hoa Kỳ tại Vùng III, chỉ huy TRAC (Third Regional Assistance Command = Bộ Tư Lệnh Viện Trợ Quân Sự của Vùng III), trực tiếp cố vấn cho Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Vùng III.  Đại Tá William H. Miller là Cố Vần Trưởng Hoa Kỳ bên cạnh Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB.  Vào đầu tháng 2-1972, tình báo Hoa Kỳ nói chung và TRAC nói riêng đều nghĩ và tin rằng Tây Ninh sẽ là mục tiêu của một cuộc tấn công lớn của phe CS tại Vùng III.8

Vì thế, trước khi mở màn trận An Lộc, “ngày 02 tháng 04 năm 1972, hai Trung Ðoàn Cộng Sản có chiến xa và trọng pháo yểm trợ từ phần đất Miên xâm nhập đánh phá liên tục vào các căn cứ Lạc Long (cách Tây Ninh 35 cây số về phía Tây Bắc) và căn cứ Thiện Ngôn khiến quân trú phòng thuộc Sư Ðoàn 25 Bộ Binh phải lui quân.  Họ tung tin sẽ đánh chiếm Tây Ninh làm thủ phủ cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, khiến Quân Khu III phải điều toàn bộ Sư Ðoàn 25 Bộ Binh phòng thủ giữ Tây Ninh và Sư Ðoàn này mặc nhiên bị cầm chân tại đây.” 9

Chỉ sau khi phe CS mở cuộc tân công Lộc Ninh với quy mô lớn thì các cấp chỉ huy của QLVNCH và MACV, TRAC mới thay đổi cách nhận định về ý đồ của Cộng quân là quyết chiếm cho được An Lộc.

Sáng sớm ngày 5-4-1972, các đơn vị pháo của Công Trường 5 CS đồng loạt pháo kích dữ dội các vị trí phòng thủ của Trung Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 5 BB của QLVNCH cũng như trụ sở quận lỵ của quận Lộc Ninh.   Tiếp theo trận pháo mở màn, 2 Trung Đoàn 174 và 275 của Công Trường 5 cùng với 25 chiến xa tiến vào Lộc Ninh từ phía Tây, tập trung tấn công vào bộ chỉ huy của Trung Đoàn 9 BB tại đầu phía nam của phi trường.  Các lực lượng của Trung Đoàn 9 BB đã chống trả mãnh liệt các đợt tấn công của CS, bắn cháy được 1 chiến xa địch; có lúc các pháo thủ của lực lượng phòng thủ Lộc Ninh đã hạ nóng súng của các khẩu pháo 105 ly và trực xạ vào các lực lượng bộ binh của địch xông ra từ các vườn cao su.

Trong lúc trận chiến đang xảy ra ác liệt tại Lộc Ninh thì tại Bộ Tư Lệnh Vùng III tại Biên Hòa, cả 2 tướng Minh và Hollingsworth đều đã thấy rõ là mục tiêu của cuộc tổng tấn công này là Bình Long rồi, hoàn toàn không còn nghĩ và tin rằng Tây Ninh là mục tiêu nữa.  Lập tức, việc yểm trợ bằng không quân được thực hiện ngay.  Các phi cơ của Hoa Kỳ, gồm các phản lực cơ A-37 của Phi Đoàn Đặc Vụ 8 (8th Special Operations Squadron) từ Biên Hòa, các phi cơ khu trục phản lực của Hải Quân Hoa Kỳ từ Hàng Không Mẫu Hạm Constellation, các phản lực cơ F-4 và oanh kích AC-130 từ Thái Lan, cũng như các phi cơ khu trục A-1 và phản lực F5 của Không Quân VNCH được điều động đến yểm trợ liên tục cho các đơn vị QLVNCH đang chống trả cuộc tấn công dữ dội của các đơn vị CS tại mặt trận Lộc Ninh.  Việc yểm trợ mặt trận Lộc Ninh còn được thực hiện bằng các phi vụ trực thăng Cobra của Trung Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Không Vận (9th Cavalry, 1st Cavalry Division – CSBV gọi là Sư Đoàn Anh Cả Đỏ).10

Chuẩn Tướng Hưng và Đại Tá Cố Vấn Miller cũng lập tức lên trực thăng rời Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB tại Lai Khê bay lên phía Bắc.  Khi đến gần Chơn Thành thì họ đã liên lạc được với các cố vấn Hoa Kỳ tại mặt trận Lộc Ninh.  Các vị cố vấn này báo cáo là các đơn vị của Chiến Đoàn 9 tại Lộc Ninh, mặc dù đã được các phi tuần khu trục và trực thăng của không quân Hoa Kỳ và VNCH tích cực yễm trợ, đã bị thương vong rất nhiều do pháo binh và chiến xa của Cộng quân, và tình hình rất là nghiêm trọng.  Đơn vị thiết giáp phòng thủ ở phía Bắc Lộc Ninh đã hàng địch, các đơn vị Biệt Động Quân và Tiểu Đoàn 2 của Trung Đoàn 9 đã mở đường máu rút về Lộc Ninh.  Trong thời gian này, các đơn vị thuộc Chiến Đoàn 9 phòng thủ Lộc Ninh, với sự yểm trợ tối đa của không quân Mỹ-Việt, đã chống trả mãnh liệt các đợt tấn công của các đơn vị bộ binh của Công Trường 5 CS.

Tướng Hưng ra lệnh cho Trung Tá Nguyễn Bá Thịnh điều động Trung Đoàn 52 (do Sư Đoàn 18 tăng phái, đóng tại cầu Cần Lê ở phía Bắc An Lộc) lên cứu viện cho Lộc Ninh.  Trung Tá truyền lệnh ngay cho Tiểu Đoàn 2, là đơn vị đang đóng quân ở pía Bắc, tiến lên tiếp viện cho Lộc Ninh, nhưng đơn vị này bị địch phục kích tại một địa điểm gần giao lộ giữa Liên Tỉnh Lộ 17 và Quốc Lộ 13.  Vì lúc đó tất cả các hoạt động không yểm đều tập trung tại Lộc Ninh, Tiểu Đoàn 2 đã không được không yểm và sau cùng phải rút về địa điểm xuất phát.  Ngày hôm sau, 6-4-972, Bộ Chỉ Huy của Trung Đoàn 52 cũng bị địch tấn công, pháo kích, và bao vây.  Để bảo toàn đơn vị này cần thiết cho việc phòng thủ An Lộc trong những ngày sắp tới, Tướng Hưng ra lệnh cho Trung Tá Thịnh rút bỏ căn cứ hỏa lực tại cầu Cần Lê, đưa Trung Đoàn 52 về An Lộc.  Tất cả các đơn vị nặng, cơ giới và pháo binh bỏ lại hết, chỉ có bộ binh mở đường máu, băng rừng; khi về đến An Lộc chỉ còn lại khoảng 600 quân nhân trên tổng số hơn 1000 của Trung Đoàn.11, 12

Sau nhiều đợt tấn công, và mặc dù bị thiệt hại rất nặng nề do sự chống trả rất mãnh liệt của các đơn vị phòng thủ Lộc Ninh cũng như do các phi vụ yểm trợ của Không Quân Mỹ-Việt, kể cả các phi vụ của phi cơ cường kích Mỹ AC-130, và sức tàn phá khủng khiếp của bom CBU-55 (CBU = Cluster Bomb Unit = Bom chùm), sau cùng, các lưc lượng của Công Trường 5 CS cũng phá được các tuyến phòng thủ của Trung Đoàn 9 BB và tràn ngập Lộc Ninh.  Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 9 BB, và Trung Tá Nguyễn Đức Dương, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh bị địch bắt làm tù binh.13 Tất cả 7 cố vấn Mỹ được ghi nhận là mất tích (MIA = Missing In Action); thật ra, trừ Trung Tá Richard S. Schott bị thương nặng đã hy sinh bằng cách tự sát để cho các thuộc hạ dễ dàng đào thoát, trước sau, tất cả đều bị bắt làm tù binh, gồm có Thiếu Tá Albert E. Carlson, Thiếu Tá Thomas Davidson, Đại Úy Mark A. Smith, Đại Úy George Wanat, Trung Sĩ Howard B. Lull, và Trung Sĩ Kenneth Wallingford.  Về phía QLVNCH, hơn một ngàn quân nhân cũng đã bị bắt làm tù binh tại Lộc Ninh; chỉ có khoảng độ 50 quân nhân vượt thoát được về đến An Lộc.14 Trung Đoàn 9 của Sư Đoàn 5 BB coi như đã bị xóa sổ.

 

Các trận tấn công của Cộng quân tại An Lộc

Các chuẩn bị của QLVNCH để phòng thủ An Lộc

Như đã trình bày bên trên, khi trận Lộc Ninh nổ ra, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Vùng III, đã thấy ngay ý đồ thật của phe CS tại Vùng III là đánh chiếm Bình Long, chứ không phải là đánh chiếm Tây Ninh.  Ông lập tức ra lệnh cho trực thăng vận lên An Lộc ngay đơn vị trừ bị cuối cùng còn lại của Quân Đoàn III là Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân (BĐQ) 15 vào ngày 5-4-1972.  Ngày hôm sau, 6-4-1972, trong khi trận Lộc Ninh còn đang diễn ra ác liệt, Tướng Minh đã về Sài Gòn dự một phiên họp quan trọng tại Dinh Độc Lập.  Hiện diện tại phiên họp này gồm có: Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng, Trung Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn An Ninh của Tổng Thống Thiệu, và tất cả 4 tướng Tư Lệnh Vùng.  Tướng Minh đã trình bày quan điểm của ông về tình hình nghiêm trọng tại Vùng III, nếu An Lộc bị địch chiếm làm thủ đô cho CPCMLTCHMNVN thì ảnh hưởng chính trị vô cùng bất lợi cho VNCH, do đó cần phải giữ An Lộc bằng mọi giá, và, vì quân trừ bị của Vùng III không còn nữa, ông đề nghị tìm mọi cách tăng viện cho Vùng III.  Tổng Thống Thiệu và Trung Tướng Quang đều ủng hộ quan điểm này.  Vì các đơn vị tổng trừ bị quan trọng là Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn TQLC đã được tăng viện cho Vùng I và Vùng II hết rồi, sau cùng phiên họp quyết định tăng phái cho Vùng III Lữ Đoàn 1 Dù đang phụ trách phòng thủ Sài Gòn, Liên Đoàn 81 Biệt Kích Dù, và 1 sư đoàn của Vùng IV.  Khi được hỏi ý kiến, Trung Tướng Trưởng đề nghị sử dụng Sư Đoàn 21 vì 2 lý do: 1) Sư Đoàn 21 có nhiều kinh nghiệm về tác chiến cơ động; 2) Sư Đoàn 21 vốn trước đây đã từng do Tướng Minh chỉ huy.  Sau khi thảo luận, các tướng đồng ý với đề nghị của Tướng Trưởng.16 Sau đó, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã gửi điện văn ra lệnh cho các sĩ quan cao cấp của QLVNCH tại An Lộc là phải giữ An Lộc “bằng mọi giá.”

Về phía Sư Đoàn 5 BB, Tướng Hưng ra lệnh cho Trung Tá Lý Đức Quân lập tức rút Trung Đoàn 7 BB đang đóng quân tại Phú Giáo để bảo vệ hành lang sông Bé về phòng thủ An Lộc.  Ông cũng quyết định chuyển Bộ Tư Lệnh của Sư Đoàn, đã di chuyển từ Phú Lợi lên Lai Khê, nay chuyển lên đặt ngay tại An Lộc.  Ngày 7-4-1972, trước khi bay vào An Lộc, ông đáp xuống Dầu Tiếng, họp với Đại Tá Mạch Văn Trường, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8, và thông báo cho Đại Tá Trường về tình hình nghiêm trọng cần phải chống giữ An Lộc bằng mọi giá, về quyết định của ông đưa Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 lên An Lộc, và cho biết Sư Đoàn 5 không còn khả năng yểm trợ Trung Đoàn 8 nữa, nhưng yêu cầu Đại Tá Trường cố gắng giữ vững vị trí đang đóng quân để tiếp tục án ngữ hành lang sông Sài Gòn.  Ông cũng cho Đại Tá Trường biết là kể từ giờ phút đó, Trung Đoàn 8 BB của Đại Tá Trường sẽ thực thuộc Quân Đoàn III.  Sau khi tiển Tướng Hưng lên trực thăng để bay vào An Lộc, Đại Tá Trường lập tức họp các đơn vị trưởng của Trung Đoàn 8 BB để thông báo các quyết định quan trọng của Tướng Hưng và ra lệnh cho các đơn vị kiểm tra lại ngay quân số và trang bị, đặc biệt chú trọng đến các súng cộng đồng như đại bác 57 không giật và súng cối 81 ly.  Trong một cuộc tuần tiểu, lục soát một căn cứ cũ của Sư Đoàn I BB của Hoa Kỳ (đã được rút về Mỹ), Tiểu Đoàn I của Trung Đoàn 8 BB may mắn tìm được một hầm đạn đủ loại và 2000 súng M-72 LAW (Light Antitank Weapon = Vũ khí nhẹ chống chiến xa) còn nguyên vẹn trong bao giấy dầu.  Số súng chống chiến xa này lập tức được phân phối cho tất cả các đơn vị của toàn Trung Đoàn.  Ba ngày sau, 10-4-1972, Tướng Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III, gọi Đại Tá Trường về Trung Tâm Hành Quân Quân Đoàn III tại Biên Hòa và, sau khi thông báo cho Đại Tá Trường về tình hình nghiêm trọng tại An Lộc, cho biết quyết định của ông là giao trả Trung Đoàn 8 lại cho Sư Đoàn 5 BB, và sẽ cho trực thăng vận Trung Đoàn 8 từ Dầu tiếng về An Lộc ngay ngày hôm sau, 11-4-1972.17

Như vậy, trước khi cuộc tấn công vào An Lộc lần đầu tiên nổ ra vào ngày 14-4-1972, lực lượng phòng thủ An Lộc gồm có các đơn vị được bố trí như sau:

  • Trung Đoàn 8 BB giữ phía Bắc
  • Liên Đoàn 3 BĐQ giữ phía Đông
  • Trung Đoàn 7 BB giữ phía Tây
  • Trung Đoàn 52 BB và các đơn vị địa phương của Tiểu Khu Bình Long giữ phía Nam

Lúc đó, các lực lượng mà phiên họp ngày 6-4-1972 tại Dinh Độc Lập đã quyết định tăng viện cho An Lộc, gồm Lữ Đoàn 1 Dù, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, và Sư Đoàn 21 BB, vẫn chưa đến được An Lộc.

Các chuẩn bị của Cộng quân để tấn công An Lộc

Về phía các đơn vị CS, sau khi chiếm xong Lộc Ninh, mục tiêu của họ bây giờ là tiến đánh An Lộc, thị trấn tỉnh lỵ của Tỉnh Bình Long.  Để chuẩn bị cho trận tấn công sắp tới vào An Lộc họ phải thực hiện 2 chuyện: 1) bao vây An Lộc; và 2) cắt các đường tiếp tế và tiếp viện cho An Lộc.

Các đơn vị của Công Trường 5 CS được lệnh tiến về phía Nam để bao vây mặt Bắc của An Lộc.  Phi trường của tỉnh Binh Long ở phía Bắc An Lộc và phi trường tại Quản Lợi (cách An Lộc 5 km về phía Đông Bắc), hai đường hàng không cần thiết cho việc liên lạc và tiếp tế cho An Lộc, bị pháo kích liên tục.  Trung Đoàn 7 BB, từ Phú Giáo rút về, đã giao cho một tiểu đoàn nhiệm vụ phòng thủ phi trường Quản Lợi.  Đêm 8-4-1972, một số đơn vị của Công Trường Bình Long CS đã tấn công và tràn ngập phi trường này.  Tiểu đoàn của Trung Đoàn 7 bị thiệt hại rất nặng đã phải rút lui về An Lộc.  Sau khi chiếm được Quản Lợi, các đơn vị pháo của Cộng quân đã chiếm gữ được những cao điểm thuận lợi cho việc điều chỉnh tọa độ pháo kích vào các mục tiêu trong thị trấn An Lộc trong thời gian sắp tới.

Về phía Nam, các đơn vị của Công Trường 7 CS đã cắt đứt hoàn toàn Quốc Lộ 13 từ Chơn Thành lên.  Ngày 7-4-1972, Lữ Đoàn 1 Dù được lệnh di chuyển từ Lai Khê lên Chơn Thành, với nhiệm vụ giải tỏa Quốc Lộ 13.  Khi qua khỏi Chơn Thành độ 6 km, còn cách An Lộc độ 15 km, Lữ Đoàn 1 Dù đã bị các chốt của một trung đoàn thuộc Sư Đoàn 7 CS chận đứng lại tại một địa điểm gần cầu Tàu Ô, không cách nào tiến lên được nữa.

An Lộc đã hoàn toàn bị bao vây, tất cả các đường bộ và hàng không dùng để liên lạc và tiếp tế, tiếp viện cho An Lộc đã hoàn toàn bị địch cắt đứt hết.  Từ sau ngày 7-4 cho đến ngày 12-4, mọi tiếp tế và tản thương cho An Lộc đều phải thực hiện bằng các phi vụ trực thăng và phi cơ C-123 của Không Quân VNCH.  Trận tấn công của Cộng quân vào An Lộc nhất định sẽ xảy ra trong một thời gian ngắn sắp tới.

Đợt tấn công đầu tiên:  13-15/4/1972

Tu thu An Loc 08

Bản đồ phòng thủ của QLVNCH tại An Lộc

Nguồn: Tài liệu trực tuyến Trận đánh An Lộc, Bình Long, ngày 13 tháng 4, 1972, … tại địa chỉ INTERNET sau đây:  https://kientruc5sj.wordpress.com/2014/08/18/tran-danh-an-loc-binh-long-ngay-13-thang-tu-1972-tran-bo-chien-cung-chien-xa-tien-cong-lan-dau-tien-cua-vc-vao-thi-xa-an-loc-bai-thu-5-by-duongtiden/

Đêm 12-4, để chuẩn bị cho cuộc tấn công của bộ binh và chiến xa vào sáng ngày hôm sau, Cộng quân đã pháo kích khoảng 6000 quả đủ loại vào các vị trí phòng thủ trong thị trấn An Lộc.  Đúng 6 giờ sáng ngày Thứ Năm 13-4-1972, các đơn vị bộ binh và chiến xa của Cộng quân bắt đầu tiến vào thị trấn.  Đây là một trận đánh lớn đầu tiên mà phía Cộng quân đã sử dụng một số lượng lớn chiến xa.  Chính vì vậy, cả 2 phe đều chưa có kinh nghiệm nhiều về đối phó và sử dụng chiến xa.  Về phía QLVNCH, binh sĩ phòng thủ An Lộc, lúc đầu, rất hoảng sợ khi thấy chiến xa xuất hiện vì vũ khí cá nhân và cộng đồng của họ hoàn toàn vô dụng.  Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi một binh sĩ địa phương quân dùng súng M-72 bắn cháy được chiếc xe tăng T-54 đầu tiên, và tin nầy nhanh chóng loan truyền đi trong hàng ngũ quân phòng thủ An Lộc, thì tất cả mọi người không còn sợ xe tăng của địch nữa.  Về phía Cộng quân, vì chưa có kinh nghiệm hợp đồng tác chiến giữa bộ binh và chiến xa, chiến xa thường tiến quá nhanh nên rơi vào thế không còn bộ binh tùng thiết để được che chở nữa, và trở thành những miếng mồi ngon cho quân phòng thủ An Lộc.  Do đó, nội trong ngày đầu tiên của trận tấn công vào An Lộc, Cộng Quân đã bị thiệt hai nặng với 15 xe tăng T-54 bị bắn cháy trong các đường phố của An Lộ, trong số này 12 chiếc là do các binh sĩ của Trung Đoàn 8 BB dung súng M-72 bắn cháy và 3 chiếc là do thực thăng Cobra của Hoa Kỳ tiêu diệt.  Sau đó, Tướng Hưng đã ra lệnh cho tất cả các đơn vị tại An Lộc phải thành lập các “Tổ diệt tăng” trang bị M-72 chọn trong số các binh sĩ lanh lẹ và biết rõ địa thế trong khu vực phòng thủ của mình.

Trận đánh sáng ngày 13-4 với mũi tấn công chính diễn ra ở phía Bắc An Lộc.  Một đoàn chiến xa T-54 mấy chục chiếc sắp hàng một tiến từ phía Bắc xuống phía Nam trên Quốc Lộ 13, hai bên đường là các toán bộ binh của Sư Đoàn 5 CS dàn hàng ngang, với khí thế cực kỳ đe dọa, coi như họ đã hoàn toàn làm chủ tình hình, đã chiếm được thượng phong.  Họ không bao giờ ngờ họ đang đi vào chổ chết.

Những người lính Địa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Long cũng như các binh sĩ của các tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 8 BB đang phòng thủ ở phía Bắc An Lộc đã chuẩn bị từ mấy ngày qua để chống trả cuộc tấn công mà họ đã biết chắc sẽ xảy ra.  Các cổ đại bác 105 ly của Tiểu Đoàn 52 Pháo Binh (Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Hoàng Trung Liêm) thuộc Trung Đoàn 8 BB đã thiếp lập xong các tọa độ hỏa tập cho các điểm dọc theo Quốc Lộ 13 đi vào An Lộc.   Bích kích pháo 81 ly của các đơn vị của Trung Đoàn cũng đã được chuẩn bị với các tọa độ đó.

Khi bộ binh và chiến xa của địch đã tiến vào đúng các vị trí tọa độ đó, các đại bác 105 ly và bích kích pháo 81 ly của các đơn vị phòng thủ phía Bắc An Lộc đã đồng loạt khai hỏa dữ dội.  Binh sĩ bộ binh địch hoảng sợ, bỏ chạy lán loạn, một xe tăng T-54 trúng pháo nổ tung, quay ngang làm cản đường khiến các chiến xa ở phía sau phải trở lui.  Khoảng 15 chiếc ở phía trước không thể trở lui được đành phải liều tiếp tục tiến vào trong thị xã An Lộc, và lần lược trước sau đều bị các chiến sĩ phòng thủ An Lộc bắn cháy hết bằng súng M-72, như trong tấm ảnh bên dưới đây:

Tu thu An Loc 09

Xe tăng T-54 bị bắn cháy trong Thị Xã An Lộc

Nguồn: Sách America’s Last Vietnam Battle, tr. 392.

Sau khi chỉnh đốn lại hàng ngũ, vào khoảng 10 giờ sáng, Cộng quân mở đợt tấn công thứ nhì cũng vẫn bằng chiến xa và bộ binh vào An Lộc từ hướng Tây Bắc.  Lần này, mặc dù cũng có bị mất 1 xe tăng T-54 bị bắn cháy, Cộng quân đã đạt được một kết quả khả quan hơn, và vào lúc 11:30 họ đã chiếm được phi trường Bình Long và một phần phía Bắc của An Lộc.  Vào khoảng giữa trưa, An Lộc đã bi chia cắt làm đôi: phía Bắc đã lọt vào tay Cộng quân, phía Nam vẫn còn nằm trong tay các đơn vị phòng thủ, và, dĩ nhiên, phần giữa của thị trấn tiếp tục là địa bàn giao tranh ác liệt giữa hai phe, giành nhau từng ngôi nhà, từng khu phố.18

Suốt ngày 13-4 và cả 2 ngày sau, cuộc giao tranh gần như liên tục giữa hai phe tấn công và phòng thủ.  Phe tấn công, tuy quân số đông hơn rất nhiều, đã không thể làm chủ được trận địa vì 2 lý do chính sau đây:

  • Sự chống trả mãnh liệt và rất hiệu quả của tất cả các đơn vị phòng thủ trong thị trấn, từ các binh sĩ Nghĩa Quân và Địa Phương Quân của Tiểu Khu Bình Long cho đến các binh sĩ thuộc 2 Trung Đoàn 7 và 8 của Sư Đoàn 5 BB, Trung Đoàn 52 của Sư Đoàn 18 BB và các binh sĩ thiện chiến của Liên Đoàn 3 BĐQ, nhứt là sau khi Chuần Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 và cũng là Tư Lệnh Mặt Trận, tuyên bố ÔNG NHẤT QUYẾT TỬ THỦ AN LỘC VÀ SẼ NHẤT ĐỊNH CHẾT Ở ĐÓ NẾU THÀNH PHỐ NẦY BỊ CỘNG SẢN CHIẾM’’ 19
  • Sự yểm trợ phi pháo vô cùng hữu hiệu của Không Quân Hoa Kỳ và VNCH. Về phía Không Quân VNCH, các phi đoàn 221, 223, và 231 sử dụng trực thăng Huey UH-1, Phi Đoàn 237 sử dụng trực thăng Chinook CH-47, và Phi Đội tải thương 259E của Không Đoàn 43, đã tích cực tham gia vào việc đổ quân, chuyển vận, tiếp tế và tải thương hàng ngày cho mặt trận An Lộc.  Về mặt yểm trợ chiến thuật cho các đơn vị bộ binh đang giao tranh với địch, các Phi Đoàn quan sát 112 và 124, các Phi Đoàn khu trục A-1 Skyraider 514 và 518 của Không Đoàn 23, và Phi Đoàn 522 phản lực F-5 Freedom Fighter của Không Đoàn 63 (tất cả đều thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân tại Biên Hòa), đã thực hiện các phi vụ oanh kích các đơn vị địch ngay trong lúc giao tranh tại mặt trận An Lộc.  Tất cả các phi vụ yểm trợ cho mặt trận An Lộc này đều đã được thực hiện trong điều kiện vô cùng nguy hiểm vì hệ thống pháo phòng không dày đặc của địch.  Một số trực thăng Chinook CH-47 đã bị thiệt hại tại mặt trận An Lộc, như lời tường thuật sau đây của một phi công thuộc Phi Đoàn 237:

“Tình hình chiến sự mỗi lúc một gia tăng và mãnh liệt nhất là trận An Lộc, mùa Hè 72. Mỗi sáng, chúng tôi tất cả các trực thăng thuộc KÐ43CT đều sang standby tại Lai Khê chờ lệnh, UH-1 vào trước với các binh sĩ tinh nhuệ Nhảy Dù, Chinook vào sau với các khẩu trọng pháo 105 ly ờ Ðồi Gió, Tàu Ô, Tân Khai, bay cao, bay thấp đều bị bắn bằng đủ loại đạn, nhưng chúng tôi vẫn thi hành các phi vụ được giao phó. Hai Chinook đã tổn thất tại Tân Khai và Tàu Ô là PHÐ của Th/Tá Nguyễn Hữu Nhàn + Th/Úy Ðặng Thiên Hiền, cơ phi Ch/Úy Kim, áp tải, xạ thủ đều hy sinh, Ð/Úy Trọng + Th/Úy Thanh bị bắt và được trao trả năm 73 nhưng cơ phi, xạ thủ và áp tải hy sinh.

Một Chinook của Tr/Úy Lê Quang Tiên và Ðặng Ðức Cường bị bắn cháy trên không, phải đáp khẩn cấp xuống phi trường An Lộc và được gunship bốc cứu. Phi cơ của Tr/Úy Son và tôi bị trúng một viên 12,7ly thủng bình xăng trái nhưng vô sự vì không phải đạn lửa và nhiều phi cơ khác bị đạn nhưng không đáng kể.” 20

Về phía Không Quân Hoa Kỳ, sự yểm trợ cho mặt trận An Lộc có thể nói là chưa từng có và với hiệu quả rất cao bằng đủ loại phi cơ và với số lượng phi vụ rất lớn.  Oanh tạc cơ chiến lược B-52, xuất phát từ các căn cứ Không Quân Mỹ U Tapao (52 chiếc) tại Thái Lan và Andersen (31 chiếc) trên đảo Guam, hàng ngày thực hiện các phi vụ “trải thảm” trên các khu vực tập trung quân của địch chung quanh An Lộc.  Mỗi phi vụ B-52 luôn luôn gồm 3 chiếc, mỗi chiếc có thể mang một số lượng bom lên đến 70.000 cân Anh (pound), tổng cộng vào khoảng 100 tấn bom.  Khi một phi tuần gồm 3 chiếc B-52 “trải thảm” thì một khu vực có chiều ngang nữa dặm Anh (mile) và chiều dài 2 dặm Anh sẽ bị hoàn toàn hủy diệt.21 Một điều cần được ghi nhận thêm là tính cách bất ngờ và kinh hoàng của việc B-52 “trải thảm” vì B-52 bay rất cao (30.000 feet = 10.000 m = 10 km) nên địch quân hoàn toàn không nghe, không thấy; khi đã nghe bom nổ thì không còn đường nào chạy thoát được nữa hết, chỉ có nằm chịu trận, phó mặc cho số mạng mà thôi.  Phía Cộng sản cũng công nhận mức độ tàn phá của phi cơ B-52 như sau:

“Không quân Hoa Kỳ đã dùng B-52 để ném bom rải thảm dọn đường, ném bom tạo bãi đáp đổ quân cho các cuộc hành quân của kỵ binh bay, đánh vào các khu nghi ngờ tập trung quân và vào các khu hậu cần kho tàng của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam và đã gây ra các huỷ diệt rất lớn, gây cảm giác rất ghê sợ, hãi hùng trong hàng ngũ đối phương và những người đã từng trải qua các trận bom B-52.” 22

Ngoài phi cơ B-52, Không Lực Hoa Kỳ cũng sử dụng nhiều loại phi cơ khác để yểm trợ cho mặt trận An Lộc như sau:

  • Phi cơ phản lực khu trục A-37 Dragonfly,
  • Phi cơ yểm trợ hỏa lực (gunship) AC-119 Stinger
  • Phi cơ yểm trợ hỏa lực (gunship) AC-130 Spectre
  • Phi cơ trực thăng tấn công Cobra

Các loại phi cơ này đã đóng một vai trò yểm trợ chiến thuật vô cùng hiệu quả cho mặt trận An Lộc.  Chính các trực thăng Cobra, trong ngày đầu tiên của đợt tấn công này, đã bắn cháy 3 chiếc tăng T-54 bằng hỏa tiển HEAT (High-Exlosie Antitank).

Sang ngày 15-4, Cộng quân cố gắng tái diễn một cuộc tấn công “tiền pháo hậu xung” với bộ binh và chiến xa vào An Lộc một lần nữa nhưng kết quả cũng như trong hai ngày trước, đã bị chặn đứng bởi sức chống trả mãnh liệt của quân phòng thủ với sự yểm trợ áp đảo của không quân Việt-Mỹ.  Mức độ giao tranh trong thị trấn giảm dần và đến tối thì ngưng hẳn, kết thúc đợt tấn công đầu tiên giữa tháng 4-1972.  Cộng quân đã chiếm được phần phía Bắc của thị trấn An Lộc, và QLVNCH vẫn còn giữ được phần phía Nam của thị trấn.

Để đạt được thế trận tạm thời nầy, Cộng quân đã bị thiệt hại rất nặng về quân số và vũ khí.  Riêng về lực lượng chiến xa, quân phòng thủ An Lộc đã bắn cháy được tất cả là 23 xe tăng, phần lớn là T-54 của Liên Xô.   Về phía QLVNCH, toàn bộ đại pháo 105 ly trong thị trấn đã bị phá hủy.

Tăng viện cho An Lộc trong vòng vây

Con đường Nguyễn Trung Trực, một trong các con đường chính ở phía Bắc của thị trấn An Lộc, chạy từ Đông sang Tây, là ranh giới giữa 2 lực lượng tấn công và phòng thủ.  Từ các vị trí đóng quân ở hai phía Bắc Nam con đường đó, binh sĩ hai bên có thể nhìn thấy và theo dõi hoạt động của đối phương trong một tình thế hết sức căng thăng.  Quân phòng thủ biết chắc chắn đối phương sẽ lại tấn công, chỉ không biết chắc ngày giờ nào mà thôi.  Phần cấp chỉ huy của hai phe thì đây là thời gian để chuẩn bị cho cuộc giao tranh kế tiếp.

Về phía Cộng quân, họ phê bình kiểm điểm diễn tiến và thành quả của cuộc tấn công 3 ngày vừa qua.  Họ ghi nhận tác động với hiệu quả cao của việc không quân Việt-Mỹ yểm trợ chiến trường An Lộc, nhất là việc oanh kích vào các địa điểm tập trung quân trước cuộc tấn công.  Họ cũng thấy rõ khuyết điểm lớn trong kế hoạch tấn công đợt một này là việc thiếu phối hợp chặt chẽ giữa bộ binh và thiết giáp.  Và trên hết, họ tập hợp lại lực lượng cho đợt tấn công kế tiếp.23

Về phía QLVNCH, đây cũng là thời gian chấn chỉnh lại đội hình, sửa sang lại các công sự phòng thủ, và, dĩ nhiên, mang viện quân vào An Lộc để tăng cường lực lượng phòng thủ.

Ngay từ đầu tháng 4-1972, khi trận Lộc Ninh nổ ra, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Vùng III, sau phiên họp khẩn tại Dinh Độc Lập, đã ra lệnh cho Lữ Đoàn 1 Dù, đang phụ trách bảo vệ thủ đô Sài Gòn, với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá Lê Quang Lưỡng24 (về sau thăng lên Chuẩn Tướng và là Tư Lệnh cuối cùng của Sư Đoàn Dù), gồm 3 Tiểu Đoàn 5, 6, và 8, lập tức di chuyển lên Lai Khê.  Ngày 7-4-1972, Lữ Đoàn 1 Dù bắt đầu cuộc hành quân từ Lai Khê lên Chơn Thành, dọc theo Quốc Lộ 13, với mục tiêu là nhổ các chốt của Công Trường 7 CS từ Chơn Thành lên An Lộc.  Khi qua khỏi Chơn Thành độ 6 km về hướng Bắc, còn cách An Lộc khoảng 15 km, thì lực lượng Dù bị chặn đứng lại tại Suối Tàu Ô bởi cả một trung đoàn của Công Trường 7 với công sự hầm hố phòng thủ kiên cố đã được chuẩn bị sẳn.

Tu thu An Loc 10

Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù – Trong thời gian Trận An Lộc, ông là Đại Tá, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Dù

Ngày 14-4-1972, Trung Tướng Minh, sau cuộc họp tại Lai Khê với Trung Tướng Dư Quôc Đống, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù, và Đại Tá Lưỡng, quyết định cho Lữ Đoàn 1 Dù vào tăng viện cho An Lộc.  Đại Tá Lưỡng bay lên An Lộc ngay để họp bàn với Tướng Hưng về phương án đưa Lữ Đoàn 1 Dù vào An Lộc.  Phương án của ông đề nghị được Tướng Hưng chấp thuận và cho thi hành ngay.  Sau đó, Đại Tá Lưỡng đã bàn chi tiết kế hoạch đổ quân này với Thiếu Tá Nguyễn Văn Ức, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn 221 trực thăng, của Không Đoàn 43 Chiến Thuật, thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân.25, 26 Cuộc đổ quân toàn bộ Lữ Đoàn 1 Dù hoàn thành tốt đẹp trong 2 ngày 14 và 15-4 như tường thuật sau đây:

“Sau cuộc họp, Ðại Tá Lưỡng bay quan sát vị trí trận địa để chọn bãi đổ quân.  Sau năm vòng bay, vị sĩ quan Lữ Đoàn Trưởng quyết định đổ quân xuống ấp Srok Ton Cui, cách An Lộc 4 cây số về phía Ðông.  Theo kế hoạch, Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù sẽ xuống trước để khai quang bãi đáp. Rồi ngày hôm sau, 15 tháng 04/1972, hai Tiểu Ðoàn 5 và 8 cùng Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù sẽ được trực thăng vận xuống khu vực này.  Sau khi đã hoàn tất cuộc đổ quân, hai Tiểu Ðoàn 5 và 8 sẽ chia làm hai cánh tiến quân vào An Lộc.” 27

Sau khi Lữ Đoàn 1 Dù đã vào được An Lộc xong thì đến phiên Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, với Liên Đoàn Trưởng là Trung Tá Phan Văn Huấn (về sau thăng cấp Đại Tá), cũng được Tướng Minh cho trực thăng vận vào tăng Viện cho mặt trận An Lộc.  Cuộc hành quân trực thăng vận này diễn ra ngày 16-4-1972, cũng do Phi Đoàn 221 trực thăng thực hiện, với diễn tiến như sau:

“Đến ngày 16 tháng 04 năm 1972, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, được tăng viện cho An Lộc, và khởi phát cuộc phản công tái chiếm lại ½ lãnh thổ phía Bắc An Lộc.

Từng đoàn trực thăng HU1D cất cánh từ căn cứ Lai Khê vào trưa ngày 16 tháng 04 năm 1972 đưa 550 Biệt Cách Nhảy Dù đến chiến trường An Lộc một cách an toàn.

Bãi đổ quân được chọn trên một khoảng ruộng trống, về phía Tây, Tỉnh lộ 245, cách Đồi Gíó 1 cây số về phía Đông Bắc.

Hợp đoàn trực thăng từng đợt 30 chiếc HU1D cho mỗi đợt đổ quân, có 4 trực thăng võ trang hộ tống bao vùng. Đợt đầu thả Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn, do Trung Tá Phan Văn Huấn chỉ huy và 4 toán trinh sát của Liên Đoàn 81 Biệt Cách, do Trung Úy Lê Văn Lợi chỉ huy, cùng Đại Đội 1 do Đại Úy Nguyễn Ích Đoàn chỉ huy và Đại Đội 2 do Đại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy; Chuyến thứ nhì gồm có Liên Đoàn Phó, Thiếu Tá Nguyễn văn Lân, cùng Đại Đội 3 do Đại Úy Phạm Châu Tài (có biệt danh là Hổ Xám) chỉ huy, và Đại Đội 4 do Đại Úy Đào Minh Hùng chỉ huy.

Sau khi được an toàn nhảy xuống trận địa, kiểm điểm quân đầy đủ, Trung Tá Huấn liền cho lệnh các đơn vị di chuyển đến chiếm cứ Ấp Srok Gòn, cận kề bên bãi đổ quân, bố trí xong xuôi, Trung Tá Huấn mở tần số truyến tin, liên lạc được với Tướng Hưng (Bộ Chỉ Huy Mặt Trận) và Đại Tá Lưỡng (Lực Lượng Dù) ở phía Nam để được hướng dẫn lộ trình an toàn cũng như tránh ngộ nhận giữa quân bạn trước khi tiến quân vào thành phố.” 28

Tu thu An Loc 11

Với các tăng viện này, quân số phòng thủ An Lộc tăng lên thêm được gần 3.000 quân, và quan trọng nhứt là giúp cho lực lượng phòng thủ tại đây lên tinh thần rất nhiều vì cả 2 đơn vị vừa được tăng viện đều là những đơn vị thiện chiến nhứt của QLVNCH.   Ngoài ra, Lữ Đoàn 1 Dù còn tạo ra được 2 điều rất quan trọng cho An Lộc: 1) Thiết lập được một bải đổ quân (LZ = Landing Zone) an toàn không những giúp cho việc tải thương mà còn tạo điều kiện tốt cho việc tiếp tế lương thực, đạn dược, và đổ quân tiếp viện; và, 2) Mang được vào cho mặt trận An Lộc 6 khẩu đại pháo 105 rất cần thiết để yểm trợ cho các đơn vị phòng thủ vì vào thời điểm đó tất cả các khầu pháo của quân phòng thủ An Lộc đã bị thiêu hủy hết rồi.  Các đơn vị của QLVNCH đã sẳn sàng chờ đợi đợt tấn công mới của Cộng quân.  Họ không phải chờ lâu.

Đợt tấn công thứ nhì: 19-22/4/1972

Cũng giống như tất cả moi cuộc tấn công của Cộng quân từ trước, luôn luôn áp dụng chiến thuật “tiền pháo hậu xung,” đêm 18-4 rạng sáng 19-4, các đơn vị pháo của Công Trường 9 đã rót hàng ngàn quả đại pháo và hỏa tiển vào các vị trí của quân phòng thủ An Lộc, và cuộc tấn công bằng chiến xa và bộ binh bắt đầu ngay vào sáng sớm ngày 19-4.

Có mấy điều cần ghi nhận về đợt tấn công này.  Điều thứ nhứt là, vì đã chiếm được nữa phía Bắc của thị trấn trong đợt một, phe Cộng sản nghĩ và tin chắc là với đợt tấn công lần thứ nhì nầy họ sẽ nuốt trọn An Lộc.  Vì vậy, đài phát thanh Hà Nội đã công bố là An Lộc đã được hoàn toàn “giải phóng” và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (CPCMLTCHMNVN) sẽ chính thức ra mắt tại An Lộc vào ngày 20-4-1972.29 Điều thứ nhì là đợt tấn công này, tuy cũng xảy ra tại nhiều địa điểm trong thị trấn An Lộc, nhưng rõ ràng là tập trung vào các địa điểm đóng quân của lực lượng mới tăng viện cho An Lộc là Lữ Đoàn 1 Dù, với mục tiêu là diệt cho được đơn vị thiện chiến này để làm mất tinh thần của quân phòng thủ An Lộc.

Bật mí:  Nha Sach Thang Long | Bộ Sách Giáo Khoa Lớp 8 Năm Học 2021-2022 (Sách giáo khoa) mới nhất

Trung Đoàn 275 của Công Trường 5 và Trung Đoàn 141 của Công Trường 7, với sự hỗ trợ của 6 chiến xa, đã đồng loạt tấn công vào các vị trí đóng quân của Lữ Đoàn 1 Dù tại Đồi Gió, Đồi 169 và ấp Srok Ton Cui.  Đơn vị chịu áp lực nặng nề nhứt của Lữ Đoàn 1 Dù là Tiểu Đoàn 6 tại Đồi Gió với Tiểu Đoàn Trưởng là Trung Tá Nguyễn Văn Đĩnh.  Đồi Gió cũng chính là căn cứ hỏa lực với 6 khẩu đại bác 105 ly của Lữ Đoàn 1 Dù.

“Trước áp lực quá nặng của địch quân, Ðại Tá Lưỡng cho phép Trung Tá Nguyễn Văn Ðĩnh, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 6 Nhày Dù, được toàn quyền quyết định về kế hoạch triệt thoái.

Trung Tá Ðĩnh cùng với hai Ðại Ðội 60 và 62 di chuyển theo ngọn đồi xuống ấp Srok Ton Cui, nơi đóng quân của Ðại Ðội 61. Trong khi đó, hai Ðại Ðội 63 và 64 còn lại do Thiếu Tá Phạm Kim Bằng chỉ huy vẫn tiếp tục án ngữ cao địa. Cánh quân do Trung Tá Ðĩnh chỉ huy bị Cộng quân chặn đánh. Những binh sĩ Nhảy Dù này đổi hướng và triệt thoái về hướng Nam. Sau đó, họ được trực thăng của Không Quân Việt Nam bốc về Lai Khê. Cánh quân còn lại của Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù và Bộ Chỉ Huy Lữ Ðoàn rút vào An Lộc. Riêng pháo đội đại bác 105 ly với 6 khẩu được lệnh phá huỷ tất cả súng trước khi rút lui.” 30

Mặc dù đạt được một phần mục tiêu là triệt tiêu được căn cứ hỏa lực của Lữ Đoàn 1 Dù với 6 khẩu 105 ly và buộc Tiểu Đoàn 6 phải rút khỏi Đồi Gió, nhưng Cộng quân đã không tiêu diệt được Lữ Đoàn 1 Dù.  Lữ Đoàn 1 Dù đã bảo toàn được lực lương và di chuyển an toàn vào bên trong An Lộc.  Ngoài ra, trong cuộc giao tranh tại khu vực này, toàn bộ 6 chiến xa của Cộng quân đã bị lực lượng Dù bắn cháy hết.

Trong thời gian này, các cuộc tấn công của các đơn vị của Công Trường 9, tại các địa điểm khác bên trong An Lộc, đều bị các lực lượng phòng thủ đẩy lui.  Phần phía Nam của thị trấn An Lộc vẫn hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của các đơn vị phòng thủ.  Ngày 20-4 qua đi.  Mục tiêu của đợt tấn công lần thứ nhì này của Cộng Quân, chiếm An Lộc để làm thủ đô cho CPCMLTCHMNVN, đã thất bại.  Ngày 21-4, Cộng quân còn cố gắng tấn công một lần nữa từ phía Nam nhưng cũng hoàn toàn thất bại do sự chống trả mãnh liệt của 2 Tiểu Đoàn 5 và 8 của Lữ Đoàn 1 Dù.  Đợt tấn công An Lộc lần thứ nhì này kết thúc vào tối ngày 22-4-1972.

Địa ngục trần gian tại An Lộc

An Lộc, trong suốt thời gian bị Cộng quân bao vây, đã được một ký giả Mỹ mô tả như là một địa ngục trần gian trong bài báo của tờ báo quân dội, Pacific Stars and Stripes, số ra ngày 1-5-1972, với tựa đề như sau: “An Lộc: a battlefield in Hell.” 31  An Lộc, với một diện tích khoảng 4 km vuông, đã phải gánh chịu mỗi ngày trên một ngàn quả đạn dủ loại, từ dại bác 105 ly, 155 ly, bích kích pháo, và hỏa tiển 122 ly.  Đó là không kể có những ngày, luôn luôn xảy ra trước những đợt tấn công dữ dội của chiến xa và bộ binh, mức độ pháo kích lên đến 5 hay 6 ngàn quả, và đặc biệt, vào ngày 11-5-1972, An Lộc phải chịu một trận mưa pháo trên 8.000 quả,32 được các phóng viên chiến trường quốc tế mô tả là khốc liệt nhứt trong toàn bộ cuộc chiến tranh Đông Dương.

Với mức độ pháo kích như vậy, cộng thêm vào các trận đánh ác liệt ngay trong thị trấn, có chiến xa tham dự bên phe tấn công và có đủ loại phi cơ yểm trợ bên phe phòng thủ, gần như không có một ngôi nhà nào còn nguyên vẹn, nếu không bị sụp đổ tan nát thì cũng bị thiệt hại rất nặng nề, như trong bức ảnh bên dưới đây:

Tu thu An Loc 12

Trung tâm thị trấn An Lộc sau đợt tấn công đầu tiên

Vì họ đã chiếm được những vị trí cao điểm chung quang thị trấn, như phi trường Quản Lợi, đồi Đồng Long ở phía Bắc, Đồi Gió và Đồi 169 ở phía Đông Nam, pháo binh của Cộng Quân đã pháo vào thị trấn rất chính xác.  Một sĩ quan cố vấn Hoa Kỳ có mặt tại An Lộc đã cho rằng khả năng sống sót nếu ở ngoài trời trong vòng 5 phút là vào khoảng 50%.33 Trong điều kiện chiến trường như vậy, tất cả mọi người trong thị trấn An Lộc, cả quân lẩn dân, đều phải sống trong hầm, đủ loại hầm, từ các hầm thật kiên cố như hầm của các bộ chỉ huy trung đoàn, lữ đoàn, sư đoàn, cho đến các hầm thật sơ sài của thường dân.  Mặc dù vậy, số thương vong của thường dân và binh sĩ do pháo kích cũng không phải là nhỏ.  Xác chết, kể cả xác súc vật, ngỗn ngang khắp nơi, tay chân bị đứt lìa do các mãnh pháo chặt đứt văng tứ tung, một số nằm vương vải ngay cả trên các cành cây còn chưa bị gảy đổ trong thị trấn.  Một phần khá lớn những xác chết này không được chôn cất nên, sau một thời gian, đã xình thúi, gây ô nhiểm không khí rất khủng khiếp.

Trước khi xảy ra trận đánh, An Lộc có một dân số khoảng 15.000.  Sau khi Lộc Ninh thất thủ, với cư dân của Lộc Ninh thoát chạy được về phía Nam, người ta ước lượng dân số của An Lộc, trong thời gian bị bao vây, có thể lên gần 20.000.  Dĩ nhiên, người dân cũng biết rằng An Lộc sẽ là mục tiêu tấn công kế tiếp của Cộng quân, nhưng họ không thể thoát ra khỏi An Lộc được vì Quốc Lộ 13 đã bị cắt đứt rồi.  Trong thời gian hai bên giao tranh, các vị lãnh đạo Công Giáo và Phật Giáo đã có mấy lần tìm cách đưa giáo dân rời khỏi An Lộc nhưng lần nào cũng vậy, Cộng quân đều pháo kích vào đoàn người di tản, gây thương vong rất lớn.  Ta hảy nghe một sĩ quan của Liên Đoàn 3 BĐQ tả lại cảnh tượng kinh hoàng này:

“Có một ngày vào buổi sáng, khi ngớt pháo, tôi vừa chui lên nóc trung tâm hành quân để quan sát chung quanh thì thình lình… tôi nghe tiếng loa phóng thanh phát lên yêu cầu hai bên ngưng chiến.  Loa phóng thanh được phát ra từ một đoàn người rất đông và rất dài, dẫn đầu bởi các nhà sư và các cha Công Giáo với cờ trắng trên tay phất qua phất lại. Lúc đó, Thiếu Tá Lạc, tiểu đoàn trưởng 36 BÐQ vừa gặp Trung Tá LÐT xong, nghe la hét cũng đến gần tôi trên nấp hầm trung tâm hành quân để quan sát.

Ðoàn người đi trên con đường trước mặt và hướng đông BCH/LÐ tiến về hướng Nam định rẽ qua QL.13 để di tản về hướng Nam. Khi đoàn người đi về hướng gần phòng tuyến tiểu khu thì bổng nghe tiếng pháo nổ ầm ầm hướng đó.  Quan sát kỹ thì tôi thấy đích thị địch đã không ngưng pháo, mà còn cố tình pháo thẳng vào đoàn người di tản trên.  Ðoàn người trúng đạn pháo kêu la thảm thiết, tiếng khóc của trẻ con vang dội đến khu tôi đang đứng.

Thiếu Tá Lạc thấy cảnh tượng kinh hoàng vì Việt Cộng quá dã man đối với người dân.  Ông nói cả Cha, Thầy, lẫn đàn bà con nít bọn chúng vẫn không tha thì quả thật là man rợi.  Lần pháo này dường như chúng có điềm chỉ nên đạn pháo rót chính xác vào đoàn ngươi làm thân xác họ văng tung tóe, tay chân văng máng trên các cành cây ven đường bởi dân chúng trên đường không có gì tránh né.  Một số họ chỉ chạy nằm sát gần những gốc cây lớn mà thôi.  Sau đợt pháo đó, dân chúng và cả Cha lẫn Thầy đều tan hàng trở về chốn cũ của mình.” 34

Người dân An Lộc cũng như người tỵ nạn từ Lộc Ninh chạy về không còn cách nào khác, đành phải tìm mọi cách sống còn cùng với các binh sĩ phòng thủ trong địa ngục trần gian này.

Vì đường giao thông và tiếp tế chính cho An Lộc là Quốc Lộ 13 đã bị cắt đứt ở phía Nam, và các phi trường cũng đã lọt vào tay địch, An Lộc chỉ còn được tiếp tế bằng cách thả dù.  Tuy nhiên, vì hệ thống phóng không dày đặc của địch, việc tiếp tế bằng cách thả dù do các phi cơ vận tải đã gặp rất nhiều khó khăn, phải thả các kiện hàng tiếp tế từ cao độ 5.000 bộ hay có khi còn cao hơn nữa.  Trong đợt tấn công đầu tiên, sau khi thực hiện tất cả 27 phi vụ trong vòng 48 giờ, chỉ có 34 trong số 135 tấn tiếp tế lọt được vào tay quân phòng thủ mà thôi.35 Tình trạng thiếu thốn lương thực và mọi thứ là một thực trạng kéo dài suốt thời gian mấy tháng của trận đánh.  Dân và quân An Lộc cùng sống chung với nhau trong hầm và cùng chia xẻ với nhau từng miếng ăn thức uống.  Chưa bao giờ, trong suốt thời gian 20 năm của cuộc chiến, tình quân dân cá nước thắm thiết như vậy.  Việc chửa trị thương tích cho thường dân và chiến sĩ mỗi ngày mỗi thêm khó khăn vì không những bệnh viện của Tiểu Khu Bình Long đã bị pháo kích phá hủy hoàn toàn mà ngay cả thuốc men, vật dụng, y cụ cũng đều khan hiếm.  Các bác sĩ phải sử dụng đến cả các sợi nylon rút ra từ bao cát, sau đó cho đun nước sôi khử trùng, để làm chỉ khâu may các vết thương sau khi giải phẩu.  Lâu lâu, lợi dụng lúc địch quân ngưng pháo kích, quân phòng thủ phải sử dụng các bulldozer để đào các hố to để chôn tập thể (từ 300 đến 500 xác) các xác chết của cả binh sĩ và thường dân.

“Kiểm tra tình trạng quân số và thương binh thì từ ngày 13-04-72 bắt đầu cuộc chiến đến nay, tổn thất thương vong các tiểu đoàn gần phần nửa.  Số người tử thương thì đã giải quyết chôn tại chỗ.  Số bị thương thì tồn đọng rất nhiều vì ngày nào cũng có nhiều thương binh nhưng không tản thương được.  Vì thế, quân y tạm thời giải quyết như sau: số người bị thương nhẹ còn đi đứng được thì sau khi băng bó xong cho trở về đơn vị, địch vào cầm súng bắn nữa.  Do đó có người bị thương 2 hoặc 3 lần hoặc nhiều lần.  Có người lần trước bị thương nhẹ, lần sau bị thương nặng.  Cũng có những thương binh nhẹ sau đó lại tử thương!  Còn những thương binh nặng để nằm đó chờ tản thương sống thoi thóp rồi có người mòn mỏi chềt dần.  Ðại Ðội 52 Quân Y báo cáo khu vực Trung Ðoàn 8 có cả ngàn quân nhân và thường dân bị thương nặng chờ tản thương nằm chật cả một dẫy phố Ðại Lộ Hoàng Hôn.  Những người còn lành mạnh thì rất mệt mỏi và gầy ốm vì phải chiến đấu hết ngày này sang ngày khác, không thì giờ nghỉ ngơi, thiếu ngủ, thiếu ăn, tinh thần lúc nào cũng căng thẳng, sinh mạng không biết sẽ chết lúc nào.  Lại nữa mùi hôi thối từ xác chết rất khó thở, ruồi lằn sinh sản nhanh kinh khủng!  Nước không đủ uống, lấy đâu mà tắm giặt, dơ bẩn, khó chịu, nhưng họ cũng phải ráng chịu, phấn đấu sống để mà chiến đấu, để bảo vệ quê hương và dân tộc không lọt vào tay Cộng Sản.” 36

Đợt tấn công lần thứ ba: 11-15/5/1972

Sau khoảng hơn 2 tuần lễ chấn chỉnh hàng ngũ, bổ sung quân số, và tái trang bị, tiếp tế, Cộng quân lại tung ra một đợt tấn công nữa vào sáng ngày 11-5-1972.  Một ngày trước đó, về phía cố vấn Mỹ có một thay đổi quan trọng: Đại Tá Miller, Cố Vấn Trưởng bên cạnh Tướng Hưng, hết nhiệm kỳ phục vụ tại Việt Nam và được thay thế bởi Đại Tá Walter Ulmer, một sĩ quan tốt nghiệp Trường Võ Bị West Point nổi tiếng, có kinh nghiệm và đã từng phục vụ 2 nhiệm kỳ một năm tại Việt Nam.  Việc thay đổi này có ảnh hưởng tốt cho mối quan hệ với Tướng Hưng vì, khác với Đại Tá Miller, Đại Tá Ulmer là một người bình tỉnh hơn, tế nhị hơn, và thông cảm hơn.

Đúng 4:30 sáng ngày 11-5-1972, trận pháo kích dữ dội vào An Lộc suốt từ 1 giờ sáng đột ngột chấm dứt: quân phòng thủ biết ngay là cuộc tấn công bằng bộ binh sắp sửa bắt đầu.  Và đúng như vậy, các đơn vị bộ binh của Công Trường 5 khởi sự tấn công từ phía Bắc, trong khi bộ binh của Công Trường 9 tấn công từ phía Tây, với sự yểm trợ của 40 chiến xa.37 Cuộc giao tranh lại tái diễn với hình thức và cường độ như hai lần trước.  Một chuyện mới trong đợt tấn công này là Cộng quân bắt đầu sử dụng hỏa tiển tầm nhiêt địa không SA-7 Strela do Liên Xô chế tạo để chống lại các phi cơ yểm trợ chiến thuật của Không Quân Việt-Mỹ, đặc biệt là nhắm bắn hạ các trực thăng gunship Cobra.

Ở phía Bắc, Trung Đoàn 8 BB và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù bị áp lực rất nặng từ các đơn vị của Công Trường 5, nhưng họ vẫn bám trận địa, chống trả dữ dội.  Về phía Tây, Trung Đoàn 7 BB cũng bị các đơn vị của Trung Đoàn 272 của Công Trường 9 tấn công dữ dội.  Lực lượng phòng thủ bắn cháy được 2 chiến xa, nhưng bộ binh địch vẫn tràn tới, tiến gần đến Bộ Chỉ Huy của Sư Đoàn 5 BB của Tướng Hưng   Tiểu Đoàn 3 của Trung Đoàn 7 BB phải rút lui để bảo toàn lực lượng.  Tình hình An Lộc lúc đó thật là nguy ngập.  Tướng Hưng ra lệnh cho Tiểu Đoàn 5 Dù từ phía Nam tiến lên để giải vây cho Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5.  Trong cuộc điện đàm ngay lúc đó với Đại Tá Trường, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 BB ở phía Bắc, Tướng Hưng đã nói như sau:

“Nếu địch tràn ngập Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 5 trước khi tiểu đoàn Dù tới thì tôi sẽ tự sát chớ không để cho địch bắt.  Vậy khi tôi chết rồi thì anh dắt Trung Ðoàn 8 đi theo Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Dù rút về Chơn Thành.” 38

Thật vô cùng may mắn, ngay lúc đó, lực lượng tấn công đã phạm một sai lầm lớn. Các đơn vị của Trung Đoàn 272, Công Trường 9, thay vì tràn xuống phía Đông Nam, họ lại đã tiến lên phía Đông Bắc, tấn công, tràn ngập, và chiếm được trụ sở của Ty Công Chánh tỉnh Bình Long.39 Sau đó, nhờ Tiểu Đoàn 5 Dù từ phía Nam lên, một tiểu đoàn BĐQ từ phía Đông sang, và Đại Đội 8 Trinh Sát của Trung Đoàn 8 BB từ phía Bắc xuống, Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 đã được an toàn.

Trong thời gian này, dưới sự điều động của tân Cố Vấn Trưởng Đại Tá Ulmer, các phi vụ yểm trợ chiến thuật cho An Lộc đã được gia tăng lên rất nhiều.  Nội trong ngày 11-5, đã có tất cả 297 phi vụ yểm trợ chiến thuật được thực hiện trên không phận An Lộc.  Sau đó, trong 4 ngày kế tiếp, mỗi ngày đều có khoảng 260 phi vụ yểm trợ cho An Lộc.  Về máy bay chiến lược B-52, nội trong 24 giờ của ngày 11-5 đã có tất cả 30 phi vụ, trong đó bao gồm cả 5 phi vụ B-52 mà Tướng Hollingsworth đã “vay mượn” từ Vùng II.  Lần này, các phi vụ B-52 đã “trải thảm” một cách chính xác ngoài sức tưởng tượng, có khi chỉ cách các lực lượng phòng thủ chừng vài trăm mét mà thôi.  Một trong các phi vụ B-52 này đã kịp thời giải nguy cho Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù ờ phía Đông Bắc khi Liên Đoàn sắp bị một trung đoàn của Công Trường 5 tràn ngập: B-52 đả “trải thảm” lên trung đoàn này chỉ cách vị trí của Liên Đoàn 81 có khoảng 500 m (600 yards).  Trung đoàn này của Công Trường 5 CS coi như đã bị xóa sổ.40

Đến chiều ngày 11-5 thì có thể xem như đợt tấn công vào An Lộc lần thứ ba này của Cộng Quân đã hoàn toàn thất bại: họ đã không thể chiếm được An Lộc.  Phần lớn số 40 chiến xa của họ đã bị tiêu hủy bên trong thị trấn, với một số vẫn còn nguyên, nhưng các binh sĩ thiết giáp đã bỏ chạy thoát thân.  Các đơn vị bộ binh đã bị các đơn vị phòng thủ và các phi vụ yểm trợ chiến thuật đánh tan tác.  Số tàn binh hoảng sợ cực điểm trước các trận bom của không quân Việt-Mỹ đã hoàn toàn mất tinh thần, bỏ hàng ngũ, chạy tán loạn vào các khu rừng cao su chung quanh thành phố, và một số lại làm mồi cho các phi vụ “trải thảm” của máy bay B-52.  Những ngày sau đó, Cộng quân vẫn còn tiếp tục mở những cuộc tấn công vào An Lộc nữa nhưng họ đã hoàn toàn mất đà rồi.  Tối ngày 15-5, toàn bộ các lực lượng tấn công còn lại của Cộng quân rút hết ra khỏi An Lộc.

Đợt tấn công lần thứ ba này đã hoàn toàn bị bẻ gảy, nhưng trận chiến vẫn chưa tàn vì Cộng quân vẫn còn bám trụ tại những phần đất họ đã chiếm được chung quanh thị trấn An Lộc.

QLVNCH phản công và phá vòng vây An Lộc

Về phía Bắc, ngày 10-6, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, mặc dù có tỷ lệ thương vong khá cao, đã tiến hành việc lục soát và tiêu diệt tất cả các ổ kháng cự của Cộng quân trong các khu phố đã bị họ chiếm giữ trước đây.  Hai ngày sau, khi đã kiểm soát xong và làm chủ được tình hình tại đây, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù bắt đầu thực hiện việc tái chiếm đồi Đồng Long, cách An Lộc khoảng nửa cây số về phía Bắc, mà Cộng quân đã chiếm giữ từ hai tháng nay.  Ta hảy nghe một người trong cuộc, Đại Úy Lê Đắc Lực của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, kể lại như sau:

“Đích thân Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn đã điều động Đại Đội 2 và Đại Đội 3 chia làm hai cánh, Đại Đội 3 do Đại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy, sẽ tiến quân từ hướng Đông và Đại Đội 2 do Đại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy, phối hợp cùng hai Toán Thám Sát do Thiếu Úy Lê Văn Lợi chỉ huy, sẽ tiến quân từ hướng Nam, tất cả lợi dụng vào nửa đêm trời tối, âm thầm, kín đáo bò sát lên đỉnh đồi, nằm ém quân tại chỗ, đợi cho đến khi trời vừa hừng sáng, sau khẩu lệnh xung phong của Đại Úy Sơn, tất cả đã đồng loạt nổ súng xối xả, tấn công vào các pháo tháp, hầm trú ẩn của địch quân, bọn địch dù đông, công sự phòng thủ vững chắc, nhưng quá bất ngờ, không kịp trở tay trước lối đánh thần tốc, táo bạo của Biệt Cách Dù, nên một số đã bị sát hại, số còn lại vừa định thần đã phản ứng chống trả, nhưng không ngăn cản được quyết tâm tái chiếm đồi Đồng Long của các Chiến sĩ Biệt Cách Dù, cuối cùng chúng cũng đã bị tiêu diệt, hay đã phải buông súng đầu hàng.

Hai Toán Thám Sát đã không chậm trễ, khai triển đội hình công hãm và thanh toán cứ điểm cuối cùng của địch trên chóp đỉnh, bốn tên địch quân ngoan cố cầm cự trong tuyệt vọng, để rồi phải phơi thây thảm khốc. Thiếu Úy Lợi và các Toán viên đã mừng rơi nước mắt, cùng cầm Quốc Kỳ Việt Nam Cọng Hòa cắm xuống ngay trên đỉnh Đồi Đồng Long.” 41

Với việc tái chiếm đồi Đồng Long, thị trấn An Lộc có thể xem như đã được giải tỏa.  Ngày 16-6-1972, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III, đã bay lên An Lộc và thăng cấp Đại Tá tại mặt trận cho Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù.42 

Tu thu An Loc 13 

Nghĩa trang tạm do chính các chiến sĩ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đích thân thực hiện cho    các đồng đội đã ngả xuống trong thời gian trận đánh còn đang diễn ra ác liệt.

(Nguồn: Tàn cơn binh lửa (10): An Lộc Địa của Lê Đắc Lực)

Tu thu An Loc 14

Nghĩa trang xây lại sau trận đánh cho các tử sĩ của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù tại An Lộc

(Nguồn: cùng một nguồn với ảnh trên)

Chính tại đây, trên bia chung của nghĩa trang, đã ghi lại hai câu thơ của cô giáo Nguyễn Thị Pha của Thị trấn An Lộc đã đi vào lịch sử của Miền Nam:

An Lộc địa sử ghi chiến tích

Biệt Cách Dủ vị quốc vong thân

Về phía Nam, việc giải tỏa Quốc Lộ 13 từ Chơn Thành lên An Lộc gặp khó khăn hơn rất nhiều vì các chốt chặn của Công Trường 7 cắt đứt nhiều đoạn giữa Lai Khê – Chơn Thành, và giữa Chơn Thành – Tân Khai, như có thể thấy trong tấm ảnh bên dưới đây:

 Tu thu An Loc 15

Bản đồ Quốc Lộ 13 với các “chốt” của Công Trường 7 giữa Lai Khê và Tân Khai           

Sau buổi họp ngày 6-4-1972 tại Dinh Độc Lập, Sư Đoàn 21 BB, với Tư Lệnh là Thiếu Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, 43 được lệnh di chuyển ngay từ Vùng IV lên tăng viện cho Vùng III.  Toàn bộ Sư Đoàn đã có mặt tại Lai Khê từ ngày 12-4 và phân ra đóng quân như sau: 1) Trung Đoàn 31 ở khu vực Ấp Suối Tre; 2) Trung Đoàn 32 ở phía Nam Chơn Thành; 3) Trung Đoàn 33 ở phía Bắc Lai Khê; và 4) Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh ngay tại Lai Khê.

Với quyết tâm khóa chặt Quốc Lộ 13 từ Lai Khê lên An Lộc, ngăn chận không cho Sư Đoàn 21 BB tiến lên tăng viện và giải vây cho An Lộc, các đơn vị của 2 Trung Đoàn 165 và 209, thuộc Công Trường 7 (từ giữa tháng 5-1972 có thêm một số đơn vị của Công Trường 9 tăng viện) đã đặt rất nhiều chốt chặn khiến cho Sư Đoàn 21 BB đã gặp rất nhiều khó khăn, phải đánh nhiều trận lớn dọc theo Quốc Lộ 13 trong 3 tháng 4-5-6/1972 (xem bản đồ bên trên).  Cả 2 bên đều bị thiệt hại nặng với số thương vong rất cao: 1) về phía Sư Đoàn 21 BB, tính đến ngày 26-5-1972, trên quân số 12.000, số thương vong đã đạt đến khoảng 50%, trong đó có 1 sĩ quan cao cấp là Đại Tá Trương Hữu Đức (truy thăng Chuẩn Tướng), Chiến Đoàn Trưởng, Chiến Đoàn Đặc Nhiệm 52, tử trận tại Chơn Thành vì trúng đạn của Cộng quân khi đang bay trực thăng chỉ huy ; 2) về phía Cộng quân, nhiều đại đội (quân số thường khoảng 150-200) của Trung Đoàn 209 chỉ còn 10 người.44   Từ giữa tháng 5-1972, với tình hình Sư Đoàn 21 gặp khó khăn lớn trên Quốc Lộ 13, Trung Đoàn 15, thuộc Sư Đoàn 9 BB (Trung Đoàn Trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn 45), được lệnh di chuyển từ Vùng IV lên tăng viện cho Sư Đoàn 21.

Tân Khai là một xã cách An Lộc về phía Đông Nam độ 9 km với địa thế trống trải không thuận lợi cho việc đặt các chốt chặn nên Cộng quân không đóng quân ở đó.  Nhận ra lợi điểm này, ngày 15-5, Trung Tướng Minh cho thành lập một Chiến Đoàn Đặc Nhiệm (Task Force) dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Cẩn, gồm Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh, 1 tiểu đoàn bộ binh lấy từ Trung Đoàn 15 của Sư Đoàn 9 BB, và Pháo Đội C gồm 3 khẩu 105 ly lấy từ Tiểu Đoàn 93 Pháo Binh.  Chiến Đoàn này đi vòng, bỏ qua chốt chặn của Cộng quân tại Suối Tàu Ô, tiến lên chiếm Tân Khai.  Cùng lúc một tiểu đoàn thứ hai, cũng của Trung Đoàn 15, Sư Đoàn 9, được trực thăng vận lên một địa điểm cách Tân Khai khoảng 1,5 km về phía Đông, lục soát, bảo vệ an ninh để chuẩn bị cho các đợt chuyển quân kế tiếp lên Tân Khai.  Các ngày kế tiếp, các đơn vị còn lại của Trung Đoàn 15 được trực thăng vận lên Tân Khai, cùng lúc với các trực thăng Chinook của Không Quân VNCH và trực thăng Sikorsky của Hoa Kỳ mang các cổ đại bác 105 ly và 155 ly để thiết lập căn cứ hỏa lực Long Phi tại Tân Khai với nhiệm vụ yểm trợ cho An Lộc.  Đến ngày 18-5, Trung Đoàn 15 đã hoàn toàn kiểm soát được khu vực chung quanh căn cứ hỏa lực Long Phi tại Tân Khai

Nhận ra sơ hở để mất Tân Khai, Cộng quân lập tức phản công.  Sáng ngày 20-5, Trung Đoàn 141 của Công Trường 7, có chiến xa yểm trợ, lập tức tấn công căn cứ hỏa lực Tân Khai.  Cuộc giao tranh tại Tân Khai kéo dài cả mấy tuần lễ và mang lại thương vong rất cao cho cả 2 phe.

Sáng ngày 4-6-1972, Tiểu Đoàn 6 Dù, sau khi đã bổ sung quân số và tái trang bị, được trực thăng vận lên Tân Khai, cùng với các tiểu đoàn của Trung Đoàn 15, chia làm 2 cánh, hành quân giải tỏa Quốc Lộ 13 từ Tân Khai lên An Lộc.  Sau 4 ngày chiến đấu ác liệt, Tiểu Đoàn 6 Dù đã nhổ xong được hết tất cả các chốt của Công Trường 7, và:

“đúng 17 giờ 15 ngày 8 tháng 6, Đại Úy Ngô Xuân Vinh, Đại Đội Trưởng Đại Đội 62, đứng lên mặt đường nhựa, ngã ba vào xã Thanh Bình (đồn điển Xa Cam), bắt tay với Đại Úy Trương Ngọc Ni, Đại Đội Trưởng 81 Nhảy Dù, đơn vị cực Nam của An Lộc, để đánh dấu một chiến thắng quan trọng ngày giải tỏa AN LỘC.” 46

Việc liên kết được giữa hai tiểu đoàn Dù, cũng như giữa các đơn vị của Trung Đoàn 15 với các đơn vị phòng thủ phía Nam của An Lộc, khởi đầu cho việc giải tỏa hoàn toàn An Lộc.  Vòng đai phòng thủ An Lộc được mở rộng, các phi vụ trực thăng đã có thể đáp an toàn để thực hiên các công tác tải thương, tiếp tế, thay quân cho An Lộc.  Ngày 13-6, Trung Đoàn 48 thuộc Sư Đoàn 18 BB được trực thăng vận từ Lai Khê lên An Lộc để bắt đầu thay thế cho các đơn vị đã bị thiệt hại quá nặng và quá mệt mõi, gần như kiệt sức, của Sư Đoàn 5 BB.  Ngày 17-6, các đơn vị của Trung Đoàn 48 đã hành quân, tiến chiếm các ngọn đồi ở phía Nam An Lộc và, từ các vị trí cao điểm thuận lợi này, đã hướng dẫn cho các phị tuần không quân Mỹ-Việt oanh kích các vị trí còn sót lại của Cộng quân ở phía Bắc và phía Tây của thị trấn.  Nhờ vậy Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù và Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân đã chiếm lại được toàn bộ phía Bắc của An Lộc, và Trung Đoàn 7 của Sư Đoàn 5 cũng đã chiếm lại được phần phía Tây của An Lộc mà Cộng quân đã chiếm giữ từ ngày 11-5.47 Mặc dù vẫn còn những vụ pháo kích lẻ tẻ của Cộng quân vào thị trấn, với An Lộc đã trở thành bình địa, nhưng toàn bộ thị trấn đã hoàn toàn nằm trong sự kiểm soát của các đơn vị QLVNCH.

Tu thu An Loc 16

Không ảnh cho thấy Thị trấn An Lộc đã trở thành bình địa

Ngày 18-6, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III, sau khi cùng với Cố Vấn Trưởng là Thiếu Tướng Hollingsworth bay lên An Lộc trước đó 2 ngày, đã tuyên bố là cuộc bao vây An Lộc của Cộng quân đã bị bẻ gảy hoàn toàn.  Ngày 24-6, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù và Lữ Đoàn 1 Dù được lệnh rời khỏi An Lộc để ra Vùng I tăng viện cho mặt trận Quảng Trị.

Ngày 7-7-1972, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã đích thân bay vào An Lộc, thăm viếng, ủy lạo, gắn huy chương và thăng cấp tại mặt trận cho một số các vị chỉ huy lực lượng phòng thủ An Lộc.  Đồng thời, ông cũng ra quyết định, lần đầu tiên trong lịch sử của QLVNCH, thăng lên một cấp cho tất cả mọi quân nhân đã có mặt tại đây trong thời gian cuộc tử thủ diễn ra.

Tu thu An Loc 17

Ảnh chụp ngày 7-7-1972 khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm An Lộc

Từ trái qua phải: Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III, Đại Tá Bùi Đức Điềm, Phụ Tá Hành Quân Sư Đoàn 5 BB, Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, và Đại Tá Trần Văn Nhựt, Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Long.

 

Thay Lời Kết   

Trận An Lộc, diễn ra trong 3 tháng 4-5-6 năm /1972 với cường độ ác liệt chưa từng có trước đó, đã kết thúc với chiến thắng anh dũng, oai hùng, và rất đáng được ca ngợi của các đơn vị của QLVNCH đã tử thủ tại đó.  Cả 2 phe lâm chiến đều phải trả một giá rất đắt với tỷ lệ thương vong rất cao và thiệt hại về chiến cụ rất lớn.  Điều đau thương nhứt của trận đánh này là thiệt hại về nhân mạng và tài sản vô cùng lớn lao của người dân địa phương bị kẹt lại tại An Lộc trong suốt thời gian của trận chiến, thể hiện qua câu chuyện nhỏ rất thương tâm và kinh hoàng sau đây của hai bé gái đã sống sót qua suốt thời gian của trận đánh:

“Để chuẩn bị cho cuộc tấn công tái chiếm Đồi Đồng Long, trong lúc khai triển đội hình khi đến gần chân đồi với đầy dẫy cây rừng hoang dại, các Chiến Sĩ Đại Đội 2 Biệt Cách Dù đã phát hiện một căn hầm, nằm khuất lấp dưới những tấm ván gỗ và những cỏ cây xác xơ vì bom đạn.  Các Binh sĩ áp sát đến miệng hầm, họ nghe vài ba tiếng động sột soạt nhỏ phát ra từ bên trong. Rất thận trọng, họ chưa vội nổ súng hay tung lựu đạn mà chỉ phát lời kêu gọi đầu hàng, đồng thời cấp báo ngay về Bộ Chỉ Huy Hành Quân, Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn ra lệnh Đại Úy Sơn cho Binh sĩ quan sát kỹ càng, có thể là địch quân mà cũng có thể là đồng bào, nhưng bất kể họ là ai, với hơn hai tháng chiến trận xảy ra nơi đây, không lương thực, nước uống, thì đâu còn sức đề kháng để chống cự, phải tìm mọi cách đưa họ ra khỏi căn hầm đó.  Và thật không thể tưởng tượng được, chỉ vài ba phút sau đó, có hai em bé gái khoảng chừng 6, 7 tuổi bò ra, trên người chỉ còn những mảnh vải rách nát, tả tơi che thân, đất bùn, ghét bẩn bám đen xì trên thân thể khô cằn, còm cỏi, chỉ còn da bọc xương, hai mắt sâu hoắm trên một khuôn mặt hốc hác, ngây dại, thờ thẩn, giọng nói khàn đục, thiểu não, nhìn hai bé chẳng khác gì hai bộ xương biết đi, thật quá đổi thương tâm, đau lòng, không ai có thể cầm được nước mắt.

Trung Tá Chỉ Huy Trưởng đã mang hai bé về Bộ Chỉ Huy Hành Quân và giao cho Ban Quân Y của Bác Sĩ Nguyễn Thành Châu khám nghiệm, chữa trị, chăm sóc cho đến khi hai bé tạm bình phục và hai bé đã kể lại mọi sự việc như sau: “Hai cháu tên là Hà Thị Loan và Hà Thị Nở, con của Trung Sĩ Hà Văn Hiến, phục vụ tại Tiểu Khu. Khi Việt cọng tấn công, pháo kích vào An Lộc, Mẹ cỏng em trai 4 tuổi và đắt hai cháu chạy giặc, thì bất ngờ Mẹ bị trúng đạn pháo chết ngay tại chổ, em trai bị thương nặng ở chân.  Chúng cháu liền cỏng em trai chạy xuống ẩn trú trong một cái hầm kế cận chân đồi Đồng Long, trong đêm hôm đó em trai cháu chết, qúa khó khăn để chôn cất, nên chúng cháu để xác em trai nằm bên cạnh cho đến thối rửa chỉ còn bộ xương.  Chúng cháu trốn ở đó suốt hơn hai tháng, lúc đầu may nhờ có một số cơm gạo sấy của ai bỏ lại đã ăn dần, về sau ăn sống luôn mấy con gà con lạc mẹ đang trốn chung trong hầm.  Cạn kiệt lương thực, đói qúa ban đêm khi không còn nghe tiếng đạn pháo kích, thì mò ra khỏi hầm kiếm rau cỏ mà ăn.  May nhờ đến ngày hôm nay được các bác tìm thấy mà cứu sống các cháu.” 48

 

Ghi Chú:

  1. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy. Lược sử Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.  San Jose, Calif.: Hương Quê, 2011.  175-176.  Trung Tướng Nguyển Văn Minh, sinh tháng 2-1929 tại Sài Gòn, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy Khóa 4 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt vào ngày 1-12-1951.  Ông có biệt danh là “Minh đờn” vì lúc chưa nhập ngữ ông thường đi đờn cho các vũ trường ở Sài Gòn.  (QLVNCH có tất cả 4 vị Tướng mang tên Minh với biệt danh như sau: 1) Đại Tướng Dương Văn Minh là Minh Cồ vì to con; 2) Trung Tướng Trần Văn Minh là Minh Nhỏ; 3) Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân, là Minh Đù, vì hay chưởi thề; và 4) Trung Tướng Nguyễn Văn Minh là Minh Đờn).  Trong thời gian Đệ Nhứt Cộng Hòa, ông thường đãm nhận các chức vụ hành chánh như Quận Trưởng Đức Hòa (1956?-1958), Tỉnh Tưởng An Giang (1959-1963).  Ngày 21-3-1965, đang mang cấp bậc Đại Tá, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh; ngày 1-11 cùng năm ông vinh thăng Chuẩn Tướng.  Năm 1968, lúc đang mang cấp bậc Thiếu Tướng, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô.  Ngày 23-2-1971, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Vùng III, thay Tướng Đỗ Cao Trí tử nạn trực thăng.  Nói chung, các chức vụ ông được bổ nhiệm phần lớn là vì chính trị.  Ông không phải là một tướng có nhiều kinh nghiệm chiến trường.
  2. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy. sđd, tr. 384-388. Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng sinh ngày 27-3-1933 tại Hóc Môn, tỉnh Gia Định, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy, Khóa 5 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào ngày 1-2-1955.  Khác với Tướng Nguyễn Văn Minh, ông là một sĩ quan tác chiến, từng nắm giữ các chức vụ Trung Đội Trưởng, Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trường, Trung Đoàn Trưởng, và nhiều lần thăng cấp đặc cách tại mặt trận.  Ngày 14-6-1971, đang mang cấp bậc Đại Tá, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB.  Và ngày 9-3-1972, nhân dịp lễ kỷ niệm thứ 17 ngày thành lập Sư Đoàn 5 BB, ông được vinh thăng Chuẩn Tướng do chính Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (cũng là một cựu Tư Lệnh của Sư Đoàn 5 BB) đích thân gắn cấp bậc Chuẩn Tướng cho ông.  Ngày 30-4-1975, với cương vị Tư Lệnh Phó Quân Đoàn IV, ông tuẩn tiết bằng súng lục vào lúc 20 giờ 45 tại tư dinh ở Cần Thơ.
  3. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy. sđd, tr. 463-465. Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, sinh ngày 22-8-1933 tại Sơn Tây, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn Úy, Khóa 2 Lê Lợi, Trường Võ Bị Địa Phương Huế ngày 1-10-1951.  Khởi nghiệp từ Binh chũng Nhảy Dù, sau chuyển sang Bộ Binh và lần lượt giữ các chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng, rồi Trung Đoàn Trưởng của Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 BB.  Từ giữa năm 1971, ông là Đại Tá Tư Lệnh Phó của Sư Đoàn 5 BB.  Ngày 7-11-1973, ông được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB.  Ngày 1-11-1974, ông vinh thăng Chuẩn Tướng.  Trưa ngày 30-4-1975, ông dùng súng lục tuẩn tiết tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB.
  4. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy, sđd, tr. 454-456. Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, sinh tháng 3-1936 tại Bạc Liêu, tốt nghiệp Khóa 12 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt với cấp bậc Thiếu Úy ngày 2-12-1956.  Ngày 1-3-1972, với chức vụ Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8, Sư Đoàn 5 BB, ông vinh thăng Đại Tá.  Tháng 11-1974, ông được bổ nhiệm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB.  Ngày 26-4-1975, ông vinh thăng Chuẩn Tướng.  Sau 1975, ông bị học tập cải tạo 17 năm ở Miền Bắc.  Hiện dịnh cư tại thành phố Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
  5. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy, sđd, 417-419. Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, sinh ngày 17-12-1935 tại Sài Gòn, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy, Khóa 10 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt ngày 1-6-1954.  Ông đã từng giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC), Tư Lệnh Phó kiêm Tham Mưu Trưởng Lữ Đoàn TQLC, và Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 48, Sư Đoàn 18 BB trước khi được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Bình Long vào tháng 1-1970.  Ngày 7-7-1972, sau chiến thắng An Lộc, ông thăng Đại Tá thực thụ.  Ngày 27-8-1972, ông đươc cử làm Tư Lệnh Sư Đoàn 2 BB, và ngày 1-11-1972 ông vinh thăng cấp Chuẩn Tướng.  Sau năm 1975, ông định cư tại thành phố Houston, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ.
  6. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến. Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường.  Tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://www.saigonhdradio.com/index.php?option=com_content&view=article&id=823:trn-an-lc-93-ngay-em-t-chin-phn-th-3&catid=88:an-lc-s&Itemid=118
  7. Willbanks, James H. The Battle of An Loc.  Bloomington: Indiana University Press, 2005.  17.  Tác giả ghi như sau: “A subset of Giap’s strategy called for a Communist Provisional Revolutionary Government to be established in An Loc as a precursor for the assault on Saigon.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Một phần của chiến lược của ông Giáp là kêu gọi thành lập một Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Sản tại An Lộc như một bước đầu đề tiến đánh Sài Gòn.”)
  8. Andradé, Dale. America’s last Vietnam battle: halting Hanoi’s 1972 Easter Offensive.  Lawrence: University Press of Kansas, 2001.  344, tác giả viết như sau: “Beginning in February 1972, U.S. intelligence stressed that Tay Ninh was the most likely target of a North Vietnamese offensive on the region.”  Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Vào đầu tháng 2-1972, tình báo Hoa Kỳ nhấn mạnh là Tây Ninh sẽ là mục tiêu của một cuộc tấn của quân Bắc Việt trong vùng.”)
  9. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến, Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.
  10. Willbanks, James H., sđd, tr. 44-45.
  11. Willbanks, James H., sđd, tr. 55-61.
  12. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến, Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.
  13. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến. Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.  Sách của hai tác giả Mỹ đã trích dẫn đều ghi rằng Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh đã ra hàng địch.  Điều này chắc chắn đã dựa vào lời kể lại của các cố vấn Mỹ sống sót sau trận Lộc Ninh (họ đã bị bắt làm tù binh và được trao trả lại cho Hoa Kỳ sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27-1-1973).  Nhưng điều này khó tin vì các lý do sau đây: 1) Đại Tá Vĩnh cũng đã được trao trả cho VNCH sau Hiệp Định Paris; 2) Sau khi An Ninh Quân Đội của QLVNCH điều tra rõ sự việc, ông đã được phục hồi cấp bậc cũ và được bổ nhiệm làm Quân Vụ Trưởng Quân Vụ Thị Trấn tại Sài Gòn cho đến ngày 30-4-1975: 3) Sau năm 1975, ông bị đi cải tạo cho đến năm 1988 mới được thả về; 4) Ông sang Hoa Kỳ theo diện HO năm 1993, sống tại Nam California cho đến khi qua đời vào ngày 23-2-2017, hưởng thọ 90 tuổi.  Xin xem thêm hai tài liệu trực tuyến sau đây:  http://nguyentin.tripod.com/dt_nguyencongvinh.htm và  https://www.nguoi-viet.com/tuong-nho/tuong-nho-co-dai-ta-nguyen-cong-vinh/
  14. Willbanks, James H., sđd, tr. 54.
  15. Nguyễn Quốc Khuê. Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân với trận chiến An Lộc – Bình Long, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://www.nguoi-viet.com/cuu-chien-binh/ccb-t4-lien-doan-3-biet-dong-quan-voi-tran-chien-loc-binh-long/   Liên Đoàn 3 BĐQ do Trung Tá Nguyễn Văn Biết làm Liên Đoàn Trưởng, gồm có 3 tiểu đoàn: 1) Tiểu Đoàn 31 do Thiếu Tá Trương Khánh làm Tiểu Đoàn Trưởng; 2) Tiểu Đoàn 36 do Thiếu Tá Tống Viết Lạc làm Tiểu Đoàn Trưởng; và 3) Tiểu Đoàn 52 do Thiếu Tá Lê Quý Dậu làm Tiểu Đoàn Trưởng.
  16. Ngô Quang Trưởng. The Easter Offensive of 1972.  Washington, D.C.: US Army Center of Military History, 1980.  116-117.
  17. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến, Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.
  18. Willbanks, sđd, tr. 79.
  19. Nguyễn Văn Dưỡng. Tướng Lê Văn Hưng tuyên bố “tử thủ An Lộc,” tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://dongsongcu.wordpress.com/2017/09/06/tuong-le-van-hung-tuyen-bo-tủ-thủ-an-lọc/
  20. Vũ Văn Bảo. QLVNCH: Phi Đoàn 237 CH-47A Chinook,” tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://chauxuannguyen.org/2016/03/18/qlvnch-phi-doan-237-ch-47a-chinook-vu-van-bao/
  21. Nguyễn Văn Dưỡng. Inside An Lộc: the battle to save Saigon, April – May 1972 / Van Nguyen Duong with Nghia M. Vo.  Jefferson, N.C.: McFarland, 2016.  98-99.  Trong thời gian trận An Lộc, tác giả là Thiếu Tá, Trưởng Ban 2 (Tình báo) của Sư Đoàn 5 BB.  Ông thăng cấp lên Trung Tá khi trận An Lộc chấm dứt.  Ông cũng là bạn đồng khóa 5 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức với Tướng Hưng.
  22. Kỷ niệm 40 năm chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”: những điều chưa biết về “pháo đài chiến lược” B-52 của Không Quân Mỹ, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://thethaovanhoa.vn/the-gioi/nhung-dieu-chua-biet-ve-phao-dai-chien-luoc-b52-cua-khong-quan-my-n20121218112605556.htm
  23. Andradé, Dale, sđd, tr. 396-397.
  24. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy, sđd, tr. 404-407. Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, sinh tháng 8-1932 tại tỉnh Bình Dương, tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu Úy Khóa 4 Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào tháng 7-1954.  Tình nguyện vào Binh chũng Nhảy Dù, và lần lượt nắm giữ các chức vụ chỉ huy từ Trung Đội Trưởng, Đại Đội Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng, và Lữ Đoàn Trưởng, trước khi thăng lên cấp Chuẩn Tướng và làm Tư Lệnh Sư Đoàn Dù vào ngày 1-11-1972.  Sau năm 1975, ông định cư tại thành phố Bakerfield, tiểu bang California, Hoa Kỳ.  Ông mất ngày 21-9-2005 tại nơi định cư, hưởng thọ 73 tuổi.
  25. Nguyễn Văn Dưỡng, Inside An Lộc, sđd, tr. 107-111.
  26. Nguyễn Văn Ức. Phi Đoàn 221 trực thăng, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://hung-viet.org/a21141/phi-doan-221-truc-thang  Thiếu Tá Nguyễn Văn Ức về sau thăng cấp lên Trung Tá và được bổ nhiệm vào chức vụ Không Đoàn Phó Không Đoàn 64 Chiến Thuật, thuộc Sư Đoàn 4 Không Quân ở Cần Thơ.
  27. Vương Hồng Anh. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù ở Bình Long 1972, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://ongvove.wordpress.com/2012/03/05/l%E1%BB%AF-doan-1-nh%E1%BA%A3y-du-%E1%BB%9F-binh-long-1972/
  28. Đại Tá Phan Văn Huấn / Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://conhungnguoianh.blogspot.ca/2012/03/ai-ta-phan-van-huan-lien-oan-81-biet.html
  29. Ngô Quang Trưởng, sđd, tr. 123.
  30. Vương Hồng Anh, tài liệu đã dẫn.
  31. Willbanks, sđd, tr. 99.
  32. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến, Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.
  33. Willbanks, sđd, tr. 98.
  34. Nguyễn Quốc Khuê. Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân với trận chiến An Lộc – Bình Long, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên,
  35. Willbanks, sđd, tr. 104.
  36. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến, Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.
  37. Andradé, Dale, sđd, tr. 432.
  38. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến, Phần 3: hồi ký của Chuẩn Tướng Mạch Văn Trường, tài liệu trực tuyến đã dẫn bên trên.
  39. Andradé, Dale, sđd, tr. 432.
  40. Andradé, Dale, sđd, tr. 434.
  41. Lê Đắc Lực. Tàn cơn binh lửa (10): An Lộc Địa, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vantuyen.net/2014/11/10/le-dac-luc-tan-con-binh-lua-10-an-loc-dia/
  42. Phạm Châu Tài. Trận An Lộc 93 ngày đêm tử chiến.  Kỳ 15: An Lộc, chiến trường đi không hẹn, tài liệu trực tuyến có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://saigonhdradio.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1211:trn-an-lc-93-ngay-em-t-chin-k-15&catid=88:an-lc-s&Itemid=118
  43. Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy, sđd, tr. 181-182. Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, sinh tháng 10-1932 tại Gia Định, tốt nghiệp Khóa 5 Trường Võ Bị Liên Quân Đà lạt với cấp bậc Thiếu Úy vào ngày 24-4-1952.  Ông thăng cấp Thiếu Tá ngày 1-1-1955 và làm Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 21 BB.  Ông thăng cấp Đại Tá tháng 2-1966, và ngày 16-3-1968 ông được cử làm Tư Lệnh Sư Đoàn 21 BB. Ông thăng cấp Chuẩn Tướng ngày 16-9-1969 và cấp Thiếu Tướng ngày 16-9-1970.  Ngày 3-5-1972, ông bàn giao Sư Đoàn 21 BB cho Chuẩn Tướng Hồ Trung Hậu, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Dù và ngày hôm sau, 4-5-1972, ông được cử làm Tư Lệnh Quân Đoàn IV thay thế Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đi làm Tư Lệnh Quân Đoàn I.  Ngày 1-3-1974, ông vinh thăng Trung Tướng.  Ngày 1-11-1974, ông bàn giao chức vụ Tư Lệnh Quân Đoàn IV cho Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam và đi làm Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh Thủ Đức.  Cuối tháng 3-1975, ông được cử làm Tư Lệnh Phó kiêm Tư Lệnh Tiền Phương cho Quân Đoàn III tại Phan Rang.  Ông bị Cộng quân bắt làm tù binh tại đây vào tối ngày 16-4-1975 cùng với Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang, Tư Lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân.  Ông bị giam trong trại cải tạo cho đến 1988 mới được thả về, và đã đi định cư tại Hoa Kỳ, theo diện HO, từ 1992.
  44. Willbanks, sđd, tr. 134.
  45. Hồ Ngọc Cẩn (đại tá), tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93_Ng%E1%BB%8Dc_C%E1%BA%A9n_(%C4%91%E1%BA%A1i_t%C3%A1)#Qu%C3%A2n_l%E1%BB%B1c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là một trong số rất hiếm những sĩ quan cao cấp của QLVNCH đã từng là Binh Nhì thăng dần lên đến cấp Đại Tá.  Chức vụ cuối cùng là Tỉnh Trưởng Chương Thiện.  Sau ngày 30-4-1975, ông vẫn tiếp tục chiến đấu cho đến khi bị quân CS bắt được.  Ông bị CS xử bắn vào ngày 14-8-1975 tại sân vận động Cần Thơ.  Lúc đó ông mới được 37 tuổi.
  46. Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, tài liệu trực tuyến, có thể đọc toàn văn tại địa chỉ Internet sau đây: http://nhaydu.com/index_83hg_files/main_files/TieuSu-TDND/TS-TD6ND.pdf
  47. Willbanks, sđd, tr. 142.
  48. Lê Đắc Lực. Tàn cơn binh lửa (10): An Lộc Địa, tài liệu trực tuyến đã dẫn.

 

Phối hợp với chiến trường trọng điểm, lực lượng vũ trang Bình Long cùng với bộ đội chủ lực tấn công và làm chủ hoàn toàn cứ điểm quân sự trọng điểm của địch trên đường 13: Sư đoàn 7 Quân giải phóng triển khai. chướng ngại vật dọc đường 13 từ ngã ba Đồng Tâm vào thị trấn an lộc và từ bên phía nam thị trấn an lộc đến quận phía bắc Chơn Thành. Trong khi lực lượng vũ trang Bình Phước đẩy mạnh các hoạt động diệt địch, du kích xã của huyện Hớn Quản tổ chức trừng trị bọn gian ác, giải tán các xã ủy, kêu gọi binh lính ra hàng.

Ngày 13-4-1972, trong khi bộ đội chủ lực bí mật tấn công thị xã Bình Long thì lực lượng vũ trang tỉnh, đội công tác huyện và du kích xã tập trung tiêu diệt trung đội bảo an đóng ở ấp chiến. Chiến lược Xa – Cô – Cô – độc, truy lùng gián điệp, phá bộ máy kìm kẹp của địch, đánh chiếm và kết thúc đồn Xa – Cô – Đơn do đại đội bảo an đóng. Một bộ phận vũ trang huyện Hớn Quản và du kích Phước An đã hỗ trợ trung đội dân quân ấp chiến lược Tổng Củi nổi dậy khởi nghĩa giành thắng lợi, phá ấp chiến lược Tổng Củi.

Khi các đơn vị tiến công thị xã, Tiểu đoàn 368 của tỉnh và lực lượng vũ trang huyện Hớn Quản tiến công đồn An ninh Phú Miêng, đồn Quản Lợi, đồn dân quân Phú Lát, bao vây và tiêu diệt. ngụy ủy, kêu gọi dân quân, bảo an đầu hàng. Tại Sóc Gòn, quân cách mạng đánh trả quyết liệt một tiểu đoàn biệt kích ngụy, diệt 40 tên khi chúng cố giành lại vị trí. Ta liên tục đánh địch phản kích, tiêu hao và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu vùng ven và kìm chân địch để bộ đội chủ lực tiến công các vị trí trong nội thành, lúc đó bộ đội chủ lực địa phương đã được lệnh chuyển sang phối hợp với bộ đội chủ lực miền đánh chiếm Núi Gió và cao điểm 169, tiêu diệt gần hết tiểu đoàn ngụy và sở chỉ huy lữ đoàn dù.

Ở vùng ven thị xã, các mũi nhọn, du kích vận động quần chúng nổi dậy diệt ác, diệt cộng, kêu gọi binh lính ra đầu hàng. Ở Xa Cam, Xa Cát, Văn Hiến… hàng chục dân vệ bỏ súng theo cách mạng, một số cơ sở bí mật ở Xa Cát vận động thuyết phục 29 chiến sĩ dân phòng trở về với cách mạng.

Suốt 32 ngày đêm (từ 5-4 đến 16-5-1972) trên chiến trường Bình Long, Đường 13 đã diễn ra những trận đánh vô cùng ác liệt, vòng vây của quân ta ngày càng siết chặt các căn cứ, đơn vị. kẻ thù trong thị trấn. Nhiều trận đánh diễn ra ác liệt trong nội thành như: Đại lộ Hoàng Hôn, khu vực nhà thờ, khu vực chợ thị trấn… Ta và địch giành giật, giành lại từng bức tường, từng ngôi nhà. Địch tập trung hỏa lực đánh phá nội thành nhằm ngăn chặn bước tiến của ta. Trong thời gian này, địch đã sát hại hàng nghìn đồng bào, nhân dân, hầu hết nhà cửa, tài sản của nhân dân bị phá hủy hoàn toàn.

Ngày 15-5-1972, do yếu tố bất ngờ của chiến dịch không còn và do lực lượng cách mạng bị tổn thất nhiều, không được bổ sung kịp thời để đối phó khi địch tập trung các loại phương tiện chiến tranh để đánh địch. Để thông đường 13, giải phóng thị xã An Lộc, Bộ chỉ huy Miền quyết định không tiến công thị xã mà chuyển sang bao vây, cô lập địch trong thị xã, dùng lực lượng mạnh. Các chốt chặn ở Tàu Ô, Tân Khai đánh địch càn quét giải tỏa đường 13, hạt tiêu tiêu diệt sinh lực địch. Lúc này, vùng giải phóng ở Bình Long được mở ra rất rộng, tạo thành thế bao vây áp sát địch trong nội ô thị xã An Lộc.

Từ ngày 16 tháng 5 năm 1972, Sư đoàn 7 chủ lực Miền chốt chặn đường 13 nhằm đẩy lùi và làm thất bại âm mưu phản công khai thông đường 13 của địch.tạo điều kiện cho chiến dịch phát triển hơn nữa, phục vụ cho việc giữ vững vùng giải phóng sau này. Sư đoàn 7 đã dựng lên trên đường 13 một “bức tường thép” dài gần 20km, từ nam Bình Long đến bắc Chơn Thành, trọng điểm là khu vực Tàu Ô để quân ta giải phóng Lộc Ninh và tiến công thị xã An Lộc., lấy vùng Tàu Ô – Xóm Ruộng của Hớn Quản làm trọng điểm. Nhiều trận đánh dọc trận địa chặn tàu Ô diễn ra quyết liệt và kéo dài gần 4 tháng (từ 16-5 đến 28-8-1972). Tàu Ô trở thành cái bẫy thu hút nhiều đơn vị chủ lực của địch tham chiến và trở thành cơn ác mộng đối với nhiều sĩ quan chỉ huy các sư đoàn, quân đoàn và cả Bộ Tổng tham mưu ngụy quân Sài Gòn. Các trận cống Tàu Ô – Xóm Ruộng, Ông Tề, Tân Khai, Thanh Bình của bộ đội chủ lực đã tạo điều kiện cho du kích địa phương tập trung uy hiếp thôn xóm, tiêu diệt một bộ phận lớn sinh lực địch. Sĩ quan và binh lính địch mất tinh thần chiến đấu, quân đào ngũ tăng lên, các đồn địch thu hẹp lại không dám hoạt động như trước.

Lợi dụng lúc địch đang bị thu hút ở chiến trường ác liệt thị trấn An Lộc, tại Chơn Thành, lực lượng vũ trang huyện và du kích đã phát động nhân dân các xã Minh Hòa, Minh Thạnh, Khu 5 nổi dậy giải phóng. xã hoàn toàn. Tại thị trấn Chơn Thành, tuy quân địch chưa tập trung nhưng do đang bị thu hút vào mục tiêu giải tỏa đường 13, hỗ trợ cho An Lộc nên phong trào quần chúng đấu tranh vẫn được duy trì. Các chi bộ Đảng một mặt vận động nhân dân tiếp tế lương thực, thuốc men cho cách mạng và gửi con em tham gia chiến đấu, mặt khác tổ chức đấu tranh với địch đòi chồng con trở về. . Những người lính trở về với gia đình của họ.

Trong chiến tranh, hơn 80.000 người dân thị trấn An Lộc đã phải chịu đựng một cuộc thử thách ác liệt chưa từng có, hơn 5.000 người đã bị máy bay địch sát hại, nhiều bộ phận dân chúng bị dồn vào đường cùng. “vùng an toàn” nhưng trên thực tế rủi ro tiếp tục bị thiệt hại hàng loạt. Trước tình hình đó, Tỉnh uỷ Bình Phước đã kịp thời cử cán bộ đón, đưa nhân dân từ các đồn điền bị bom đạn địch uy hiếp chạy khỏi chiến khu trở về vùng an toàn. Các đồng chí Năm Sao, Tám Lệnh, Chính Thứ, Sáu Dù, Tám Giá, Chín Chùa, Hai Kỳ, Năm Thành… đã nỗ lực vượt qua khó khăn về lương thực, thuốc men, phương tiện đi lại đưa hơn 20.000 người vượt bom đạn về vùng giải phóng.

Chiến dịch Nguyễn Huệ trên chiến trường Lộc Ninh – Bình Long đã góp phần làm nên thắng lợi của cuộc tập kích chiến lược Xuân – Hè năm 1972, một đòn quyết định trên toàn miền Nam buộc địch phải quay lại đàm phán ở hội nghị. hội nghị Pari. Cùng với chiến thắng vĩ đại của quân và dân miền Bắc, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc, mà đỉnh cao là trận “Điện Biên trên không” cuối năm 1972, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri. ngày 27 tháng 01 năm 1973. Đây là thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là kết quả 18 năm đấu tranh ngoan cường của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.

CHIẾN-THẮNG AN-LỘC 1972 : Phần I (Chương 1-5)
Posted on March 4, 2013 by Khe Sanh

An Lộc map
PHẦN I

TỔNG LƯỢC CÁC DIỄN BIẾN VÀ CÁC TRẬN THƯ HÙNG
giữa
QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HOÀ

BỘ ĐỘI CỘNG SẢN BẮC VIỆT

o O o

CHƯƠNG 1
BỐI CẢNH MÙA HÈ ĐỎ LỬA

MÙA HÈ ĐỎ LỬA NĂM 1972, một mùa hè, thời gian dài như thế kỷ đối với người Dân cũng như người Lính thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.

Mùa Hè Đỏ Lửa khởi đầu vào ngày 30 tháng 03 năm 1972, khi quân Cộng Sản Bắc Việt xua toàn bộ 14 Sư Đoàn quân chính quy và 25 Trung Đoàn địa phương diện địa, khoảng 230.000 quân Bộ Chiến, 1,200 chiến xa đủ loại, các Sư Đoàn đại pháo 130 ly, các giàn súng phóng hoả tiễn 107 và 122 ly, thêm loại súng phóng hoả tiễn cầm tay SA. 7 (do Nga Sô chế tạo) chia làm 3 mũi tấn công vào lãnh thổ nước Việt Nam Cộng Hoà, tại 3 mặt trận: Quảng Trị (30 Tháng 3); Kontum (14 Tháng 04) và Bình Long An Lộc (05 Tháng 04 Năm 1972). (1)

Kết cuộc, tại mặt trận Bình Long An Lộc, cũng như tại hai mặt trận QUẢNG TRỊ và KONTUM, quân Cộng Sản Bắc Việt đã bị Quân Dân Việt Nam Cộng Hoà anh dũng đánh lui toàn bộ. Địch quân đành phải chịu ngậm đắng nuốt cay rút lui. Riêng tại Mặt Trận An Lộc, địch để lại chiến trường hơn 2/3 nhân mạng thương vong, gần 80% chiến cụ nặng như các chiến xa T.54, PT.76, các chiến xa cơ động phòng không, các giàn đại bác hạng nặng 130 ly các giàn súng phóng hoả tiễn 107 và 122 ly bị huỷ diệt. (xem Sơ đồ số 1)

anloc_chuong1-1_khonganhanloc_chuong1-2_sodo1

NGUỒN GỐC, ĐỊA LÝ, THỜI TIẾT TỈNH BÌNH LONG:

Tỉnh Bình Long cách Sài Gòn (thủ đô nước Việt Nam Cộng Hoà) 98 cây số về phía Bắc. Tỉnh Bình Long trước đây là vùng rừng rậm, với nhiều cây rừng, như Thau Lau, Tre, cây Dầu, một số ít cây gỗ quý như cây Gõ, Cẩm Lai.

Vào thời kỳ Pháp thuộc, vùng đất này thuộc tỉnh Bình Dương. Người Pháp đưa công nhân (dân phu) từ miền Bắc và miền Trung vào Nam, khẩn hoang phá rừng, thành lập 3 đồn điền trồng cây Cao Su tại các địa điểm: Lộc Ninh (sau này là Quận/Chi Khu Lộc Ninh), Hớn Quản (sau này là Quận Lỵ Châu Thành An Lộc của Tỉnh Bình Long), và Minh Thạnh (sau này là Quận/Chi Khu Chơn Thành).

Vào thời kỳ Đệ Nhất Cộng Hoà, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành Sắc Lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956, thành lập tỉnh Bình Long, gồm có 3 quận: Lộc Ninh, An Lộc, Chơn Thành. Tỉnh lỵ được đặt tại Quận Lỵ An Lộc (Quận Hớn Quản cũ của tỉnh Bình Dương).

Ranh giới tỉnh Bình Long: phía Bắc và Đông Bắc giáp với quận Snoul, Tây Bắc giáp với vùng Lưỡi Câu thuộc Cambodia, phía Nam giáp tỉnh Bình Dương (Thủ Dầu Một cũ), phía Đông giáp với tỉnh Phước Long, phía Tây giáp với tỉnh Tây Ninh. Diện tích đo được 2334 cây số vuông. Dân số toàn tỉnh khoảng 65.000, (2/3 là người Kinh = Việt, 1/3 là người Thượng). Vào năm 1972, dân quy tụ về xung quanh các khu vực tại các đổn điền có trồng cây cao su, nhiều nhất là xung quanh Thị Xã An Lộc.

Về địa thế tỉnh Binh Long, ngoài những đồn điền trồng cây Cao Su, sâu ngút ngàn, xung quanh thị xã còn có vài ngọn đồi thoai thoải bao bọc như: Đồi 100 về Hướng Tây, Đồi Đồng Long về Hướng Bắc, Đồi Gió và Đồi 169 về phía Đông Nam. Cao điểm Phi Trường Quản Lợi về Hướng Đông. Đó là những cao thế địa hình có thể dùng làm các cứ điểm Quân Sự, rất thuận lợi cho việc phòng thủ An Lộc.

Quốc lộ 13 là trục giao thông huyết mạch (độc đạo), chạy dài từ Bắc xuống Nam, từ Quận Snoul (Cambodia), xuyên qua Quân Lộc Ninh (Việt Nam Cộng Hoà), Cầu Cần Lê, đến Xa Cam, Tân Khai, Tàu Ô, Quận Chơn Thành, tỉnh Bình Long, đến Lai Khê, xuyên qua tỉnh Bình Dương, rồi đến Cầu Bình Lợi vào Sài Gòn.

Trong thời chiến tranh Việt Nam, Quốc lộ 13 thường bị Việt Cộng đấp mô, đặt mìn, phá cầu, đôi khi Cộng quân tổ chức các cuộc phục kích, thường gây gián đoạn lưu thông.

Thời tiết tỉnh Bình Long có tính cách “Biệt Cực” – ngày thì quá nóng, đêm thì rất lạnh, trung bình mỗi năm có đến 8 tháng Mưa (từ trung tuần tháng 4 đến tháng 11) mưa thường xuyên, có khi mưa từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau mới dứt hột; những tháng còn lại, sương mù phủ giăng đến gần 9 giờ sáng, mùa Đông độ lạnh còn tăng thêm nhiều, lá rừng cây cao su rụng hết, còn lại trơ trọi cành và thân cây, rất dễ quan sát, khi nhìn từ trên xuống dưới -, lại có bệnh sốt rét rừng còn đang hoành hành tại đây, thật là âm u, ảm đạm. Vì thế cho nên Bình Long được liệt kê là vùng nước độc so với các miền khác.

Bật mí:  Hợp đồng scandal | Tin tức thời sự mới, điểm nóng trong ngày mới nhất

Tỉnh Bình Long là một tỉnh nhỏ, nhưng về mặt “Chiến Thuật” lại giữ một vai trò rất quan trọng, là yết hầu của Thủ Đô Sài Gòn (với Sông Bé, là hành lang xâm nhập bằng đường thuỷ của quân Cộng Sản Bắc Việt từ đất Cambodia vào Chiến Khu “D” trong lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà; Quốc Lộ 13 là đường tiến sát CHÍNH cho chiến xa và bộ binh địch từ biên giới Việt Cambodia, tiến công, thọc thẳng vào Sài Gòn. Nếu để mất tỉnh Bình Long, kế đến tỉnh Bình Dương, Thủ Đô Sài Gòn ắt sẽ lâm nguy.(2) (xem sơ đồ số 2)

HÌNH THÀNH “TRẬN THẾ” ĐÔI BÊN :

Tại lãnh thổ Quân Đoàn 3/Quân Khu III (Việt Nam Cộng Hoà), Cộng quân tung 4 Sư Đoàn hay là Công Trường (CT): CT.5, CT.7, CT.9 và CT Bình Long tân lập của CỤC “R” (Trung Ương Cục Miền Nam) từ vùng biên giới Cambodia ồ ạt tấn công vào vùng lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hoà, tỉnh Bình Long (Thị Xã An Lộc) đang có khoảng 25,000 cư dân. Mục đích của địch quân là tạo áp lực quân sự trước cửa ngõ Thủ Đô Nước Việt Nam Cộng Hoà, với dụng ý ra mắt Chính Phủ của cái gọi là “Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” – là công cụ bù nhìn do Cộng Sản Bắc Việt tạo ra – đồng thời để hổ trợ cho Hoà Đàm “Ba Lê” đang hồi kết thúc .!!

Từ ngày 01 đến ngày 03 tháng 04 năm 1972, địch mở màn bằng các trận đánh dương Đông kích Tây dọc trên Quốc Lộ 22, phía Bắc Tỉnh Tây Ninh. Địch tung vào trận chiến đơn vị C.30 B, gồm 2 Trung Đoàn (Trung Đoàn 24 Địa Phương và Trung Đoàn 271 tân lập), 2 Tiểu Đoàn Đặc Công, và một đơn vị Thiết Giáp (gồm 6 chiếc M.41 và M.113, chiến lợi phẩm chiếm được của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà), được tăng cường thêm 1 Tiểu Đoàn súng cối và phòng không 12 ly 7. Mục đích là để cầm chân Sư Đoàn 25 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đang có trách nhiệm bảo vệ các Tỉnh/Tiểu Khu: Tây Ninh, Hậu Nghĩa và Long An, tạo thế NGHI BINH. Thật sự Tây Ninh chỉ là DIỆN, BÌNH LONG (An Lộc) mới thực là ĐIỂM.

Mặt trận An Lộc được khởi diễn vào đêm 04 rạng ngày 05 tháng 04 năm 1972 khi CT. 5 xuất phát từ vùng phía Bắc Biên Giới Cambodia, xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hoà, tấn công Quận Lỵ Lộc Ninh thuộc Tỉnh Bình Long (30 cây số Bắc An Lộc) rồi tiếp đến tấn công vào Tỉnh Lỵ Bình Long vào những ngày kế tiếp.

Trận chiến An Lộc năm 1972 đã được tượng hình từ năm 1971. Sau những cuộc Hành Quân có tên Toàn Thắng của Quân Khu III, do cố Đại Tướng Đỗ Cao Trí phát động, dự định đổ quân lên Kratié (một tỉnh cực Bắc, cạnh bên dòng sông Cửu Long của nước Cambodia), để tiêu diệt Cục “R“, bản doanh đầu não của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nơi đây cũng là căn cứ tiếp liệu quan trọng cho các Công Truờng quân chính quy Bắc Việt CT. 5, CT. 7, CT.9, đang hoạt động và trú ẩn trong các khu đồn điền cao su rộng lớn (Chup, Đam Be, Mi Mốt), nằm dọc theo Quốc Lộ số 7, trên lãnh thổ Cambodia.

Tướng Đỗ Cao Trí đã dồn ép và rượt đuổi Cục “R” đang đặt bản doanh tại Đồn Điền cao su Mi Mốt buộc phải rút chạy về Kratié.

Nhưng không may, Đại Tướng Đỗ Cao Trí bị tử nạn đột ngột, vì chiếc máy bay của Ông bị nổ tung trên không, khi vừa mới cất cánh từ Bộ Chỉ Huy tiền phương của Quân Đoàn (trên không phận Tỉnh Tây Ninh), bay ra thanh sát mặt trận tại chiến trường ngoại biên. Cái chết đầy bí ẩn này cho đến bây giờ cũng không ai biết đích xác do từ nguyên động lực nào đã gây ra tai nạn tử vong cho một “Danh Tướng” kỳ tài Đỗ Cao Trí.

Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, đang giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô kiêm Tổng Trấn Sài Gòn Gia Định, được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định thay thế Vị Tư Lệnh tiền nhiệm tài ba, quyết tâm chống Cộng và đầy lòng yêu nước đó.

Trong cái thế “chẳng đặng đừng”, để bảo toàn lực lượng, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh buộc lòng có quyết định cho lệnh rút quân ra khỏi vùng lãnh thổ Cambodia về nội địa Việt Nam Cộng Hoà.

Cuộc lui quân được Cộng quân biết trước do nguồn tin cao cấp mật báo, Cộng quân cấp thời tổ chức một trận địa phục kích trong khu rừng đồn điền cao su Đam Be, và phía Nam Quận lỵ Snoul,dọc theo Quốc Lộ 13, trên lãnh thổ,Cambodian, gây cho đoàn quân triệt thoái thiệt hại khá nặng.

Sau cùng, cuộc lui quân cũng được hoàn tất vào ngày 31 tháng 05 năm 1971.

Cho đến tháng 04 năm 1972, khi Cộng quân phát động cuôc tiến công xâm lấn vào lãnh thổ Quân Khu 3, tại lãnh thổ tỉnh Tây Ninh đã có Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân (là lực lượng trừ bị của Quân Khu 3 rút từ Cambodia về). Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân được trực thăng vận tăng cường cho chiến trường An Lộc vào những ngày đầu của trận chiến; Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh thuộc Lữ Đoàn 3 Xung Kich đã có mặt tại phía Bắc Quận Lộc Ninh khi chiến trận bùng nổ; Chiến Đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đang trấn giữ tại căn cứ hoả lực Cầu Cần Lê (15 cây số phía Bắc An Lộc); Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, sau trận Snoul, chỉnh trang lại hàng ngũ, bổ sung quân số đầy đủ, được tăng cưòng cho mặt trân An Lộc, có mang theo trên 2000 súng phóng hoả tiễn cầm tay M.72 (do Hoa Kỳ chế tạo),đơn vị nầy là nguyên động lực chính xoay chuyển “thế trận”..(xem Sơ đồ số 2).

Trận Chiến An Lộc được khởi diễn ngày 04 thàng 04 năm 1972, và được xem như kết thúc vào ngày 07 tháng 07 năm 1972. Được đánh dấu là:

* Ngày toàn thắng của Quân Dân Cán Chính Việt Nam Cộng Hoà tại tỉnh Bình Long An Lộc sau 93 ngày đêm chiến đấu không ngừng nghỉ.

* Ngày mà cả 4 Công Trường quân Cộng Sản Bắc Việt bị Quân Dân tỉnh Bình Long đánh tan nát, gây kiệt quệ cả về tinh thần lẫn khả năng tác chiến và buộc phải tức tưởi âm thầm rút lui ra khỏi trận chiến, với sự thiệt hại nặng nề về nhân mạng cũng như chiến cụ và quân dụng,

* Ngày mà toàn thể Quân Dân Cán Chính tỉnh Bình Long đón chào vị nguyên thủ Quốc Gia kiêm Tổng Tư Lệnh Quân Đội, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, cùng phái đoàn cao cấp, đáp trực thăng xuống An Lộc, để ủy lạo và tưởng thuởng cho những chiến sĩ hữu công, an ủi và thăm hỏi dân chúng Tỉnh Bình Long, trong lúc vẫn còn đạn pháo kích của Cộng Quân rơi vào thành phố. Tổng Thống Thiệu và phái đoàn đã nhìn tận mắt một Thị Xã nhỏ bé, với diện tích khoảng 4 cây số vuông, bị đổ nát bởi trên 200.000 quả đạn pháo đủ loại, vẫn còn loang lổ trên mặt đất, xen lẫn mùi thuốc súng và mùi hôi thối của xác chết (Người và Vật) đâu đó xông lên,

* Ngày mà tất cả Quý Vị có mặt trong phái đoàn tháp tùng với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, gồm nhiều Tướng Lãnh Việt, Pháp, vào ủy lạo Chiến Sĩ và Đồng Bào tỉnh Bình Long, đã chứng kiến tận mắt chiến tích oai hùng này. Sự chiến đấu kiên trì của Quân Dân tỉnh Bình Long đã giáng trả cho đoàn quân xâm lược Cộng Sản Bắc Việt một trận để đời. Kết quả của trận chiến An Lộc thật là “kỳ diệu“,đã làm đảo ngược những tiên đoán của các nhà Quân Sự và các giới quan sát Tây Phương đang có mặt tại Sài Gòn trong thời gian đó. Tướng Vanuxem của Pháp, người từng tham gia trong cuộc chiến Việt Nam, từng là Tư Lệnh Quân Khu Tả Ngạn Sông Hồng Bắc Việt trước năm 1954, đã ví trận chiến An Lộc như một Điện Biên Phủ thứ nhì, một trận chiến có tầm quyết định cho Hòa Đàm Ba Lê (1972), tương tự như Điện Biên Phủ đã quyết định cho Hòa Đàm Genève năm 1954. Lần này lịch sử đã không tái diễn như trận Điện Biên Phủ, Tướng Vanuxem phát biểu: ” giới quan sát và dư luận Quốc Tế rất đỗi ngạc nhiên trước một kỳ công to tát của toàn Quân và toàn Dân Việt Nam Cộng Hoà tại An Lộc, là một chiến tích vĩ đại, điển hình, để nói lên tinh thần chiến đấu hào hùng, kiên cường bất khuất, bằng quyết tâm chống Cộng Sản, bảo vệ lý tưởng Tự Do Dân Chủ cho Miền Nam Việt Nam”. Trận chiến An Lộc, một trận chiến lẫy lừng về trình độ tác chiến phòng ngự, đã đi vào Quân Sử một cách vẻ vang,

* Ngày mà vị lãnh đạo Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà quỳ trước nghĩa trang của Biệt Cách Dù ngậm ngùi cầu nguyện trước Anh Linh của 68 Chiến Sĩ Biệt Cách Dù và hàng ngàn các chiến sĩ thuộc các Quân Binh Chủng khác đã bỏ mình vì Đại Nghĩa Quốc Gia Dân Tộc,

* Ngày mà hai câu thơ của Cô Giáo Pha được đi vào lịch sử của trận CHIẾN THẮNG AN LỘC 1972:


An Lộc địa sử ghi chiến tích
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân


(1) Tổng hợp tài liệu tham khảo của:

– “Thiêt Giap! The Battle of An Lộc, April 1972”, Tác Giả: Trung Tá James H. Willbanks. (Tài liệu này đang được giảng dạy tại Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Hoa Kỳ Fort Leavenworth).

– “The Easter Offensive of 1972”, Tác Giả Trung Tướng Ngô Quang Trưởng (Do Trung Tâm Quân Sử thuộc Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ xuất bản năm 1980).

(2) Tổng hợp tài liệu của :

– “Chiến Sử Trận Bình Long” (Do Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà/Phòng 5/Khối Quân Sử thực hiện), phát hành năm 1973.

– Tác phẩm “Trung Đoàn 8 Bộ Binh và Trận Chiến An Lộc (Mùa Hè 1972)”, Tác Giả Chuẩn Tướng Mạch văn Trường, cựu Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh (1972), nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà (1975).

—->Phần I-chương 2

CHƯƠNG 2
MẶT TRẬN LỘC NINH

1 . ĐIỂM LÀ AN LỘC,
ĐƯỢC KHỞI ĐẦU BẰNG TRẬN TẤN CHIẾM LỘC NINHanloc_chuong2-1Quân Cộng Sản Bắc Việt tấn chiếm Quận Lộc Ninh (30 cây số Bắc tỉnh Bình Long), được khởi diễn vào lúc 17 giờ 45 ngày 04 tháng 04 năm 1972. Được xem như mở màn cho trận chiến An Lộc khi Đại Đội Trinh Sát của Chiến Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà chạm trán nặng và bất ngờ với Trung Đoàn E.6, thuộc Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt tại vùng hoạt động 4 cây số Tây Lộc Ninh. Cả Đại Đội Trinh Sát 9 bị địch tràn ngập và tiêu diệt trong khoảnh khắc, chỉ còn lại vài Chiến Sĩ trong đó có một hiệu thính viên mang máy còn sống sót, gọi báo cho Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 về tình hình chiến xa, bộ binh địch, đang tràn ngập và cận chiến, đánh xáp lá cà với các Chiến sĩ Trinh Sát 9, chúng đang tiếp tục tiến về hướng Quận Lộc Ninh. Người Chiến Sĩ anh hùng hiệu thính viên của Đại Đội 9 Trinh Sát vẫn tiếp tục báo cáo về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 sự di chuyển của địch cho mãi đến chiều ngày 06 tháng 04, tiếng nói của người chiến binh quả cảm này im bặt vào lúc 18 giờ 30 cùng ngày.

Tại Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 (-), mọi người đều biết tình hình chiến trận bắt đầu trở nên nghiêm trọng; Đại Tá Nguyễn Công Vĩnh, Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 9, cùng toán cố vấn, và toàn thể các đơn vị, kể cả Chi Khu Lộc Ninh, đều được cảnh giác, và ban hành lệnh báo động ứng chiến (1).

Lúc 05 giờ sáng ngày 05 tháng 04 năm1972 mở màn cho cuộc tấn công của Chiến Dịch mà Cộng Quân đặt tên là “Nguyễn Huệ” với khẩu hiệu: Khí thế như Mậu Thân, Ra quân như Nguyễn Huệ, Diệt gọn như Điện Biên (2).

Cộng quân bắt đầu pháo kích vào Quận Lỵ, dọn đường cho bộ binh và chiến xa đang trên đường ồ ạt tiến quân vào Lộc Ninh.

Đến 06 giờ sáng cùng ngày, từ phía Tây và Tây Bắc, Cộng quân tung vào chiến trường toàn bộ Công Trường 5, gồm có Trung Đoàn 275, Trung Đoàn 174, Trung Đoàn E.6, được tăng cường Trung Đoàn 95.C của Công Trường 9 và một Trung Đoàn Địa Phương, cộng thêm 1 Đại Đội Chiến Xa trực thuộc Trung Đoàn Chiến Xa Hỗn Hợp 203 (T.54 và PT.76, tổng cộng có 10 chiếc tham chiến), về phòng không và pháo binh, có Trung Đoàn phòng không cơ động 271, dưới sự yểm trợ của Trung Đoàn Pháo nặng 42.D (130 ly có tầm xa 30 cây số), và các giàn phóng hoả tiễn 107 và 122 ly. Tổng cộng quân số địch tham dự trận đánh khoảng 15,000 quân bộ chiến, chưa kể Thiết Giáp và Pháo Binh.

Phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà gồm có các đơn vị: Chiến Đoàn 9 (-) thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà do Đại tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy, Thiết Đoàn 1 (-) thuộc Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh do trung Tá Nguyễn Đức Dương chỉ huy (gồm 14 Chiến Xa M.41 và 26 Thiết vận Xa M.113) + Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân biên phòng, Tiểu Đoàn 2/9, Tiểu Đoàn 3/9 Bộ Binh, cùng với lực lượng diện địa của Chi Khu Lộc Ninh do Trung Tá Nguyễn Đức Thịnh, Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng chỉ huy và toàn khu vực, được khoảng 1 Tiểu Đoàn Pháo Binh hỗn hợp 105 ly và 155 ly). Tổng cộng quân số khoảng 3,000 tay súng.

Khởi đầu trận đánh, Cộng quân pháo kích vào Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng đang trú đóng tại căn cứ Alpha “Hoa Lư” 9 cây số Bắc Lộc Ninh (nơi đây có một Pháo Đội Hỗn Hợp 105 và 155 ly), và Thiết Đoàn 1 (-), trú đóng tại ngã ba Lộc Tấn (3 cây số Nam căn cứ Hoa Lư) cùng với Tiểu Đoàn 2 thuộc Chiến Đoàn 9 Bộ Binh, nơi đây có 4 khẩu pháo 105 ly, do Tiểu Đoàn 53 Pháo Binh tăng phái.

Cộng quân có kế họach là làm tê liệt pháo binh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, không thể yểm trợ được cho quân bạn đang hoạt động trong vùng giáp giới Việt Nam, Cambodia, và vùng phụ cận. Kế tiếp, pháo vào Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 Tiểu Đoàn 53 Pháo Binh Hỗn Hơp 105 và 155 ly (-), và Chi Khu Lộc Ninh (nơi có đặt 1 Trung Đội Pháo Bình Lãnh Thổ 105 ly), theo chiến thuật “Bịt Pháo Công Đồn”.

Nhận biết âm mưu của địch, Đại Tá Vĩnh khẩn mật điện cho Trung Tá Dương, cắt bớt 1 Chi Đoàn, điều động trở về tăng cường phòng thủ cho Bộ Chi Huy Chiến Đoàn và Quận Lỵ Lộc Ninh.

Chi Đoàn 3/1 hỗn hợp Thiết Kỵ (Chiến Xa M.41 và Thiết vận Xa M.113) do Trung Úy Lê Văn Hùm (Chi Đoàn Trưởng) cùng với 1 Đại Đội Bộ Binh của Tiểu Đoàn 2/9 tùng thiết được lệnh rời vị trí, xuất phát trong đêm từ vùng ngã ba Lộc Tấn. Đến khi chỉ còn cách Quận Ly Lộc Ninh khoảng 3 cây số về hướng Bắc, Chi Đoàn 3/1 bị lọt ngay vào ổ phục kích của quân địch, có chiến xa T.54 và PT.76 trợ chiến. Các chiến sĩ tùng thiết và Chi Đoàn 3/1 trộn trấu đánh vùi với địch quân, nhưng rồi cũng bị tràn ngập, và mất liên lạc với Thiết Đoàn 1 và Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 sau khoảng 1 giờ giao tranh.

Trung Tá Dương, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 1, báo về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9, đã mất liên lạc với Chi Đoàn 3/1. Nhưng tại Bộ Chỉ Huy của Chiến Đoàn 9 đang trú đóng tại cứ điểm, có tên là “căn cứ Lộc Ninh”, tần số liên lạc bị gián đoạn, vì trong giờ phút đó, hầm truyền tin của Chiến Đoàn 9 bị trúng pháo của Cộng quân sập, gây cho một số chiến sĩ Truyền tin thương vong, mãi cho đến sáng hôm sau, Bộ Chỉ Huy của Đại Tá Vĩnh mới bắt liên lạc lại với các đơn vị cơ hữu. Ông chỉ thị cho Trung Tá Dương lập tức điều động hết các lực lượng “vòng ngoài” rời vị trí (vùng ngã ba Lộc Tấn), phải đợi khi Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng từ căn cứ hoả Lực “ Alpha”, (3 cây số Tây Bắc, ngã ba Lộc Tấn) về đến, rồi cùng nhau di chuyển về tăng cường phòng thủ các yếu điểm tại Quận Lỵ Lộc Ninh. Đồng thời Ông cũng ra lệnh cho Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng, do Thiếu Tá Nguyễn Văn Hùng chỉ huy, cấp tốc phá huỷ hết các khẩu pháo trong căn cứ hoả lực, rút về phía Nam, phối hợp với cánh quân Thiết Kỵ của Trung Tá Dương đang chờ tại ngã ba Lộc Tấn, cùng mở cuộc hành quân “triệt thoái” về Lộc Ninh.

Qua đến sáng ngày 06 tháng 04, Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng đến cứ điểm ngã ba Lộc Tấn hợp cùng Thiết Đoàn 9 Kỵ Binh và Tiểu Đoàn 2/9 (-), có kéo theo 4 khẩu Pháo 105 ly, mở cuộc hành quân triệt thoái, lấy Quốc Lộ 13 làm chuẩn trực chỉ rút về Lộc Ninh.

Dọc theo hai bên Quốc Lộ 13 xuôi về Nam, khi nhận diện được điểm phục kích của địch quân, đánh tan Chi Đoàn 3/1 Thiết kỵ vào đêm trước, thình lình chiếc chiến xa M. 41 dẫn đầu bị trúng 1 quả đạn 100 ly của chiến xa T.54 địch bốc cháy, đồng thời hàng loạt tiếng súng nổ vang rền khắp các cánh quân, hàng ngàn cán binh Cộng Sản xuất hiện, có cả Chiến Xa T.54 và PT.76 trợ chiến.

Cánh quân Bạn bên Phải có Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân biên phòng khi vừa tới phía Đông chân đồi 177 (cách Lộc Ninh 3 cây số về hướng Tây Bắc) bị đánh bật trở lui và bị dồn ép ra Quôc Lộ 13, cánh quân di chuyển bên sườn Trái có Tiểu Đoàn 2/9 (-), cũng chạm địch rất nặng , còn Trung Quân do Trung Tá Dương chỉ huy tổng quát đi sau cùng, có 1 chi đội chiến xa và thiết vận xa để bảo vệ đoàn xe kéo 4 khẩu 105 ly cùng đạn dược, cũng bị địch quân tràn ngập.

Sau hơn 2 giờ chiến đấu một cách anh dũng, quyết liệt, trước hằng ngàn địch quân, đông hơn gấp nhiều lần, các con ngựa sắt M.41 và M.113 của Thiết Đoàn 1 Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân và Tiểu Đoàn 2/9 (-) đành phải thúc thủ tan hàng trước số đông quân địch áp đảo.

Trung Tá Dương và Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 1, với 2 thiết vận xa, tung phá vòng vây, vượt được khỏi nơi phục kích khoảng 1 cây số, rồi cũng bị chận đánh phải bỏ xe mà chạy bộ (tần số liên lạc giữa Thiết Đoàn 1(-) và Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9 bị cắt đứt từ đó (khoảng 11 giờ 30 cùng ngày). Cuối cùng Trung Tá Dương cùng Bộ Chỉ Huy Thiết Đoàn 1 cũng bị Cộng quân chận bắt trên đường tháo chạy về Lộc Ninh. (3) (xem Sơ đồ số 3)

SƠ ĐỒ TRẬN LỘC NINH
Khởi diễn ngày 04 tháng 04, chấm dứt ngày 07 tháng 04 năm 1972 (Sơ đồ số 3)
anloc_chuong2-3

 

06giờ00 sáng ngày 06 tháng 04 năm 1972, Cộng quân gia tăng cường độ pháo kích vào vùng Quận Lỵ Lộc Ninh và các cứ điểm quân sự, hơn 3,000 quả pháo đủ loại thi đua nhau nổ trên trận tuyến, bất kể là pháo trúng vào Quân hay Dân, rồi từng đợt biển người ồ ạt tấn công vào các điểm chánh: Căn cứ Lộc Ninh, nơi đặt Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 9, vị trí của Tiểu Đoàn 53 Pháo Binh, Bộ Chỉ huy Chi Khu Lộc Ninh:

A/ Tại Bộ Chi Huy của Chiến Đoàn 9, lực lương Bạn chỉ còn lại Tiểu Đoàn 3/9 với quân số chưa đầy 450 tay súng mà phải cáng đáng một chu vi phòng thủ quá rộng, kể cả đơn vị Pháo Binh, nên không còn quân trừ bị, dự phòng khi hữu sự để phản công, hay lấp vào những tuyến bị địch xuyên thủng, còn Tiểu Đoàn 53 Pháo Binh chỉ còn có 4 khẩu 105 ly và 2 khẩu 155 ly là còn sử dụng đươc, đôi khi pháo binh phải hạ nòng, bắn trực xạ vào chiến xa và bộ binh địch đang áp dụng chiến thuật xung phong biển người, cận kề trên tuyến phòng thủ.

Các chiến sĩ Chiến Đoàn 9 và Pháo Binh đã đẩy lui nhiều đợt xung phong của địch, bắn cháy 2 T.54 và 1 PT.76. Trận chiến kéo dài đến chiều tối, quân bạn càng lúc càng ít đi, vì bị thương và tử vong trên chiến tuyến, còn địch thì càng lúc lại càng đông; cho đến khi phòng tuyến phía Bắc và phía Đông bị Cộng quân tràn ngập, Đại Tá Vĩnh cùng Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, một số anh em Pháo Binh và toán Cố Vấn Mỹ liền rút ra khỏi vị trí phòng thủ, các phi tuần phản lực Hoa Kỳ được gọi đến ném bom Napalm hủy diệt hầu hết lực lượng địch quân đang tràn vào căn cứ .

Cố vấn trưởng, Trung Tá Richard Schott, vì bị thương nặng, biết là không thể chạy được, đã tự sát, để cho những người Cố vấn khác không bận tâm về Ông mà thoát thân. (4)

Sau đó, đoàn quân còn lại, chưa đầy 100, lần mò trong đêm tối, vượt ngang qua sân bay rút về phía Nam, lại bị địch chận đánh, khiến mọi người bị tản mát thất lạc. Đại Tá Vĩnh cùng một số chiến binh, và vị Cố vấn Mỹ duy nhất còn lại là Đại Úy Mark Ạ Smith buộc phải buông súng đầu hàng. Riêng Đại Tá Vĩnh, một quân nhân già dặn, can đảm, bị bắt khi mình mẩy và bộ đồ trận trên thân người còn đẫm đầy máu, vì bị nhiều thương tích trong lúc chiến đấu. Tần số liên lạc của Chiến Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà im bặt vào lúc 10giờ30 tối đêm 06 tháng 04 năm 1972.

B/ Tại Bộ Chỉ Huy Chi Khu Lộc Ninh: Sau khi mất liên lac truyền tin với Bộ Chị Huy Chiến Đoàn 9, và được biết toàn bộ lực lượng của Thiết Đoàn 1 ở phía Bắc bị đánh tan, và viện quân từ phía Nam cũng bị chận đánh phải tháo lui, không thể tiến lên tiếp viện được, Trung tá Nguyễn Xuân Thịnh, Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng Lộc Ninh, họp Bộ Chỉ Huy Chi Khu và toán Cố vấn Mỹ quyết định phân tán rút lui, lợi dụng trời tối, cắt hàng rào phòng thủ rút về phía Nam, phân tán vượt thoát vòng vây.

Trung Tá Thịnh là con ngưòi có vóc dáng nhỏ, nhanh nhẹn, da ngâm đen, nhưng thật rắn rỏi và kiên cường, sau khi thoát khỏi vòng vây, len lỏi trong rừng sống như dân Thượng, đôi lần gặp Cộng quân, Ông làm bộ trả lời nhiều câu hỏi bằng tiếng Việt không thông, nên bị chúng đuổi đi, vì ngỡ rằng người Thiểu Số. Bôn ba lặn lội đầy gian nan khổ cực, cuối cùng cũng về được đến An Lộc 2 ngày sau đó. Trung Tá Thịnh được trực thăng bốc về Lai Khê, và sau khi nghỉ ngơi, hồi phục lại sức khỏe và tinh thần sung mãn, Trung Tá Thịnh được Trung Tường Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn 3/Quân Khu III, bổ nhiệm làm Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng Chi Khu Hoài Đức (Võ Đắc), thuộc tỉnh Bình Tuy vào trung tuần tháng 04 năm 1972. Còn cố vấn trưởng Chi Khu, Thiếu Tá Thomas A. Davidson, chỉ sau đó vài ngày, cũng lần mò về được đến vùng phía Đông An Lộc, được một đơn vị Biệt Động Quân tiếp cứu (ngày 10 tháng 04 năm 1972).

Mặt trận Lộc Ninh kể như chấm dứt, sau 48 giờ giao tranh ở cường độ ác liệt. Quân Cộng Sản Bắc Việt đã làm chủ tính hình chiến trận. (xem Sơ đồ số 2).

2 . KẾT QUẢ TỔN THẤT ĐÔI BÊN :

ĐỊCH :

2150 thương vong
2 T.54 + 1 PT. 76 bị bắn hạ

BẠN :

600 tử trận, khoảng 2400 bị thương và bị địch bắt làm tù binh.
Thiết Đoàn1: (38 Chiến Xa M.41 và Thiết Vận Xa M.113 bị địch chiếm đoạt hay bị bắn hạ ;
1 Pháo Đội Hỗn Hợp của căn cứ Alpha (4 khẩu 105 và 2 khẩu 155 ly) được phá huỷ;
1 Trung Đội pháo 105 (4 khẩu 105 ly) bị địch chiếm;
Tiểu Đoàn 53 (-) Pháo Binh Hỗn Hợp 105 và 155 ly, đa số trúng pháo địch bị hư hại, số còn lại tự phá huỷ.

DÂN CHÚNG : Ước độ 200 chết và 500 bị thương, và một số thường dân bị cưỡng bắt làm dân công tải đạn, hay làm tài xế lái xe vận tải.

3 . BÌNH LUẬN TRẬN CHIẾN LỘC NINH

A . Cộng quân đã thành công trong chiến thuật gọi là bỏ qua tuyến phòng thủ phía trước, (Tiểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên phòng và Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh của Lực Lượng Việt Nam Cộng Hoà), và huy động nguyên Công Trường 5 cộng thêm 1 Đại Đội Chiến Xa (10 chiếc) thuộc Trung Đoàn Chiến Xa 203, chĩa mũi dùi chính vào 3 hướng Đông, Tây và Bắc, đánh thẳng vào Bộ Chỉ Huy đầu não của Chiến Đoàn 9 (-) và Chi Khu Lộc Ninh.

Với quan niệm tạo áp lực tấn công vào các vị trí đầu não (Bộ Chỉ Huy), thì lực lượng vòng ngoài sẽ phải co rúm lại, và rút về để tiếp ứng, và vì muốn tiếp ứng kịp thời, tất phải vội vã rút lui, nên địch chỉ cần tổ chức một tuyến phục kích cấp Trung Đoàn (Trung Đoàn 95 “C” thuộc Công Trường 9 và Trung Đòan Địa Phương) có chiến xa trợ chiến, là có thể tiêu diệt được đoàn quân bên ngoài rút về .

Khi cái VỎ bên ngoài bị đánh bể, RUỘT bên trong không còn ai tiếp ứng, cộng thêm phải đương đầu với một lượng địch nhiều lần đông hơn, khí thế mạnh hơn tất nhiên phải thất thủ hay phải đầu hàng. (Lộc Ninh thất thủ sớm hơn 3 ngày, chiếu theo ước tính của Bộ Chỉ Huy Chiến Dịch MIỀN (cơ quan chỉ đạo trận chiến của quân Cộng Sản Bắc Việt).

B . Đây là trận đánh Cộng quân đã chuẩn bị đầy đủ, như xây con lộ ngầm dưới mặt nước của một con suối ăn thông ngang qua rừng, từ Lộc Ninh về biên giới Cambodia. Chính con lộ này Cộng quân dùng để di chuyển các chiến lợi phẩm và tù binh Việt Mỹ xuyên qua Miên.

Về phần tâm lý: Đã khiến cho phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà HAI cái bất ngờ:

1. Áp dụng chiến thuật tiền pháo (mưa pháo) hậu xung (biển nguời);
2. Lần đầu tiên sử dụng chiến xa tại chiến trường Miền Nam, nên binh sĩ, kể cả cấp chỉ huy của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà bị giao động và mất tinh thần ngay từ giờ phút đầu, khi thấy Tăng T.54 của Cộng quân xuất hiện tại một nơi mà theo lý thuyết, các chiến xa này không thể đến được.

C . Tham khảo tài liệu của một nhân chứng sống, tựa đề “ After Action Report “ của Đại Úy Mark A. Smith, Cố Vấn Mỹ, thuộc Chiến Đoàn 9 /Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, viết lại sau trận đánh: “Giữa vị Chiến Đoàn Trưởng (Đại Tá Vĩnh) và Cố vấn Trưởng (Trung Tá Richard Schott), có một sự bất đồng sâu đậm trong việc phối hợp điều quân cũng như yểm trợ để chống trả quân địch.

D . Về cái chết oanh liệt của Cố vấn trưởng Trung Tá Schott, đã phải tự sát (vì vết thương trên đầu của Ông bị trúng miểng pháo của Cộng quân quá nặng); tài liệu này còn viết: Sau khi toán Cố vấn Mỹ còn lại rút ra khỏi vị trí, và trước khi gọi cho phi cơ thả bom Napalm thiêu huỷ căn cứ, Đại Úy Smith còn quay trở lại, định kéo xác của Trung Tá Schott ra khỏi hầm, nhưng khi vừa tới nơi, đã thấy 3 tên cán binh Cộng Sản đang quay quần bên xác người quá cố, đứa thì lột lon, đứa thì đang lấy dao “xẻo lỗ tai hay định cắt đầu??”, Đại Úy Smith liền nã đạn bắn chết “loài thú dã man đó”, sau cùng cũng lôi đươc xác Trung Tá Schott , ra khỏi hầm chỉ huy của căn cứ.

(Theo bài viết của cựu Trung Tá James Willbanks, tác giả quyển The Battle of An Lộc, xuất bản năm 2002: “ Toán tìm những Quân Nhân Mỹ mất tích tại Việt Nam, Lào và Cambodia, đã tìm thấy hài cốt của Trung Tá Schott tại địa điểm kể trên (Căn Cứ Lộc Ninh). Bây giờ là một khu vườn trồng cây “hột điều” (5).

4 . CÂU CHUYỆN SAU TRẬN LỘC NINH

Sau khi làm chủ tình hình Quận Lộc Ninh, Cộng quân liền trưng dụng tất cả các xe chở hàng và chở hành khách của dân, ép buộc những tài xế của những xe này phải tuân lệnh chúng, lái xe chuyên chở tù binh Việt Nam Cộng Hoà và Hoa Kỳ từ Lộc Ninh đến đồn điền cao su Mi Mốt, trong nôị địa Cambodia, và trong chuyến trở lại, chở các cán binh bổ sung cho các đơn vị tác chiến của Cộng quân.

Một trong những tài xế, cũng là chủ nhân của một xe hàng đang hành nghề chở mướn những bành mủ cao su cho các đồn điền Pháp từ Lộc Ninh về Sài Gòn, tên là Nguyễn Văn Nại (42 tuổi vào thời điểm năm 1972), là cậu ruột của chiến hữu Không Quân Trần Văn Long, đang hành nghề Địa ốc (Broker) tại Austin, Texas. Chiến Hữu Long kể: Khi Ông Cậu còn sống, ông ta đã thuật lại cho Chiến Hữu Long nghe về cuộc đào thoát khỏi bàn tay của Cộng Sản tại Lộc Ninh, đầy gian truân và nhiều nước mắt của gia đình Ông Cậu như sau:

Vào ngày 07 tháng 04, Ông Nại đậu xe trước cửa nhà, bị Cộng quân giọng cửa bắt phải lái chiếc xe “đi công tác”, ông Nại từ chối, chúng dọa đem cả nhà gồm vợ và 3 con nhỏ tuổi từ 12 đến 2 ra bắn bỏ, buộc lòng Ông Nại phải lái xe cho Cộng quân. Lái từ buổi trưa ngày 07 tháng 04 đến Mi Mốt rồi trở về Lộc Ninh. Đến sáng ngày 08 tháng 04, Ông Nại cởi chiếc đồng hồ “mạ vàng” lo lót cho tên cán bộ đặc trách kiểm soát đoàn xe, xin được về thăm gia đình xem vợ con như thế nào. Ông hứa là khi xong Ông sẻ trở lại lái xe đi “công tác” tiếp tục, tên cán bộ nhìn thấy chiếc đồng hồ vàng liền ưng thuận ngay. Ông Nại cám ơn, rồi chạy bộ về nhà. Trong lúc đó, gia đình vợ và 3 con của Ông đang chuẩn bị rời bỏ nơi cư ngụ tại Lộc Ninh để về Bình Dương. Vợ Ông đã móc nối được với một người Thượng trước đây đã giúp cho Ông Nại trong việc chuyên chở mủ cao su về Sài Gòn, người Thượng này rất thông thuộc đường rừng từ Lộc Ninh về An Lộc, chịu hướng đẫn gia đình Ông Nại đào thoát trốn chạy.

Trời vừa tối, gia đình Ông Nại được người Thượng hướng dẫn rời Lộc Ninh, băng đường rừng về An Lộc. Dọc đường, khi băng xuyên qua con suối, phía trên có chiếc cầu bắt ngang, có nhiều cán binh Cộng sản di chuyển qua lại, bổng dưng đứa con 2 tuổi ré lên tiếng khóc. Sợ bị bại lộ, Ông Nại liền bịt miệng con, nhưng vẫn còn thốt ra tiếng, buộc lòng Ông phải bóp cổ đứa trẻ để không còn thoát ra được tiếng khóc, đồng thời thúc giục gia đình mau vượt qua khỏi con suối đó. Tay Ông bóp cổ đứa con, không biết năng nhẹ thế nào, mà sau đó vài phút, Ông thấy người con buông xuôi 2 tay, không còn thấy cử động được nữa. Ông nghĩ rằng cậu bé đã chết. Ông cũng không dám báo cho vợ biết sự tình, Ông cố cõng con, vượt qua chỗ nguy hiểm, rồi tất cả mọi người dừng lại để cấp cứu đứa bé, nhưng cũng vẫn không thấy đứa bé hồi sinh, tất cả mọi người đều uất nghẹn không dám bật ra tiếng khóc, chỉ cắn môi chịu đựng, với hai dòng lệ tuôn trào. Riêng Ông Nại cũng không muốn chôn xác con mình ở giữa chốn rừng xanh hoang vu, Ông cố cõng con, cùng mọi người tiếp tục vượt rừng hướng về An Lộc. Sau 1 đêm di chuyển, đến sáng hôm sau, gia đình Ông Nại dừng lại nghỉ chân, khi đặt đứa bé nằm xuống mặt đất, thì thấy tay chân nó cử động, nhìn kỹ lại thì thấy cậu bé còn sống. Thật là tạ ơn Trời Phật !!!.

Sau đó gia đình Ông đến được An Lộc, và cùng theo đoàn dân cư An Lộc di tản bộ về đến tỉnh Bình Dương, tạm cư trú nơi nhà của người bà con. Sau đó 4 năm, Ông Nại qua đời, gia đình và đứa bé 2 tuổi (1972), đã có vợ con, và vừa từ trần (năm 2008) tại tỉnh Bình Dương Việt Nam, hưởng dương 38 tuổi.

(1) After Action Report “ The Battle of Lộc Ninh “ 4-7 April 1972, Tác Giả Thiếu Tá Mark Smith, Trang 5/13.

(2) Chiến Sử Trận Bình Long, do Bộ Tổng Tham Mưu Phòng 5/Khối Quân Sử thực hiện, Trang 67.

(3) Lời tường thuật của nhân chứng sống Trung Tá Nguyễn Đức Dương, Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 1 và Trung Sĩ Lê Hoàng Long, thuộc Tíểu Đoàn 74 Biệt Động Quân Biên Phòng.

(4) After Report “The Battle of Lộc Ninh” Tác Giả Thiếu Tá Mark Smith, Trang 11/13.

(5) The Battle of An Lộc, Tác Giả James Willbanks, Trang 177.

—->Phần I-chương 3

CHƯƠNG 3
MẶT TRẬN CẦU CẦN LÊ
(15 cây số Bắc An Lộc)

1 . DIỄN TIẾN SAU TRẬN LỘC NINH:Theo tin tình báo ghi nhận, sau khi Công Trường 5 làm chủ tình hình Quận Lộc Ninh, Bộ Chỉ Huy quân đoàn Cộng Sản Bắc Việt, do Trung Tướng Trần Văn Trà chỉ huy, và Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R) di chuyển vào trú đóng trong vùng Lộc Ninh, hậu cần và cơ sở Chỉ Huy Chiến Dịch Miền vẫn còn trú đóng trong vùng đồn điền cao su Mi Mốt, gần Quốc Lộ 7, trên lãnh thổ Cambodia.

Theo lệnh của Hà Nội, “tất cả các đơn vị của Cộng Sản Bắc Việt tại mặt trận Quân Khu III, trong chiến dịch Nguyễn Huệ, phải dứt điểm An Lộc trước ngày 20 tháng 04 năm 1972”, để ra mắt cái chính phủ (bù nhìn) Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Công Trường 5, sau khi thành công trong việc tấn chiếm Lộc Ninh, phải tạm dừng quân để chấn chỉnh hàng ngũ, bổ sung quân số, di tản tù binh, tái tiếp tế … trước khi tiếp tục tiến về hướng Nam, mục tiêu chính là An Lộc, để tiêp xúc với các cánh quân của Công Trường Bình Long và Công Trường 9 đang có mặt trong vùng kề cận phía Bắc, và Công Trường 7, đang hình thành tuyến phục kích tại vùng phía Nam An Lộc.

Việc bổ sung quân số: Cộng quân dùng phương cách di chuyển bằng đường bộ, kể cả xe hàng của dân được trưng dụng, lẫn những xe GMC của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà còn bỏ lại. Chuyến đi, chuyên chở tù binh Việt Mỹ (trong đó có Đại úy Smith), chuyến về, chở cán binh bổ sung cho các đơn vị đã bị hao hụt sau trận đánh.

Việc tái tiếp tế: Cộng quân chủ trương dựa vào chiến lợi phẩm tịch thu được của Quân Dân Lộc Ninh : a/ Về lương thực: Cộng quân cho lục soát các nơi có dự trữ gạo trong toàn Quận, kể cả cho lệnh lục soát trên từng người Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hoà, bất kể sống hay chết, để gom hết các khẩu phần lương khô (nếu có), phân phối lại cho các cán binh cơ hữu của chúng, bất cần đến sự đói no của Quân Dân phía Việt Nam Cộng Hoà. b/ Về đạn dược và nhiên liệu: Cộng quân tìm thu các quả đạn súng cối 81 ly, có thể dùng cho loại súng cối tương tự 82 ly của phe Cộng Sản. Phần nhiên liệu, Cộng quân cho lệnh tìm kiếm các nơi dự trữ xăng dầu của Quân Dân Lộc Ninh, ngay cả cho hút hết xăng trong các bình chứa xăng của tất cả các xe không còn sử dụng được, để dùng cho nhu cầu khẩn thiết tại mặt trận. c/ Về nhân lực cho việc khuân vác: Cộng quân sử dụng nhân công từ Quân Dân Việt Nam Cộng Hoà, đảm trách những công việc nặng nhọc vừa kể trên.

Tất cả những công việc đó, Công Trường 5 phải hấp tấp thực thi cả tuần lễ, nhưng vẫn chưa hoàn tất, vì áp lực càng lúc càng đè nặng bởi các vụ oanh tạc của Không Lực Việt Nam Cộng Hoà và đồng minh Hoa Kỳ.

2 . VỊ TRÍ – ÐỊA HÌNH TẠI CĂN CỨ HỎA LỰC “CẦU CẦN LÊ”

Căn cứ Hoả Lực Hùng Tâm (Cầu Cần Lê), nằm hai bên Liên Tỉnh Lộ số 17, cách Thị Xã An Lộc 15 cây số về phía Bắc, và cách con suối Cần Lê 3 cây số về phía Đông, cắt ngang Quốc Lộ 13 (đường nối liền An Lộc đến Lộc Ninh), sang Tây (xuyên qua Âp Tà Khiêt Krom, đến vùng Lưỡi Câu Cambodia) dài khoảng 20 cây số. Con suối cầu Cần Lê, khá rộng có nước chảy quanh năm. (xem Sơ đồ số 4).

anloc_chuong3-3

PHỐI TRÍ LỰC LƯỢNG ĐÔI BÊN

Lực lượng ĐỊCH phục kích gồm có Trung Đoàn 172 thuộc Công Trường 9 và Trung Đoàn “Thép” thuộc Công Trường Bình Long Cộng Sản Bắc Việt. (1)

Lực lượng BẠN trấn đóng: Chiến Đoàn 52 (-) thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà gồm có Tiểu Đoàn 2/52, Tiểu Đoàn 1/48, Đại Đội 52 Trinh Sát, với 6 khẩu pháo binh 105 ly thuộc Tiểu Đoàn 182 Pháo Binh và 2 khẩu 155 ly, thuộc Tiểu Đoàn 50 Pháo Binh.

4 . KHỞI MÀN TRẬN ĐÁNH

Trận chiến cầu Cần Lê được khởi diễn vào sáng sớm ngày 06-04-1972. Sau khi nhận được công điện khẩn cấp về tình hình nguy ngập của Chiến Đoàn 9 tại Lộc Ninh, Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Bộ Binh đang Chỉ huy Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Sư Đoàn Hành Quân (nhẹ) tại An Lộc, cho lệnh Chiến Đoàn 52, đang trú đóng tại căn cứ hoả lực cầu Cần Lê, tức tốc gửi 1 Tiểu đoàn đến tăng viện quân Bạn tại Lộc Ninh.

Tiểu đoàn 2 thuộc Chiến đoàn 52, do Thiếu Tá Nguyễn Văn Nguyên chỉ huy, xuất quân đi cứu viện. Xuất phát từ căn cứ Hùng Tâm, di chuyển theo lộ trình Liên Tỉnh Lộ 17 đến Quốc Lộ 13, ngược về Bắc đến Lộc Ninh. Nhưng khi vừa di chuyển đến Quốc Lộ 13, cánh quân đầu chạm trán nặng với Cộng quân, Thiếu Tá Nguyên điều động thành phần còn lại của Tiểu Đoàn lên tiếp ứng, nhưng cũng sa luôn vào ổ phục kích của 2 Trung Đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt (đã tổ chức từ khi khởi phát trận Lộc Ninh), một tuyến phục kích dài gần 3 cây số trên Quốc Lộ 13.

Lực lượng địch được bố trí trong trận này gồm có 1 Trung Đoàn của Công Trường Bình Long và 1 Tung Đoàn của Công Trường 9 Cộng Sản Bắc Việt. Mục đích là để chận viện binh của Việt Nam Cộng Hoà từ An Lộc lên tiếp cứu Lộc Ninh, và đón chận bắt các quân nhân từ Lộc Ninh thoát lui về An Lộc.

Sau 1 giờ chống trả mãnh liệt, với sự yểm trợ của Pháo Binh tại căn cứ hoả lực Hùng Tâm, Tiểu Đoàn 2/ 52 vẫn không thể tiến lên được, và trước áp lực địch càng lúc càng gia tăng, vị Tiểu Đoàn Trưởng 2/52 gọi báo về cho Trung Tá Thịnh tình hình chiến sự tại trận tuyến. Chiến Đoàn Truởng 52 cho lệnh vị Tiểu Đoàn Trưởng 2/52 , tìm cách đánh tháo lui để cho Pháo Binh và Không Quân dễ bề yểm trợ.

Tiểu Đoàn 2/52 được lệnh lui quân về đến căn cứ Hùng Tâm, với sự thiệt hại trung bình. Sau đó các phi tuần phản lực cơ Hoa Kỳ thi nhau oanh tạc và thả bom Napalm vào vị trí các tuyến phục kích của địch.

Khi 2 Trung Đoàn quân Cộng Sản Bắc Việt khai hoả chận đánh Tiểu Đoàn 2/52 tại ngã ba Liên Tỉnh Lộ 17 và Quốc Lộ 13, thì căn cứ hoả lực Hùng Tâm cũng bị pháo kích, và thấy địch xuất hiện ở mặt Tây và Tây Bắc. Như vậy thì cả 3 mặt Bắc, Đông, Tây đều nhận thấy có địch đang bủa thế bao vây. Trung Tá Thịnh khẩn điện về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 trình mọi sự việc cho Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ binh Việt Nam Cộng Hoà, đang nắm quyền chỉ huy mặt trận An Lộc. Trung Tá Thịnh xin cho rút khỏi căn cứ, di chuyển về An Lộc. Ông nhận được mật điện chấp thuận của Tướng Hưng vào đêm 07 tháng 04 năm 1972.

Cuộc hành quân triệt thoái của Chiến Đoàn 52 (-) được bắt đầu vào sáng ngày 08 tháng 04 năm 1972 theo kế hoạch như sau: Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 48 (được tăng phái cho Chiến Đoàn 52 Bộ Binh) do Thiếu Tá Nguyễn Yêm, Tiểu Đoàn Trưởng, chỉ huy dẫn đầu đoàn quân, xuất phát dọc theo Liên Tỉnh Lộ 17 tiến về hướng Đông (trên đường Liên Tỉnh Lộ 17 đến Quốc Lộ 13), trong khi đó phía sau là Bộ Chỉ Huy của Chiến Đoàn cùng Đại Đội 52 Trinh Sát và đoàn 20 chiếc GMC kéo theo các khẩu pháo 105 và 155 ly, cùng đạn dược, kế tiếp Tiểu Đoàn 2/52 đi đoạn hậu.

Cánh quân đầu của Tiểu Đoàn 1/48 chạm địch. Cộng quân quần thảo, đành xáp lá cà với các chiến binh của Tiểu Đoàn 1/48, cuối cùng, địch bị đẩy lui. Cố vấn Trưởng Chiến Đoàn, Trung Tá Walter D. Ginger, gọi trực thăng võ trang Cobra và các phi tuần phản lực đến yểm trợ quân bạn rất đắc lực.

Trận chiến kéo dài đến chiều tối. Chiến đoàn 52 (-) bị cầm chân tại chổ, buộc lòng Trung Tá Thịnh phải cho lệnh lui quân trở về căn cứ Đồng Tâm phòng thủ qua đêm, chờ tìm giải pháp mới.

Kiểm điểm lại, ta mất 3 khẩu pháo 105 ly, một số chiến sĩ (Bộ Binh và Pháo Binh) bị thương và tử trận, tất cả đều được mang về căn cứ hoả lực “Hùng Tâm”. Trung Tá Thịnh khẩn báo tình hình lên Tướng Hưng, nhất là khi thấy một số đông lực lượng Cộng quân đang dàn thế trận bao vây căn cứ Hoả Lực.

Trước diễn biến và tình hình đó, Tướng Hưng gửi mật điện đến cho Chiến Đoàn 52 (-) lệnh cho phá huỷ hết các chiến cụ nặng, chỉ còn lại Bộ Binh mà thôi, và cố gắng lui quân về An Lộc càng sớm càng tốt.

Sau khi thi hành lệnh phá huỷ các chiến cụ nặng, gồm các khẩu pháo, đạn dược và tất cả các xe cộ, Chiến đoàn 52 (-) được rảnh tay. Vào lúc trời vừa hừng sáng ngày 09 tháng 04 năm 1972, Chiến đoàn 52 (-) tái xuất phát, rời khỏi căn cứ Hùng Tâm, trực chỉ về An Lộc. Lần này, Tiểu Đoàn 1/48 được lãnh ấn tiên phong, dẫn đầu đoàn quân, chặng giữa, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, đoạn hậu giao cho Tiểu Đoàn 2/52, có nhiệm vụ làm thế nghi binh, phòng hờ địch tập kích về phía sau, có thể cắt đứt đoàn quân đang di chuyển.

Nói về Tiểu Đoàn 1/48, khai thông đường máu, đánh tan cánh quân địch, trên Liên Tỉnh Lộ 17, thừa thắng xông lên, quét tan một đơn vị khác trên Quốc Lộ 13 rồi trực chỉ về Nam hướng An Lộc .

Sau khi được báo động Chiến đoàn 52 (-) đột phá vòng vây, rút lui, các cánh quân Cộng sản liền tập trung truy kích, Trung Đoàn Công Trường Bình Long bọc chận đầu Tiểu Đoàn 1/48, một đơn vị khác của địch đuổi theo kịp Tiểu Đoàn 2/52 đang bảo vệ đoạn hậu. Một trận thư hùng được diễn ra trên chiến địa. Cố vấn Mỹ điều động các trực thăng vỏ trang (Cobra) tác xạ rất chính xác vào các đơn vị Cộng quân đang bao vây ngăn cản đường rút quân của Chiến Đoàn 52 (-). Mặc dù bị chận lại giữa đường, nhưng Chiến Đoàn 52 (-) vẫn còn giữ vững được đội hình, đánh bật Cộng quân ra ngoài. Cuộc chạm trán nẩy lửa được diễn ra suốt một ngày một đêm. Các Cố vấn Mỹ rất tận tình gọi Không quân yểm trợ quân Bạn. Ban ngày thì gọi các phi tuần phản lực đánh bom, ban đêm thì có các chiếc C.130 (Spectre Gunship) có đủ các loại súng tự động bắn liên hồi, kể cả đại bác 105 ly, tác xạ do Radar điều khiển bao vùng.

Bất thần, một cố vấn Mỹ, Đại Úy Zumwalt bị trúng miểng của quả B.40, văng trúng mặt, thương tích trầm trọng. Cố vấn trưởng, Trung Tá Ginger, gọi trực thăng tản thương, giữa các lằn đạn cận kề tại chiến trận. Trực thăng có dấu thập đỏ vừa đáp xuống, chỉ kịp bốc Đại Úy Zumwalt và một vài chiến binh Việt Nam Cộng Hoà, liền bị ngay 1 tràng AK.47 bắn bừa lên trực thăng, gây tử thương cho một Sĩ Quan phi hành tên Robert L. Hors, và gây thương tích cho một y tá trên trực thăng. Tuy nhiên, trực thăng vẫn được cất cánh an toàn, mặc dù đã bị trúng nhiều lỗ đạn, nhờ còn viên phi công chánh là Đại Úy John B. Whitehead, thuộc Tiểu Đoàn 229 Trực Thăng Xung Kích Hoa Kỳ, điều khiển bay ra khỏi vùng nguy hiểm (2).

Kế đến Trung Tá Chiến Đoàn Phó Huỳnh Thanh Điền bị trúng đạn tử thương và Trung Tá Cố vấn Trưởng Ginger, cùng Trung Sĩ nhất Winland, đều bị thương trong khi đứng hướng dẫn các phi tuần phản lực oanh tạc Cộng Quân. Mặc dù cả toàn ban Cố vấn đều bị thương tích, nhưng Trung Tá Ginger vẫn không gọi trực thăng đến tản thương, rời khỏi đơn vị Chiến Đoàn 52 (-). Ông đã ở lại chiến trường, để làm tròn chức năng của một vị Cố Vấn. Địch quân chết hằng loạt trong những đợt xung phong biển người, bởi hoả lực của những chiếc Cobra dưới sự điều khiển từ cố vấn Mỹ. Thật đáng ca tụng tinh thần trách nhiệm của toán Cố vấn Chiến Đoàn 52 (-) thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Qua ngày 11 tháng 4 năm 1972, Chiến Đoàn 52 mới vượt thoát được vòng vây của quân địch. Thấy được an toàn cho đoàn lui quân, lúc đó Trung Tá Ginger mới chịu gọi trực thăng đến tản thương về Bệnh viện 3 Dã Chiến Hoa Kỳ tại Sài Gòn để chăm sóc vết thương đã có từ hôm trước. (xem sơ đồ số 4)

ĐỊCH :
Khoảng 3200 bị loại khỏi vòng chiến (do các chiến binh Chiến Đoàn 52 (-) bắn hạ và do Không Lực Hoa Kỳ sát hại).

BẠN :
-Thương vong: 600 (Bộ Binh và Pháo Binh), so với 1,000 lúc khởi đầu trấn đóng tại căn cứ hoả lực Hùng Tâm
-Đồng Minh Hoa Kỳ: viên phi công phụ tử thương.
-Mất 3 khẩu pháo 105 và 3 GMC; phá huỷ 3 khẩu pháo 105 và 2 khẩu 155 ly cùng 17 xe GMC và tất cả đạn dược pháo binh.

6 . NHẬN ĐỊNH :

Sau khi bứng được Căn Cứ Hoả Lực Cầu Cần Lê, Công Trường Bình Long vượt qua Quốc Lộ 13, tiếp tục di chuyển về hướng Đông Nam (phi trường Quản Lợi), 3 cây số Đông An Lộc, bủa gọng kìm bao vây An Lộc từ hướng Đông, Đông Bắc, Trung Đòan 172 của CT9 tiến dần áp sát phía Bắc An Lộc, Còn Công Trường 7 đã di chuyển và hoàn thành tuyến ẩn phục, các chốt “kiền“ kiên cố tại vùng phía Nam Quốc Lộ 13 như Tàu Ô, Xa Cam, dọc theo Quốc Lộ 13, với 3 nhiệm vụ linh động: thứ nhất, ngăn chận quân tiếp viện Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà từ phía Nam; thứ nhì, chận bắt các Chiến Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà tháo lui từ cứ điểm An Lộc; thứ ba, khi tình hình chiến trận cần đến, phối hợp lực lượng của Công Trường 9 để dứt điểm An Lộc (tiến công từ phía Nam). Công Trường 7 còn được sự yểm trợ trực tiếp của Sư Đoàn Pháo 69 pháo nặng 130 ly, Tiểu Đoàn Chiến Xa hỗn hợp, thuộc Trung Đoàn 203 Thiết Giáp, Trung Đoàn 208 cơ giới phòng không và Hoả Tiễn 107 và 122 ly, thêm vào đó các đơn vị Bộ Binh còn được trang bị loại vũ khí tối tân SA.7, loại hoả tiễn cầm tay, cũng là loại “Khắc tinh cho các trực thăng của Không Lực Việt Nam Cộng Hoà và Đồng Minh Hoa Kỳ” bay trên cao độ từ 4,000 đến 7,000 bộ, Loại hoả ttễn cầm tay “Tầm nhiệt” này do Nga Sô chế tạo, được trang bị đến cấp Trung Đội. Cộng quân thiết lập một hàng rào hoả lực dầy đặc trên vùng trời phía Nam An Lộc, nhất là tại vùng Xa Cam, Xa Trạch, 5 cây số Nam An Lộc, khiến cho việc tiếp tế và tản thương về phía Việt Nam Cộng Hoà bị bế tắc.

7 . BÌNH LUẬN VỀ CUỘC RÚT LUI CỦA CHIẾN ĐOÀN 52 (-)

Tương quan lực lượng giữa đội bên quá chênh lệch, chiến trận được diễn ra trên trận thế nổi, địch quân lại ở trên thế thượng phong “phục kích” và truy đuổi. Chúng cũng áp dụng chiến thuật biển người (dùng số đông để mong đè bẹp đối phương). Nhưng chúng vẫn không đánh tan được Chiến Đoàn 52 (-), mà ngược lại còn bị tổn thất gấp 5 lần hơn Quân Lực Việt Nam Công Hoà.

Các Chiến Sĩ của Chiến Đoàn 52 (-), trong đó có Tiểu Đoàn 1/48, thật là xuất sắc và thiện chiến. Vị Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Nguyễn Yêm, vốn xuất thân Khóa 18 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, được coi như một Triệu Tử Long, trong trận Tương Dương Trường Bảng thời Tam Quốc Chiến. Nếu đem so sánh 1 Tiểu Đoàn đã bị hao hụt sau trận chiến ngày 08 tháng 04, mà còn còn thể đánh thủng cả Trung Đoàn của Cộng quân đang ở thế phục kích có đào sẵn hầm hố chiến đấu thì thật là một chiến tich kỳ diệu.

Vị Chiến Đoàn Trưởng Chiến Đoàn 52 (-), Trung Tá Nguyễn Bá Thịnh, gốc Dù, từng là huấn luyên viên khoa Tác Chiến của Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam trong thời gian Thiếu Tá Nguyễn Yêm còn là Sinh Viên Si Quan đang thụ huấn, là cấp chỉ huy tài giỏi, biết linh hoạt ứng phó trong mọi hoàn cảnh và trạng huống về kỹ thuật lãnh đạo chỉ huy, rất được lòng các cấp dưới quyền và toàn thể các Cố vấn Mỹ thật tình kính nể mến thương .

Tinh thần hy sinh cao cả vì chức vụ Cố Vấn của Trung Tá Walter D. Ginger, đáng được đề cao và ca tụng, dù rằng đã bị thương, nhưng không hèn nhát, xin tản thương, vẫn tình nguyện ở lại sống chết với đơn vị bạn đồng minh của mình. Một điểm son khác cho toán Cố vấn Mỹ của Sư Đoàn 18 Bộ Binh, ngay khi Chiến Đoàn 52 (-) Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà về đến An Lộc, thấy không còn vị Cố Vấn Mỹ nào, Cố vấn Trưởng Sư Đoàn 18, Đại Tá Frank S. Plummer, liền cắt cử toán cố vấn khác để điền khuyết tức thì, cố vấn trưởng mới là Thiếu Tá Raymond Haney, cố vấn phó là Đại Uý James H. Willbanks (sau này trở thành một Giáo Sư Đaị Học tại Hoa Kỳ và là tác Giả của quyển sách tựa đề “The Battle of An Lôc”, cũng chính là tác giả của tập tài liệu cho vấn đề tham khảo này).

Trái lại, toán Cố vấn Mỹ tại Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, “thì hơi khác”!!, xuyên qua hai sự kiện sau đây:

Ngày 11 tháng 04 năm 1972, trong lúc Trung Đoàn 8 thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đang sắp toán tại sân bay Dầu Tiếng (Quận Trị Tâm), chờ trực thăng đến bốc thả vào An Lộc, Trung Tá Abramawith, Cố Vấn Trưởng Trung Đoàn 8 Bộ Binh, đến nói với Đại Tá Mạch Văn Trường, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 như sau: “Chiếu theo lệnh của MAC.V, nơi nào xét thấy không có an toàn cho cố vấn Mỹ, thì chúng tôi sẽ không cùng theo đơn vị của Việt Nam Cộng Hoà đổ vào nơi đó, chúng tôi sẽ trở về Lai Khê” (hậu cứ của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà). Đại Tá Trường đành phải chấp nhận sự không có mặt của toán cố vấn Mỹ, khi Trung Đoàn 8 Bộ Binh được đổ quân vào An Lộc .

b. Ngày 07 tháng 04 năm 1972, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng di chuyển Bộ Chỉ Huy Hành Quân (nặng) và toán Cố vấn Mỹ từ Lai Khê vào An Lộc để thống nhất chỉ huy các lực lượng chính quy và diện địa của Tiểu Khu Bình Long, tổ chức phòng thủ chống lại cuộc tấn công “cấp Quân Đoàn” của quân Cộng Sản Bắc Việt đang âm mưu đánh chiếm Tỉnh Lỵ Bình Long.

Nơi đây, Công Binh Sư Đoàn đã thiết lập sẵn một căn cứ dã chiến “Hầm nổi”, bằng bao cát lót vỹ sắt PAP (Plain Aluminum Plate) khá vững chắc, dùng cho Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Sư Đoàn 5 Bộ binh, tại vị trí phía Đông, gần ga xe lửa, Tỉnh lỵ An Lộc .

Về tình hình chiến sự tại Bình Long lúc này, Cộng quân đã bủa lưới bao vây; pháo binh địch đã bắt đầu pháo vào Tỉnh lỵ, chỉ pháo cầm chừng, để điều chỉnh tác xạ (toạ độ) các mục tiêu như: các hầm của các Bộ Chỉ Huy đầu não (Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Tiểu Khu), các bãi đáp trực thăng, các ngã tư của các con đường chính dẫn vào Thị Xã An Lộc và một vài nơi khác..

Đại Tá Miller, Cố Vấn Trưởng, nói với Tướng Hưng: Vị trí hầm nổi này nếu Ông dự định đặt Bộ Chỉ Huy Hành Quân tại đậy, tôi nhận thấy sẽ không chống (chịu đựng) nổi các loại pháo nặng, các loại hoả tiễn của địch quân, vì thiếu an toàn, nên tôi và toán Cố vấn sẽ rời nơi đây trở về Lai Khê. Tướng Hưng không đồng ý cho toán Cố vấn Mỹ Sư Đoàn rút khỏi An Lộc. Ông nói “Trận chiến sắp bùng nổ, Sư Đoàn rất cần Cố Vấn Mỹ để có được sự yểm trợ hoả lực về không yểm của Không Lực Hoa Kỳ, sự có mặt của Cố vấn Mỹ tại đây rất cấn thiết cho vấn đề liên lạc với Không Quân Hoa Kỳ. Nếu Ông muốn có một vị trí “an toàn” hơn, tôi sẽ đưa Ông đi tìm một vị trí khác ở gần đây”. Tướng Hưng hướng dẫn Đại Tá Miller đi vào gần trung tâm Thị Xã, cạnh bệnh viện Bình Long, nơi đây có một căn hầm do Quân Đội Nhật Hoàng xây dựng từ hồi Đệ Nhị Thế Chiến, đúc bằng ciment cốt sắt, hầm sâu dưới mặt đất, có giao thông hào, rất kiên cố, có khả năng chống được bom của phi cơ đồng minh (hầm này trước đây được sử dụng làm Bộ Chỉ Huy của Tiểu Khu Bình Long, có tên là Trại Đỗ Cao Trí). Căn cứ hầm chìm này chỉ cách 800 thước về phía Tây (hầm nổi cũ). Năm 1971, Mỹ rút quân, Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Bình Long dời về Compound Mỹ, ở phía Nam An Lộc.

Hầm trại Đỗ Cao Trí đang bỏ trống. Quan sát xong, Đại Tá Miller không còn lý do để từ chối, nên toàn ban Cố vấn Mỹ (ngoài Đại Tá Miller ,còn có Trung Tá Ed Benedit, Thiếu Tá Allan Borsdorf và 2 Hạ Sĩ Quan khác không rõ tên) cố vấn của Sư Đoàn 5 Việt Nam Cộng Hoà, đã phải ở lại An Lộc với Tướng Hưng tử thủ suốt 3 tháng. Đại Tá Miller đã giúp cho Tướng Hưng rất nhiều trong việc sử dụng không lực Hoa Kỳ, yểm trợ rất hữu hiệu cho chiến trường An Lộc .

Quyết định của Tướng Hưng cho lệnh Chiến Đoàn 52 (-) phá huỷ hết các chiến cụ nặng, chứng tỏ Tướng Hưng là một vị Tướng giỏi, biết linh động ứng phó với tình hình, biết Quý trọng sinh mạng của binh sĩ hơn là chiến cụ, nhờ vậy các chiến sĩ của chiến Đoàn 52 (-) mới được rảnh rỗi tay chân để quần thảo với quân địch, đông hơn quân Bạn gấp nhiều lần.

Điểm mà chúng tôi muốn luận bàn về “những cái may rủi, vô tình” trên trận mạc, như truờng hợp kể trên là nếu không có sự từ chối của Đại Tá Miller ở vào giờ phút chót, thì nơi địa điểm cũ “hầm nổi” là mục tiêu được Cộng quân điều nghiên và đã chấm toạ độ sẵn, cho đến khi Cộng Quân khởi phát cuộc tấn công và mưa pháo vào An Lộc. Căn cứ tại Bộ Chỉ Huy cũ, đã hứng không biết bao nhiêu quả đạn pháo 130 ly và hoả tiễn và trở thành bình địa ngay từ những giờ phút đầu của cuộc chiến. Nếu Bộ Chỉ Huy đầu não của Sư Đoàn 5 Bộ Binh vẫn còn ở vị trí cũ, chắc chắn đã bị chôn vùi và mọi người có mặt bên dưới đều bị phanh thây dưới đống bao cát đổ nát tung rách tả tơi (vào đêm 12 rạng ngày 13 tháng 04 năm 1972) rồi. Đó có phải là một trong những cái may mắn do TRỜI định hay không!!!

Chiếu theo những “mật điện đối thoại của Địch” dò bắt được từ toán “Mật mã” của Phòng 6 Bộ Tổng Tham Mưu tăng phái cho Bộ Tư Lệnh Hành Quân Quân Đoàn 3/ QK III . Được biết Công Trường Bình Long, vừa mới được thành lập, gồm có 3 Trung Đoàn cơ hữu: Trung Đoàn Thép (được tuyển mộ từ đất Cambodia), Trung Đoàn Phước Long (Cơ động Tỉnh Phước Long), Trung Đoàn Đồng Nai (Cơ động Tỉnh Bình Dương). Công Trường này là Sư Đoàn Chủ Lực của Trung Ương Cục Miền Nam (Cục R). Vì là đơn vi tân lập nên không có tên đơn vị trong các tài liệu khác. Quân số của Công Trường này vào khoảng 4,500 cán binh, (1/3 là lính Miên).

(2) ”Thiết Giáp “The Battle of An Loc”. Tác giả cựu Trung Tá James H. Willbanks, trang 19. Năm 1972 Ông Willbanks là cố vấn phó của Chiến Đoàn 52 (-), có mặt tại Chiến Trường An Lộc từ ngày 11 Tháng 04 năm 1972, cấp bực Đại Úy. Ông được giải ngũ năm 1992, với cấp bực Trung Tá. Hiện tại Ông là giảng sư tại Trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Fort Leavenworth, đậu bằng Tiến Sĩ tại Trường Đại Học Kansas.

—->Phần I-chương 4

Bài viết được sgkphattriennangluc.vn tham khảo từ nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn_An_L%E1%BB%99c
http://tuongvang.org/2013/04/21/dong-phuong/an-loc-su/tran-an-loc-93-ngay-dem-tu-chien-phan-thu-3/
https://quanlucvnchblog.wordpress.com/chien-thang-an-loc-1972-phan-1/
https://www.facebook.com/TimHieuVeChienTranhVietNamVietNamWar/photos/a.598742990196624/2461457420591829/?type=3
https://www.facebook.com/TimHieuVeChienTranhVietNamVietNamWar/photos/a.587711297966460/710558442348411/?type=3
https://petruskyaus.net/tu-thu-an-loc-mua-he-nam-1972-lam-vinh-the/
http://tuyengiaobinhphuoc.org.vn/ly-luan-van-hoa-lich-su-dang/vai-tro-cua-dang-bo-quan-va-dan-binh-phuoc-trong-chot-chan-tau-o-va-chien-dich-nguyen-hue-nam-1972-1178.html
https://saigonnese.wordpress.com/2016/02/27/chien-thang-an-loc-1972/