Vẻ đẹp Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều (17 mẫu) mới nhất

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều của Nguyễn Du đã khắc họa thành công vẻ đẹp, tài năng của Thúy Kiều. Với 17 bài phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều, kèm theo 3 dàn ý chi tiết, sẽ giúp các em học sinh lớp 9 hiểu sâu sắc hơn.

vẻ đẹp của thúy kiều

Qua những lời thơ miêu tả đầy ngợi ca vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Dư cũng nói lên dự cảm của mình về cuộc đời đầy trắc trở của nàng Kiều. Chi tiết mời các em cùng tải miễn phí để có thêm nhiều vốn từ, ngày càng học tốt môn Văn 9.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều trong Chị em Thúy Kiều

Dàn ý phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều

1. Mở bài:

  • Giới thiệu về “Truyện Kiều” và tác giả Nguyễn Du.
  • Giới thiệu đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.
  • Khái quát về vẻ đẹp của Thúy Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.

2. Thân bài:

a) Vẻ đẹp về nhan sắc:

  • Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân trước để làm đòn bẩy nhấn mạnh vẻ đẹp của Kiều.
  • “Làn thu thủy”: Đôi mắt xanh, trong vắt như làn nước mùa thu.
  • “Nét xuân sơn”: Đôi lông mày cong, đẹp như dáng núi mùa xuân.
  • “Hoa ghen”, “liễu hờn”: Thiên nhiên cũng phải ghen tị trước sắc đẹp của nàng -> Dự cảm, báo hiệu những điều chẳng lành sẽ ập đến, gợi số phận trắc trở, long đong.

=> Bút pháp ước lệ tượng trưng: Lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để mô tả vẻ đẹp của con người.

b) Vẻ đẹp trong tài năng:

  • Sự “thông minh” trời phú, học gì cũng đều tinh thông.
  • “Làu bậc ngũ âm”: Thuộc tất cả các âm giai của nhạc cổ.
  • “Ăn đứt hồ cầm”: Tiếng đàn của nàng còn hay hơn cả tiếng đàn của người Hồ – dân tộc sáng tạo ra chiếc đàn đó.
  • Nàng tự sáng tác ra khúc “Bạc mệnh” khiến người nghe cảm thấy bi thương, đau xót mỗi khi tiếng đàn được cất lên -> Tiếng đàn báo hiệu cuộc đời nàng.

=> Người con gái tài năng, tinh thông âm luật.

c) Nghệ thuật:

  • Nghệ thuật ước lệ tượng trưng, đòn bẩy.
  • Ngôn ngữ, hình ảnh gợi tả.
  • Các biện pháp tu từ như: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa,…

3. Kết bài:

  • Nêu cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều.

….

Phân tích Vẻ đẹp Thúy Kiều ngắn gọn

Ở phần đầu tiên của “Truyện Kiều” – Gặp gỡ và đính ước, sau phần giới thiệu về gia cảnh của gia đình Thúy Kiều, tác giả đã nói về vẻ đẹp của chị em Kiều, Vân dưới bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển. Bằng tấm lòng trân trọng, ngợi ca, Nguyễn Du sử dụng những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân.

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Bốn câu thơ mà bao quát toàn bộ vẻ đẹp của chị em Kiều, từ Hán Việt “tố nga” vốn được dùng để chỉ những người con gái đẹp tinh tế đã được tác giả đưa vào trong thơ để gọi Kiều và Vân. Hai chị em được ví von có cốt cách thanh cao như hoa mai, có tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. Mỗi người có vẻ đẹp riêng và đều đẹp một cách toàn diện. Từ cái nhìn bao quát ấy, nhà thơ đi miêu tả từng người. Bốn câu thơ tiếp theo được viết ra bởi hàng loạt bút pháp nghệ thuật, ước lệ tượng trưng, liệt kê, nhân hoá để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân: tròn đầy, trang trọng, quý phái, phúc hậu.

Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Đó là vẻ đẹp có sự hòa hợp với tự nhiên, như ngầm dự báo trước tương lai êm ấm, bình lặng trong cuộc đời nàng.

Khi người đọc đang mải mê chiêm ngưỡng cái đẹp mà cả thiên nhiên cũng phải nhún nhường của Vân thì vẫn không khỏi thắc mắc, vì sao Nguyễn Du lại tả về em trước khi tả chị? Bốn câu thơ tiếp sau nữa đã trả lời cho câu hỏi đó của người đọc:

Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Đây hoàn toàn là chủ ý của tác giả, thủ pháp đòn bẩy, tả khách hình chủ, tả Thuý Vân trước rồi mới tả Thuý Kiều. Vân đã đẹp, Kiều càng muôn phần đẹp hơn. Nói về Vân để làm bật lên Kiều. Thuý Kiều lại có nhan sắc “ sắc sảo mặn mà”. Kiều “sắc sảo” về trí tuệ, “mặn mà” về tâm hồn. Đặc biệt, vẻ đẹp ấy thể hiện qua đôi mắt “làn thu thuỷ nét xuân sơn”. Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt Kiều trong sáng, long lanh như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân. Vân đã đẹp là thế mà Kiều còn nổi trội hơn, vượt lên trên Vân cả về sắc, về tài và chiều sâu tâm hồn. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân được thiên nhiên tạo hoá sẵn sàng nhường nhịn thì với Thuý Kiều, vẻ đẹp ấy lấn át cả thiên nhiên, khiến cho thiên nhiên ấy phải đố kị, ghen ghét.

Đã khoác trên mình dung nhan nghiêng nước nghiêng thành, Kiều lại mang cả cái tài năng của nàng cũng may ra mới có người sánh được, Nguyễn Du viết:

“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai,
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm”

Thúy Kiều là một người đẹp về sắc, tài vì nhiều ngón nghề cầm, kỳ, thi, họa và tình thì sâu đến mức có thể sáng tác một thiên “Bạc mệnh”. Thuý Kiều thông minh do thiên bẩm nên tất cả những môn nghệ thuật: thi hoạ, ca ngâm, nàng đều rất điêu luyện, đặc biệt là tài gảy đàn: “Cung thương làu bậc ngũ âm”. Nàng không chỉ giỏi về âm luật mà còn biết sáng tác, kỹ thuật thanh nhạc cùng với cái tình thăm thẳm đã làm cho bao người nghe khúc “Bạc mệnh” phải rơi lệ.

Con người Thúy Kiều hội tụ cả sắc, tài và tình. Cái nào cũng ở mức hơn người ấy báo hiệu một số phận đầy trắc trở, éo le. Bởi vì, “Chữ tài liền với chữ tai một vần”.

Kết thúc đoạn miêu tả về nhan sắc, tài năng và đức hạnh của hai “tố nga” nhà họ Vương là hai câu thơ viết về lối sinh hoạt gia giáo, nề nếp, tránh xa những chuyện thị phi ong bướm ngoài đời của họ.

“Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, chị em Thúy Kiều hiện lên trong tưởng tượng của người đọc là những trang tuyệt sắc giai nhân. Đồng thời cũng là những dự báo về số phận của từng người, bật lên sau những ý thơ là cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Đó cũng là một nét đặc trưng xuyên suốt “Truyện Kiều”.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều trong Chị em Thúy Kiều

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều – Mẫu 1

Xưa nàng Đát Kỉ lấy sắc đẹp làm cho Trụ Vương mê mị, đắm say không sao kể xiết, khiến cho nhà Thương vì thế mà sụp đổ. Tây Thi đem sắc đẹp làm mê hoặc Ngô Vương là Ngô Phù Sai, giúp Việt Vương Câu Tiễn phục quốc, khiến nước Ngô hùng mạnh phút chốc bị diệt vong. Cha con Đổng Trác cũng bởi muốn có mĩ nhân Điêu Thuyền mà tàn sát lẫn nhau, bánh xe lịch sử cũng vì thế chuyển hướng. Các nàng chỉ bằng sắc đẹp mà có thể khiến cho lòng người mê mị, làm thay đổi triều cương. Bởi thế, nhân gian thường gọi các nàng là yêu cơ.

Nếu lấy vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh của đại thi hào Nguyễn Du để so sánh với vẻ đẹp của ba nàng ấy thì có lẽ Thúy Kiều vượt trội hơn nhiều lần. Nếu lấy sự ảnh hưởng của Thúy Kiều đến con người hay triều chính thì cũng không thua kém gì.

Thi hào Nguyễn Du đã dành những mĩ từ cao quý nhất để tôn vinh vẻ đẹp của người con gái tài sắc vẹn toàn, hiếu thuận bậc nhất trong trời đất. Thúy Kiều mang một vẻ đẹp toàn bích, trác viêt, vượt qua mọi giới hạn. Để khắc họa được bức chân dung phi thường ấy, Nguyễn Du đã lần lượt tạo dựng qua các bước. Trước hết ông tạo tác vẻ đẹp của Thúy Vân, một vẻ đẹp “mười phân vẹn mười”, thực hiếm có ở trên đời:

“Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

Lấy vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền tảng, Nguyễn Du nâng vẻ đẹp của Thúy Kiều lên làm nhiều lần hơn thế:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”.

Sắc sảo (thiên về hình thức) là vẻ đẹp ưu tú, thu hút cái nhìn của người khác. Mặn mà (thiên về trí tuệ và tâm hồn) là vẻ đẹp chinh phục lòng người. Vẻ đẹp của nàng khiến cho lòng người đố kị, đất trời hờn ghen. Cuối cùng, để khẳng định chắc chắn vẻ đẹp ấy, Nguyễn Du đã tôn vinh đến tột bậc:

“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.

Điển tích “nghiêng nước nghiêng thành” xuất phát từ bài hát của Lí Diên Niên đời Hán Vũ Đế ca ngợi sắc đẹp của Hiếu Vũ Hoàng Hậu.

“Bắc phương hữu giai nhân
Tuyệt thế nhi độc lập.
Nhất cố khuynh nhân thành;
Tái cố khuynh nhân quốc
Khởi bất tri
Khuynh thành dữ khuynh quốc
Giai nhân nan tái đắc”.

Đến đời Đường Minh Tông, thi tiên Lý Bạch khi làm thơ ca ngợi sắc đẹp của Dương Quý Phi cũng dùng tích ấy:

Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
Thường đắc quân vương đới tiếu khan.

Nghĩa:

Danh hoa nghiêng nước sánh đôi vui,
Để xứng quân vương một nụ cười.

Xét về tài năng, nàng thông thạo cả cầm, kì, thi họa, thuộc lòng âm luật; lại có tài sáng tác, đã viết nên khúc Bạc mệnh làm não lòng người. Xét về sắc đẹp, Vẻ đẹp của Thúy Kiều không những có thể làm nghiêng nước nghiêng thành mà là duy nhất trên đời này không thể có người thứ hai. Giai nhân tuyệt sắc xưa nay xem như lu mờ trước ánh sáng ấy.

Có thể nói, hội tụ ở nhân vật Thúy Kiều là tất cả những gì tốt đẹp nhất vốn có ở con người và vũ trụ. Sự kết hợp hoàn hảo giữa tài năng, sắc đẹp và đức hạnh khiến Thúy Kiều trở thành một nhân vật vượt xa sức tưởng tượng của con người. Có thể gọi nàng là tuyệt thế giai nhân thiên cổ vậy.

Lần thứ nhất, Kiều khiến cho Kim Trọng, một thư sinh vốn là người “Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”, say mê nàng đến tận cùng mà quên chuyện đèn sách, bạo gan chuyển phòng trọ đến ở gần nhà nàng để tiện gặp gỡ hẹn hò. Tình yêu ngang trái, khiến hai người tan câu thề ước, đôi đường ly biệt. Đến suốt cuộc đời, Kim Trọng cũng không thể nào quên được nàng.

Lần thứ hai, phải chăng, bởi ghen tức nhà Vương ông có hai cô con gái xinh đẹp mà kín cổng cao tường, bọn sai nha đã lập mưu vu họa, khiến cho nhà tan của nát, Vương ông cùng con là Vương Quan bị trói vào đại lao?

Lần thứ ba, Thúc sinh (thư sinh họ Thúc), một khách phong lưu, đa tình say mê Kiều đến tột độ. Thúc sinh là người tuy tự do, phóng khoáng nhưng lại rất sợ vợ của chàng là Hoạn Thư. Hoạn Thư cũng quản thúc chàng rất chặt chẽ. Tuy sợ vợ đến thế nhưng vì đắm say vẻ đẹp Thúy Kiều đến đê mê mất trí:

“Trăm nghìn đổ một trận cười như không”.

Vẻ đẹp của Thúy Kiều như đổ một liều mê độc vào tâm trí Thúc Sinh khiến chàng “một tỉnh mười mê” đến nỗi liều lĩnh chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và đưa về sống như vợ chồng ở nhà riêng. Sự việc bại ộ khiến cho Thúy Kiều bị Hoạn Thư cho người bắt về và hành hạ vô cùng tàn khốc.

Lần thứ tư, Từ Hải vốn là một bậc anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, nghe tiếng Kiều đã không ngần ngại tìm đến:

“Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng”.

Cần chi nhiều lời đưa đẩy, sau cuộc hàn thuyên tâm sự, đôi bên rõ ý, Từ Hải đã mau chóng chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và chính thức cưới nàng làm vợ, giúp nàng báo ân, báo oán hết sức chu toàn. Phải đâu khí phách anh hùng hành động quyết đoán mau lẹ mà bởi trước bậc hồng nhan kì sắc, trái tim anh hùng đã sớm lay động, bị chinh phục tức thời. Cũng bởi vì quá yêu Kiều mà Từ Hải đã có hành động sai lầm lớn nhất cuộc đời dũng tướng, thỏa hiệp đầu hàng Hồ Tôn Hiến và nhận lấy một kết cục bi thảm.

Lần thứ năm, Hồ Tôn Hiến, một đại công thần triều đình, sau khi giết chết Từ Hải đã bất chấp đạo lí, bắt Kiều hầu rượu, đàn hát và làm nhục nàng vì quá say mê vẻ đẹp yêu kiều diễm lệ ấy. Một đại công thần uy dũng thế ấy, tôn nghiêm thế ấy mà trước mĩ nhân:

“Nghe càng đắm, ngắm càng say
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”.

Để tránh bị điều tiếng, gièm pha, Hồ Tôn Hiến đã gã nàng cho một thổ quan.

Sau mười lăm năm lưu lạc, trầm luân dâu bể, chịu không biết bao ô nhục, khổ đau, Thúy Kiều được đoàn viên với gia đình, chấm dứt duyên tình trần thế. Có lẽ, đó cũng là lựa chọn của Nguyễn Du. Ông cho nàng ẩn danh nơi cô tịch để sắc đẹp ấy không còn gây thêm tai họa nào nữa chăng?

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều – Mẫu 2

Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của truyện thơ, một thiếu nữ tài, sắc vẹn toàn đã được thi hào khắc họa một cách thần tình, mỹ lệ.

Trong bài thơ Kính gửi Cụ Nguyễn Du, nhà thơ Tố Hữu viết:

Tiếng thơ ai động đất trời,
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thơ như tiếng mẹ ru những ngày…

Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. Truyện Kiều là kiệt tác của nền thi ca cổ dân tộc sáng ngời tinh thần nhân đạo, về phương diện nghệ thuật, áng thơ này là mẫu mực tuyệt vời về ngôn ngữ, về tả cảnh, tả người, tả tình, tự sự v.v… đem lại cho nhân dân ta nhiều thú vị văn chương.

Đoạn thơ giới thiệu chị em Thúy Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của truyện thơ, một thiếu nữ tài, sắc vẹn toàn đã được thi hào khắc họa một cách thần tình, mĩ lệ.

Đoạn thơ gồm 24 câu: 4 câu đầu giới thiệu chung hai chị em Kiều là hai ả tố nga của ông bà Vương Viên ngoại, 4 câu tiếp theo nói về sắc đẹp Thúy Vân, 12 câu tiếp theo nói về tài sắc Thúy Kiều, 4 câu cuối đoạn ca ngợi đức hạnh của hai chị em Kiều.

Hai chị em Kiều mang vẻ đẹp thanh tao, trinh trắng như “mai”, như tuyết”, mỗi người một vẻ đẹp riêng, toàn thiện, toàn mỹ:

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Sắc đẹp của Thúy Vân là sắc đẹp của một thiếu nữ “đoan trang”, “trang trọng khác vời”- rất quý phái: khuôn mặt “đầy đặn” tươi sáng như vầng trăng, mắt phượng mày ngài, miệng cười tươi như hoa, giọng nói trong như ngọc.. Còn gì đẹp hơn về mái tóc, màu da của nàng? – “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng để miêu tả sắc đẹp Thúy Vân, tạo nên những hình ảnh ẩn dụ đầy gợi cảm. Tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du để khẳng định Kiều là một giai nhân tuyệt thế:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Dung nhan Thúy Kiều đẹp lắm “nghiêng nước nghiêng thành”. Mắt đẹp trong như sắc nước mùa thu, lông mày thanh tú xinh xắn như dáng núi mùa xuân; một vẻ đẹp đằm thắm, xanh tươi mơn mởn khiến cho “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Ngòi bút tả người của thi hào biến hóa, đa dạng: kết hợp thần tình các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, thậm xứng với sự vận dụng tinh tế thi liệu cổ (nghiêng nước nghiêng thành) tạo nên những vần thơ đẹp gợi cảm. Hình bóng giai nhân được phác họa đôi ba nét chấm phá ước lệ nhưng hết sức thần tình, để lại cho người đọc bao cảm xúc, trân trọng:

Làn thu thủy, nét xuân sơn.
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành.

Hóa công như đã ưu đãi dành cho Kiều tất cả “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Thông minh bẩm sinh “tính trời”, tài hoa lỗi lạc xuất chúng: thơ tài, tài họa giỏi, đàn hay; môn nghệ thuật nào nàng cũng tuyệt giỏi, cũng thành “nghề”, “ăn đứt” thiên hạ:

Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Nguyễn Du đã không tiếc lời ca ngợi Thúy Kiều bằng một số từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: vốn sẵn tính trời, pha nghề, đủ mùi… lầu bậc… nghề riêng ăn đứt…

Khi tả tài sắc Thúy Kiều, thi hào không chỉ nói lên cái tuyệt vời của hiện tại mà còn hàm ý dự báo về tương lai của nàng, sắc đẹp kiều diễm “hoa ghen… liễu hờn…” với bản đàn “Bạc mệnh” mà nàng sáng tác ra “lại càng não nhân” như gợi ra trong tâm hồn chúng ta một ám ảnh “định mệnh” mà nhà thơ đã khẳng định: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”,… “Chữ tài liền với chữ tai một vần”,… Gần hai thế kỷ nay, bức chân dung giai nhân này qua đoạn thơ Chị em Thúy Kiều đã để lại trong trái tim hàng triệu con người Việt Nam một sự cảm mến nồng hậu, một sự phấp phỏng lo âu đối với người con gái đầu lòng của Vương ông. Đó là tài năng đích thực của Nguyễn Du về nghệ thuật tả người.

Đức hạnh là cái gốc của con người. Thúy Kiều không chỉ có tài sắc mà còn có đức hạnh. Nàng được hưởng một nền giáo dục theo khuôn khổ của lễ giáo, của gia phong. Tuy sống trong cảnh “phong lưu rất mực hồng quần”, đã tới “tuần cập kê” nhưng nàng là một thiếu nữ có gia giáo, đức hạnh:

Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Tóm lại, Thúy Kiều là một nhân vật tuyệt đẹp trong Đoạn trường tân thanh. Thi hào Nguyễn Du với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ ca trác việt miêu tả Thúy Kiều bằng những vần thơ lục bát đẹp nhất. Ông đã dành cho nhân vật bao tình cảm yêu mến, trân trọng sâu sắc. Sự kết hợp tài tình bút pháp ước lệ tượng trưng, sử dụng sáng tạo các biện pháp tu từ, nhất là ẩn dụ so sánh, một ngôn ngữ thơ tinh luyện, hàm súc, hình tượng và gợi cảm để vẽ nên bức chân dung mỹ nhân bằng thơ sáng giá nhất trong nền văn học cổ nước nhà. Thúy Kiều mang một “lí lịch” ngoại tộc nhưng dưới ngòi bút thiên tài của thi hào Nguyễn Du, nàng xuất hiện với bao phẩm chất tốt đẹp, đậm đà bản sắc dân tộc. Vẻ đẹp nhân văn toát lên từ hình ảnh Thúy Kiều là vẻ đẹp văn chương của đoạn thơ này.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều – Mẫu 3

Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của cả sắc – tài – tình. Nhưng xét cho cùng thì tài hoa của Kiều cũng không vượt ra ngoài khuôn khổ quan niệm về tài năng của văn nhân, tài tử thời phong kiến.

Chân dung Thúy Kiều: Sau những câu thơ giới thiệu chung về hai chị em và vẻ đẹp riêng của Thúy Vân thì Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều xuất hiện:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành.
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.

Cũng giống như khi tả Thúy Vân, nhà thơ vẫn dùng bút pháp so sánh, ẩn dụ và ước lệ. Tác giả vẫn sử dụng cách gợi tả và những chuẩn mực thiên nhiên để làm đối tượng so sánh. Nét vẽ của thi nhân đã tập trung gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt, bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Cái sắc sảo của trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn đều liên quan tới đôi mắt. Hình ảnh ước lệ làn thu thủy (làn nước mùa thu) gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt; còn hình ảnh ước lệ nét xuân sơn (nét núi mùa xuân) lại gợi lên đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung.

Vẻ đẹp của Kiều là phi thường, lộng lẫy, không tạo nên sự hài hòa, êm đềm giữa con người với tự nhiên mà đến mức làm thiên nhiên, tạo hóa phải đố kị, ghen ghét: hoa ghen, liễu hờn. Hai động từ ghen và hờn có dụng ý đối chọi với nhan sắc của Thúy Kiều. Mức độ so sánh mạnh, gay gắt hơn so với hai từ thua và nhường. Điều đó chứng tỏ nhan sắc của Kiều đã vượt ra ngoài khuôn khổ ngoài tưởng tượng, ngoài quy luật của tự nhiên, khiến cho tạo hóa phải ganh ghét.

Vẻ đẹp của Thúy Kiều còn có sức lôi cuốn mạnh mẽ, làm nghiêng nước nghiêng thành, vẻ đẹp của Kiều không có thang bậc nào cao hơn để đánh giá, cho nên xếp hàng đầu, xếp thứ nhất. Câu thơ sắc đành đòi một tài đành họa hai đã khẳng định tuyệt đối sắc đẹp của Kiều đến mức độc nhất vô nhị, không ai có thể sánh nổi.

Nhưng không chỉ có nhan sắc mà Thúy Kiều còn là một cô gái thông minh và rất mực tài hoa:

Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.

Trí tuệ, tài năng của Thúy Kiều cũng được Nguyễn Du đẩy lên tới cực đoan, tuyệt đỉnh: vừa do trời phú, thiên bẩm vừa đa dạng, cái gì cũng giỏi, cũng hơn người. Không cần học hành gian khổ, lớn lên Kiều đã trở thành một giai nhân tuyệt sắc, một tài nữ hiếm thấy. Các từ ngữ tuyệt đối, cực đoan được sử dụng kế tiếp: vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, dầu, ăn đứt,…

Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến, gồm đủ cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (làm thơ), họa (vẽ tranh). Đặc biệt, tài đàn của nàng đã là sở trường, năng khiếu (nghề riêng), vượt lên trên mọi người (ăn đứt). Cực tả cái tài của Kiều cũng là để ca ngợi cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn Bạc mệnh mà Kiều sáng tác chính là sự ghi tiếng lòng của một trái tim đa sầu, đa cảm.

Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của cả sắc – tài – tình. Nhưng xét cho cùng thì tài hoa của Kiều cũng không vượt ra ngoài khuôn khổ quan niệm về tài năng của văn nhân, tài tử thời phong kiến.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều – Mẫu 4

Hình ảnh người phụ nữ từ lâu đã đi vào thi ca nhạc họa nuôi một nguồn cảm hứng dồi dào, bất tận. Mặc dù trong xã hội phong kiến “trọng nam khinh nữ”, người phụ nữ ít có cơ hội xuất hiện trong các tác phẩm văn học nhưng đến thế kỉ XVI trở đi, người phụ nữ đã bước chân vào nền văn học trung đại Việt Nam một cách rất tự nhiên, rất chân thực. Chúng ta có thể kể đến một số tác phẩm như: “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ, “Truyền kì tân phả” của Đoàn Thị Điểm, “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn… Tất cả các nhà văn, nhà thơ đều tập trung làm nổi bật lên phẩm chất tốt đẹp, số phận bi kịch, cuộc đời bất hạnh của người phụ nữ nhưng lại ít quan tâm tới việc khắc họa vẻ đẹp nhan sắc, tài năng độc đáo của nhân vật nữ giới. Tuy nhiên, đến với những trang thơ của Nguyễn Du qua tác phẩm “Truyện Kiều”, mặc dù cũng khai thác đề tài bất hạnh của người phụ nữ đương thời nhưng Nguyễn Du vẫn đặc biệt chú trọng miêu tả khắc họa vẻ đẹp chân dung, nhan sắc, tài năng con người nhân vật. Và chính bút pháp tả người ấy đã góp phần không nhỏ tạo nên sự thành công của tác phẩm. Điều này được thể hiện qua hình tượng nhân vật Thúy kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.

Trước hết, bốn câu thơ đầu tiên, nhà thơ giới thiệu khái quát về vị trí, xuất thân và vẻ đẹp của Thúy Kiều:

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Đó là Thúy Kiều sinh ra trong một gia đình họ Vương, nàng là chị cả trong gia đình. Để giới thiệu về vẻ đẹp của nàng, nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ và ẩn dụ rất giàu sức gợi: cốt cách thì duyên dáng, yêu kiều, thanh tao như cây mai; phong thái tinh thần thì trong trắng, tinh khôi như tuyết. Đó là vẻ đẹp hoàn mỹ, toàn diện từ trong ra ngoài, từ dáng vẻ tới tâm hồn “mười phân vẹn mười”. Như vậy, chỉ bằng bốn câu thơ đầu ngắn gọn, tác giả đã khái quát được những thông tin cần thiết của nhân vật, đồng thời làm nổi bật lên vẻ đẹp của Thúy Kiều. Từ đó, mở ra cảm xúc cho toàn bài, người đọc thấy được cảm hứng ngợi ca con người trong đoạn thơ.

Sau khi dựng lên chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân, nhà thơ tập trung bút lực vào miêu tả vẻ đẹp của Kiều trong sự đối sánh với vẻ đẹp của Vân:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn

Vẻ đẹp của Kiều khác và hơn hẳn Vân cả về tài lẫn sắc. Đó là sự “sắc sảo” về trí tuệ; “mặn mà” về tầm hồn.

Trước hết là vẻ đẹp nhan sắc – ngoại hình của Kiều. Vẫn tiếp tục sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người qua một loạt các hình ảnh: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu, Nguyễn Du đã làm hiện vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt mĩ. Nhưng khi miêu tả Kiều, tác giả không miêu tả cụ thể chi tiết như ở Vân mà ngược lại, tác giả tập trung vào một điểm nhìn là đôi mắt “Làn thu thủy nét xuân sơn”: Đôi mắt sáng trong và sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Đây chính là lối vẽ “điểm nhãn” cho nhân vật. Bởi đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn con người. Và qua đôi mắt đó của Kiều, ta thấy được tâm hồn trong sáng, sâu thẳm và cuốn hút lạ thường của nhân vật. Vẻ đẹp nhan sắc của Kiều là vẻ đẹp vượt ra khỏi chuẩn mực của tự nhiên và khuôn khổ của người phụ nữ phong kiến nên: “Hoa ghen – liễu hờn” và thậm chí là nghiêng ngả cả thành quách, đất nước:

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Nghệ thuật nhân hóa (hoa ghen – liễu hờn) kết hợp với nghệ thuật nói quá (thành ngữ: Nghiêng nước nghiêng thành) vừa có tác dụng gợi tả vẻ đẹp của Kiều ; lại vừa có tác dụng dự đoán về số phận, cuộc đời của nàng. Bởi vẻ đẹp đó gợi lên mâu thuẫn, không hài hòa (khác với Vân: thua – nhường: hài hòa, bình yên) nên chắc chắn cuộc đời nàng sẽ truân chuyên, trắc trở: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

Tiếp đến là vẻ đẹp tài năng của Kiều. Nếu như khi tả Vân, nhà thơ chỉ chú trọng vào khắc họa vẻ đẹp nhan sắc mà không chú trọng tới miêu tả tài năng và tâm hồn thì khi tả Kiều, nhà thơ chỉ tả sắc một phần, còn lại dành phần nhiều vào tài năng:

Sắc đành đòi một tài đành họa hai

Chỉ một câu thơ mà nhà thơ đã nêu được cả sắc lẫn tài. Nếu như về sắc thì Kiều là số một thì về tài không ai dám đứng hàng thứ hai trước nàng. Tài năng của Kiều có thể nói là có một chứ không có hai trên đời. Vì được trời phú cho tính thông minh nên ở lĩnh vực nghệ thuật nào Kiều cũng toàn tài: cầm – kì – thi – họa. Tất cả đều đạt đến mức lí tưởng hóa theo quan niệm thẩm mĩ của lễ giáo phong kiến: “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. Đặc biệt tài năng của Kiều được nhấn mạnh ở tài đàn: “Cung thương lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”: nàng thuộc lòng các cung bậc và đánh đàn Hồ cầm (đàn cổ) thành thạo. Hơn thế, nàng còn giỏi sáng tác nhạc nữa: “Khúc nhà tay lựa nên chương/Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Mỗi nàng lần đánh đàn, nàng lại cất lên bài hát “Bạc mệnh” làm cho người nghe phải đau khổ, sầu não. Bài hát chính là tâm hồn, là bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều, biểu hiện một trái tim đa sầu đa cảm và cuộc đời éo le, bất hạnh.

Như vậy, qua việc phân tích ở trên, người đọc thấy được chân dung của nhân vật Thúy Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp khác người nên làm cho thiên nhiên phải ghen tị “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”; tài năng của Kiều vượt trội hơn người nên chắc chắn theo một quy luật thông thường của định mệnh “Chữ tài đi với chữ tai một vần” hay “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” nên cuộc đời Kiều là cuộc đời của một kiếp hồng nhan bạc mệnh, éo le và nghiệt ngã.

Đến đây chúng ta thấy được tài năng độc đáo của Nguyễn Du trong việc khắc họa chân dung nhân vật. Từ vẻ đẹp chân dung, nhà thơ thể hiện những dự cảm về tính cách, cuộc đời, số phận của nhân vật. Và mặc dù, ở đầu đoạn trích, tác giả giới thiệu Thúy kiều là chị, em là Thúy Vân nhưng sau đó, nhà thơ lại miêu tả chân dung nhân vật Vân trước, Kiều sau. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ trong việc tạo ra thủ pháp “đòn bẩy”. Điều đó có tác dụng nhấn mạnh và làm nổi bật được vẻ đẹp độc đáo, vượt trội về cả sắc lẫn tài và tình của nhân vật Thúy Kiều. Vì thế, tuy cùng sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng khi miêu tả hai nhân vật nhưng chúng ta thấy được mức độ đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Nhà thơ chỉ dùng bốn câu để tả Vân, còn lại dành tận mười hai câu để tả Kiều; tác giả khi tả Vân chỉ tập trung tả nhan sắc nhưng khi tả Kiều thì “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Mặc dù vậy nhưng ở nhân vật nào cũng hiện lên rất sống động, cụ thể, chân thực, mang vẻ đẹp, tính cách, số phận khác nhau.

Khép lại đoạn thơ, Nguyễn Du dùng những lời lẽ đẹp để gợi ca cuộc sống của nàng:

Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Thúy Kiều sống trong một gia đình phong lưu, rất gia giáo và nàng đang đến cái tuổi búi tóc cài trâm, được phép thành gia, lập thất “tới tuần cập kê”. Thành ngữ “Trướng rủ màn che” gợi tả một lối sống kín đáo, rất khuôn phép của con nhà gia giáo đàng hoàng . Vì thế, đối với những người đàn ông “ong bướm” (chỉ những người đàn ông tán tỉnh phụ nữ không có mục đích tốt đẹp) thì Thúy Kiều không bao giờ để tâm tới. Hai câu kết trong sáng, đằm thắm như che chở, bao bọc cho nàng. Nàng hiện lên như một bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh “êm đềm”, chưa một lần tỏa hương vì ai đó.

Qua chân dung vẻ đẹp nhan sắc, tài năng của Thúy Kiều, chúng ta thấy được Nguyễn Du thực sự rất trân trọng, đề cao những giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ. Những dự cảm về kiếp người tài hoa nhưng bạc mệnh là sự xuất phát từ tấm lòng cảm thông, xót thương con người của nhà thơ. Đó là vẻ đẹp nhân văn sáng ngời trong ngòi bút tài hoa của Đại thi hào dân tộc – Nguyễn Du.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều – Mẫu 5

Về nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du, Lã Nhâm Thìn nhận xét: “Tả người đẹp mà độc giả cảm thấy đẹp thật, đẹp tuyệt. Đó là thành công mĩ mãn”. Điều đó quả vô cùng chính xác. Không chỉ đối với miêu tả thiên nhiên, mà nghệ thuật tả người của Nguyễn Du cũng vô cùng tài hoa, độc đáo. Dưới đôi bàn tay tài hoa, tấm lòng trân trọng, nâng niu người phụ nữ Nguyễn Du đã phác họa lên chân dung tuyệt đẹp, vượt ra ngoài mọi chuẩn mực của nàng Thúy Kiều.

Trong văn học trung đại, miêu tả chân dung con người thường ít xuất hiện. Ví như Vũ Nương, chỉ được Nguyễn Dữ phác họa bằng một câu văn ngắn ngủi: “Tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Còn riêng đối với Nguyễn Du ông miêu tả chi tiết, kĩ lưỡng.

Thúy Kiều là chị cả, con gái của Vương viên ngoại. Kiều và Vân mang vẻ đẹp toàn vẹn, tuyệt mĩ, những mỗi nàng lại mang những nét đẹp riêng, không thể hòa lẫn. Để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng thủ pháp đòn bẩy, miêu tả Thúy Vân trước. Và thủ pháp này đã tỏ ra vô cùng đắc dụng, sau bốn câu thơ miêu tả chân dung Vân ông tập trung miêu tả vẻ đẹp của Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Trong tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Thúy Kiều được miêu tả qua nhận xét của Kim Trọng: “Thúy Kiều mày nhỏ mà dài, mắt trong mà sáng, mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào”, chỉ miêu tả được vẻ bề ngoài, mà không tả được thần thái, phẩm chất bên trong của nhân vật. Còn trong câu thơ của Nguyễn Du miêu tả được cả thần thái nhân vật, Thúy Kiều mang vẻ mặn mà sắc sảo ở cả tài và sắc. Cái “mặn mà” ở Thúy Kiều khiến người ta nhìn thấy là say đắm, giống như uống một thứ rượu lâu năm, dù nhẹ, nhưng ấn tượng lại sâu sắc, dài lâu. Đặc biệt từ “càng” kết hợp với nghệ thuật so sánh nhấn mạnh, khẳng định vẻ đẹp nổi trội của Thúy Kiều. Dù chỉ dùng hai câu giới thiệu nhưng cũng đã cho ta hình dung ban đầu về một tuyệt sắc giai nhân, mang vẻ đẹp hiếm có xưa nay.

Nguyễn Du không đi miêu tả chi tiết như khi tái hiện chân dung Thúy Vân, bức tranh vẽ chân dung Thúy Kiều chủ yếu thông qua bút pháp gợi tả cùng hình ảnh ẩn dụ qua đôi mắt:

Làn thu thu thủy, nét xuân sơn

Đôi mắt của Kiều trong vắt, sáng long lanh như làn nước mùa thu, thể hiện một con người thông minh nhanh nhạy. Đôi mắt ấy sâu thẳm, đầy sống động, linh hoạt, cho thấy một tâm hồn đa sầu, đa cảm. Đôi mắt ấy như biết nói, biết thì thầm, đó là chiều sâu nội tâm của nàng. Hình ảnh ước lệ, ẩn dụ “nét xuân sơn” gợi lên dáng vẻ đôi lông mày thanh mảnh, sắc nét như dáng núi mùa xuân. Đôi lông mày ấy càng tôn lên vẻ đẹp đôi mắt Thúy Kiều, khiến cho cả gương mặt bừng sáng, trẻ trung, tươi tắn. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp vượt ngưỡng, vượt qua khỏi chuẩn mực thiên nhiên mà văn học Trung đại vốn lấy để làm quy chuẩn. Bởi vậy mà:

Nghệ thuật nhân hóa qua hai từ “hờn, ghen” đã cho người đọc thấy thiên nhiên sinh sự đố kị, ghen ghét trước vẻ đẹp của Thúy Kiều. Đây là điềm báo chẳng lành cho số phận nàng sau này. Đặc biệt trong hai câu kết khi nói về nhan sắc Thúy Kiều, Nguyễn Du đã dành những lợi ca ngợi về vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ: Một hai nghiêng nước nghiêng thành/ Sắc đành đòi một tài đành họa hai. Thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” đã nhấn mạnh vẻ đẹp toàn mĩ của nàng, vẻ đẹp ấy không có bút nào có thể lột tả hết, một vẻ đẹp mặn mà, nồng nàn, làm say đắm lòng người. Nhưng sau câu thơ đó là lời dự báo đầy lo sợ về những bất trắc, sóng gió mà đang đợi chờ Kiều ở phía trước.

Để làm nổi bật chân dung Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng tài tình bút pháp ước lệ tượng trưng làm nổi bật vẻ đẹp toàn mĩ, vượt qua khỏi quy chuẩn thiên nhiên. Đồng thời là biện pháp đòn bẩy, miêu tả Vân trước sau đó miêu tả Kiều cũng góp phần không nhỏ làm nổi bật nhan sắc Thúy Kiều.

Với những hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng tinh tế chính xác Nguyễn Du không chỉ dựng lên bức tranh chân dung của nàng Kiều mà còn là bức tranh tinh thần của nàng. Một người con gái nhan sắc tuyệt đẹp, tâm hồn sâu sắc, nhạy cảm. Bức tranh ấy còn mang tính chất dự báo về cuộc đời nàng, vẻ đẹp vượt chuẩn mực tự nhiên, khiến hoa ghen, liễu hờn dự báo tương lai sóng gió, vất vả của Kiều sau này.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều – Mẫu 6

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” được trích trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Đây là một đoạn trích mà tác giả đã đặc tả chân dung của hai chị em Thúy Kiều, nổi bật nhất chính là chân dung nàng Kiều. Vẻ đẹp của nàng là một vẻ đẹp hoàn hảo, tuyệt mĩ, trọn vẹn cả sắc – tài – tình. Nhưng xét cho cùng tài hoa của Kiều cũng không sao vượt qua khỏi khuôn khổ của quan niệm phong kiến thời xưa “Hồng nhan bạc mệnh”.

Sau những câu thơ giới thiệu chung về hai chị em cùng bức chân dung vẻ đẹp riêng của Thúy Vân, Nguyễn Du đã lấy vẻ đẹp của Thúy Vân để làm nền, tô đậm cho vẻ đẹp của Thúy Kiều:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà…
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”

Tương tự như cách miêu tả chân dung nàng Vân, tác giả vẫn dùng bút pháp so sánh, ẩn dụ và ước lệ. Sử dụng cách gợi tả và đưa ra những chuẩn mực của thiên nhiên để làm đối tượng so sánh với vẻ đẹp của Kiều. Có vẻ như đối với Kiều, tác giả đã tập trung vào gợi tả vẻ đẹp của đôi mắt, bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là biểu hiện của sự tinh anh, trí tuệ. Cả cái sắc sảo của trí tuệ và mặn mà của tâm hồn đều liên quan tới đôi mắt. Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” đã gợi lên một cách đầy sống động về một đôi mắt long lanh, trong sáng là linh hoạt. Còn “nét xuân sơn” lại miêu tả đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung. Quả là vẻ đẹp của Kiều phi thường và lộng lẫy, đến mức làm cho thiên nhiên tạo hóa phải đố kị, ghen ghét. Điều đó chứng tỏ nhan sắc của Kiều đã vượt ra ngoài khuôn khổ của quy luật tự nhiên, ngoài trí tưởng tượng. Vẻ đẹp ấy có sức lôi cuốn mạnh mẽ làm cho “nghiêng nước nghiêng thành”, chẳng có bậc thang nào có thể đánh giá. “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai” đã khẳng định tuyệt đối sắc đẹp của Kiều là độc nhất vô nhị. Nhưng không chỉ có nhan sắc, Thúy Kiều còn là một cô gái thông minh trí tuệ, rất mực tài hoa:

“Thông minh vốn sẵn tính trời…
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”

Tác giả đưa tài năng và trí tuệ của Kiều lên tới tuyệt đỉnh, do trời ban phú, cái gì cũng tài giỏi hơn người. Các từ ngữ tuyệt đối được sử dụng như: vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu, ăn đứt,…Theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến nàng đầy đủ các tài cầm – kì – thi – họa. Tác giả cực tả cái tài của nàng cũng là để ca ngợi cái tâm đặc biệt của nàng, cung đàn “Bạc mệnh” mà Kiều sáng tác chính là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm.

Như vậy, qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” ta đã được thấy bức chân dung có một không hai về nàng Kiều của Nguyễn Du. Vẻ đẹp cả tài và sắc của Kiều đã đạt tới độ tuyệt mĩ nhưng chính tài sắc ấy đã dự cảm về một tương lai đầy sóng gió và đau khổ của cuộc đời Kiều. Tuy miêu tả chân dung, nhan sắc và tài hoa nhưng lại hé mở về tâm hồn và dự cảm số phận là tài năng hiếm có của Nguyễn Du.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều – Mẫu 7

Đoạn thơ trích trong phần mở đầu của “Truyện Kiều” có thể nói đây là bức chân dung xinh xắn đẹp đẽ của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.

Bốn câu mở đầu là lời giới thiệu chung của hai nhân vật có nhan sắc lộng lẫy này, hai cô con gái đầu lòng của nhà Viên họ ngoại Vương. Hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp với phép ẩn dụ là những biện pháp tu từ trong thơ văn cổ cho a thấy sắc đẹp hai chị em Thúy Kiều thật là thanh tao, trong trắng như mai như tuyết của thiên nhiên. Những người con gái vừa mới lớn dậy này đã được Nguyễn Du giới thiệu thật súc tích nhưng đầy trân trọng mến thương:

” Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.

Họ đẹp từ hình dáng bên ngoài cho đến tâm hồn bên trong.

Sau lời giới thiệu chung là bức chân dung của nàng Vân. Vẫn bút pháp ước lệ kết hợp với một hệ thống từ ngữ chọn lọc, bốn câu thơ tiếp theo như vẽ ra trước mắt ta hình ảnh người thiếu nữ trong sáng, ngây thơ, rất đỗi đoan trang, phúc hậu dễ hòa lẫn với chung quanh. Đây là cái đẹp toàn bích của người con gái hiền dịu, trong sáng, vô tư, không gợn một nét nhỏ bụi trần từ “khuôn trăng”, “nét ngài’ cho đến nụ cười, giọng nói. Nhưng nhà họa sĩ hình như không phải dụng công nhiều trong miêu tả nhân vật này. Bút lực của ông còn dành cho nhân vật Thúy Kiều. Nhà thơ tả Thúy Vân, tưởng như sắc đẹp của Thúy Vân không ai hơn được nữa để rồi sau đó Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân chỉ là cái nền tôn thêm vẻ đẹp của Thúy Kiều. Chỉ hai câu:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Như một phép đòn bẩy, nhà thơ đã nâng nhân vật chính lên một bậc cao hẳn cả tài lẫn sắc trước mắt người đọc. Đến đây, tác giả không dừng lại ở hình thức bên ngoài mà đi sâu vào tài năng, tính cách bên trong, vào sự “sắc sảo mặn mà”, “một hai nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều.

Nếu ở nàng Vân, cái đẹp phúc hậu, đoan trang dễ chinh phục chung quanh: “Mây thua nước tóc, tuyết nhường làn da” thì ở nàng Kiều, cái đẹp “sắc sảo mặn mà” dễ gây tạo vật ghen tuông, hờn dỗi: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh“.

Các cụ xưa đã nhận xét về sắc đẹp của hai chị em Thúy Kiều, một người là “sắc trung chi hiền”, một người là “sắc trung chi thánh”, kể ra cũng đã lí chí lắm vậy.

Thực ra vẻ đẹp bên ngoài là điều đáng chú ý, song đang quan tâm hơn vẫn là tài hoa và tính cách của nhân vật. Tác giả đã dùng nhiều câu kiến trúc theo lối tiểu đối để cho tài và sắc của Thúy Kiều được giới thiệu đến mức độ giới hạn của nó:

Mai ct cách/ tuyết tinh thần
Mây thua nước tóc/ tuyết nhường màu da
Làn thu thy/nét xuân sơn
Hoa ghen thua thm/ liu hn kém xanh.

Sc đành đòi mt/ tài đành ha hai

Chưa hết, Nguyễn Du đã không tiếc lời ca ngợi nàng bằng một loạt từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: “Thông minh vốn sẵn tính trời!” , “Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm“, “Cung thương làu bậc ngũ âm, Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương“. Không một chữ đưa đẩy, các chữ, các hình ảnh đối chọi nhau và các từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối, đã thực sự tạo nên nhịp thơ trang trọng, đĩnh đạc càng tôn thêm tài sắc của Thúy Kiều.

Hai vẻ đẹp khác nhau nhưng bút pháp xây dựng lại giống nhau. Tác giả xây dựng hình tượng nhân vật thuần đường cong: làn nước mùa thu, ngọn núi mùa xuân, khuôn trăng, nét ngài, tóc mây, da tuyết … . Nói là chị em Thúy Kiều, nhưng đoạn thơ chỉ nhằm giới thiệu nàng Thúy Kiều với vẻ đẹp sắc sảo, tài hoa đến mức “hoa ghen” “liễu hờn”, trong đó tài hoa mới thực là điều đáng trọng.

Tóm lại, đoạn thơ ngắn gọn, bố cục hoàn chỉnh, chặt chẽ, nghệ thuật tả người bậc thầy, bới bút pháp điêu luyện đã chỉ đúng thần thái, cốt cách của nhân vật, từ ngoại hình đã bộc lộ nội tâm, lưu lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, đồng thời dự báo những gì sẽ đến với từng nhân vật: cuộc đời Thúy Vân chẳng biết đến “sóng gió” là gì, còn cuộc đời Thúy Kiều sẽ không tránh khỏi “mệnh bạc”, kiếp “đoạn trường”.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều – Mẫu 8

Trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều của Nguyễn Du, ta không chỉ thấy một nàng Kiều có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, mang vẻ đẹp tuyệt mĩ. Mà qua những câu thơ tài tình của tác giả ta còn thấy nàng là con người tài hoa, vẻ đẹp nội tâm phong phú, sâu sắc.

Nguyễn Du đã dùng những câu thơ tuyệt bút nói về vẻ đẹp của Thúy Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Dung mạo của nàng không được phác họa chi tiết, đầy đủ như Thúy Vân, nhưng chỉ qua đôi mắt tuyệt đẹp người đọc cũng đã có thể cảm nhận được hết vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân của nàng. Ấy cũng chính là cái tài của Nguyễn Du. Tác giả tiếp tục sử dụng bút pháp ước lệ để miêu tả về vẻ đẹp của Thúy Kiều: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”, đôi mắt nàng mới đẹp làm sao, đó là một đôi mắt sáng, trong trẻo như làn nước mùa thu. Đôi lông mày mảnh, dài như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt ấy còn gợi nên một thế giới nội tâm vô cùng đa dạng, phong phú, đó là tâm hồn nhạy cảm, tinh tế. Nàng đẹp hơn cả thiên nhiên, hơn cả tạo hóa, vẻ sắc sảo mặn mà ấy là “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Những từ ghen, hờn cho thấy thái độ tức tối, nổi giận của thiên nhiên. Từ đó cũng ngầm báo hiệu cuộc đời đầy sóng gió, truân chuyên của nàng sau này.

Kiều không chỉ có nhan sắc tuyệt mĩ mà tài năng của nàng của vào bậc hiếm có xưa nay:

Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Tài năng của nàng đã đạt đến độ lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến “cầm, kì, thi, họa” đều đạt ở mức đỉnh cao. Trong những tài năng đó, xuất sắc nhất là tài đàn, nó đã trở thành sở trường đặc biệt của nàng, không ai có thể sánh kịp “nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Tài năng của nàng này không được thể hiện ngay trong đoạn trích, nhưng ở phần khác đã được Nguyễn Du khẳng định: “Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa”. Những khúc nhạc mà nàng sáng tác luôn mang một nỗi buồn khắc khoải, thê lương, gây nỗi thương cảm và xúc động lòng người. Dường như ngay từ những khúc nhạc của một cô gái chưa vướng bụi trần, luôn được bao bọc, che chở nhưng lại gợi về nỗi sầu thê lương của những người phụ nữ bạc mệnh. Những khúc nhạc ấy cũng như là dự báo về chính cuộc đời của nàng. Ngẫm lại đời mình, trải qua nhiều chông gai, Kiều cũng tự nhận:

Bật mí:  Game Oẳn Tù Tì Cởi Đồ Gái Xinh Online mới nhất

Thưa rằng bạc mệnh khúc này
Phổ vào đàn ấy những ngày con thơ
Cung cầm lựa những ngày xưa
Và gương bạc mệnh bây giờ là đây

Nguyễn Du đã thật ưu ái khi miêu tả chân dung Thúy Kiều. Nàng hiện lên qua những câu thơ của ông không chỉ đẹp đẽ ở nhan sắc mà còn toàn diện ở trí tuệ, tinh thần. Nàng là tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa, có nhan sắc, có trí tuệ nhưng lại chịu cảnh vùi dập của cuộc đời, của xã hội phong kiến. Thật cảm thương cho số phận của nàng, bởi vậy trong suốt cả bài thơ, hơn một lần Nguyễn Du đã phải thốt lên: “Hồng nhan quen thói má hồng đánh ghen”. Tố Hữu cũng xót thương cho đời nàng mà viết:

Chạnh lòng thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên.

Bức tranh chân dung Thúy Kiều được dựng lên chủ yếu thông qua bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp con người. Nhưng vẻ đẹp của nàng còn vượt xa cả những chuẩn mực đó. Cho thấy vẻ đẹp tuyệt mĩ của tạo hóa. Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, giàu giá trị biểu cảm: ghen, hờn, sắc sảo, mặn mà,… góp phần làm nổi bật vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều.

Đoạn trích đã thể hiện ngòi bút tinh tế, tài hoa của Nguyễn Du, khẳng định tài năng nghệ thuật tả người số một của ông quả là “kì tài diệu bút”. Tả Kiều không cốt tả hình dáng mà cốt để làm nổi bật vẻ đẹp và trí tuệ của nàng. Những câu thơ về Kiều còn mang tính chất dự báo về số phận éo le, một cuộc đời đầy trắc trở. Qua đó cũng thể hiện sự nâng niu trân trọng của Nguyễn Du trước vẻ đẹp của người phụ nữ.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều – Mẫu 9

Người Việt ta không ai là không biết Truyện Kiều, sáng tác vĩ đại của Đại thi hào Nguyễn Du, được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Có lẽ, vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của nàng Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều ” còn để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng.

Tác giả đã khéo léo đưa những hình ảnh tượng trưng thường được dùng trong thi ca cổ để miêu tả vẻ đẹp của chị em nhà họ Vương, họ vừa đẹp người vừa đẹp nết:

“Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Cốt cách của thanh tao của mai, tinh thần trong trắng của tuyết, vẻ đẹp mười phân vẹn mười. Tiếp sau đó là những lời thơ miêu tả Thúy Vân. Đó là vẻ đẹp sang trọng, quý phái, được so sánh với các chuẩn mực thiên nhiên trăng, hoa, mây, tuyết. Thúy Vân khiến thiên nhiên phải thua phải nhường. Nhưng dường như đó chỉ là bút pháp vẽ mây nẩy trăng, bởi:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”

Vẻ đẹp ấy hơn Thúy Vân cả về tài và tình. Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng, so sánh vẻ đẹp con người với tự nhiên “Làn thu thủy nét xuân sơn”, Thúy Kiều có đôi mắt trong như làn nước mùa thu và lông mày mềm mại như dáng núi mùa xuân. Nghệ thuật ẩn dụ vô cùng đặc sắc, đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện nội tâm sâu sắc. Bút pháp chấm phá ước lệ thật tài tình cho thấy cái nhìn tinh tế của tác giả.

“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”

Vừa là cách nói quá, vừa nhân hóa đã lột tả được nét đẹp của nàng Kiều, nếu như nét đẹp của Thúy Vân được thiên nhiên nhận thua, nhường nhịn thì vẻ đẹp Thúy Kiều lại khiến thiên nhiên phải ghen phải ghen vì thua thắm, phải hờn vì kém. Đây cũng là bức chân dung số phận.

“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai”

Nàng Kiều sở hữu vẻ đẹp hoàn hảo tuyệt bích nhất, thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” đã giúp tác giả làm rõ vẻ đẹp của nàng Kiều, có lẽ ngoài Kiều không có đến người thứ hai. Tài năng trời phú lại cả cầm kỳ thi họa “đủ mùi ca ngâm”. Kiều là một cô gái thông minh có tài. Chi tiết nhỏ nhưng có thể cho ta thấy tinh thần nhân đạo của tác giả, đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ. Tài đánh đàn của Thúy Kiều điêu luyện đến mức tuyệt đỉnh. Các từ “làu”, “ăn đứt” được đại thi hào sử dụng đã nhấn mạnh tài năng ấy. Nhưng đó cũng chính là bản đàn bạc mệnh mà Kiều dành tặng cho chính mình, những bàn đàn như dự báo số phận, cành đàn lại “càng não nhân”. Kiều vừa là một người mang vẻ đẹp tài sắc, cũng là người có tâm hồn đa sầu đa cảm, một người con gái nên được yêu thương nhưng lại dự báo một tương lai “tài hoa bạc mệnh”.

Bằng bút pháp tài hoa, “con mắt nhìn thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”, đại thi hào Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Kiều mang vẻ đẹp toàn bích, tài hoa vẹn toàn. Qua đó, ta thêm trân trọng tài năng và tấm lòng nhân đạo của tác giả.

Phân tích vẻ đẹp Thúy Kiều – Mẫu 10

Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” là đoạn nằm ngay trong phần đầu của tác phẩm “Truyện Kiều” thuộc phần I – Gặp gỡ và đính ước. Hơn hết, Thuý Kiều vẫn là người con gái hoàn hảo cả về nhan sắc, tài năng. Những nét đẹp này vẫn rực rỡ, tỏa sáng dù có thế nào. Nàng vẫn giữ trọn một lòng tâm đức vẹn toàn. Về nhan sắc, Nguyễn Du đã miêu tả nàng qua những nét vẽ:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”

Hai câu thơ càng như thêm khẳng định vẻ đẹp của Kiều. Ông vốn muốn lấy vẻ đẹp của Thuý Vân để làm nền cho vẻ đẹp của Thuý Kiều nổi trội hơn, rực rỡ hơn. Với thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy như trên, kết hợp với các từ ngữ mang ý nghĩa so sánh như là “càng, phần hơn” và các tính từ “sắc sảo, mặn mà”, tác giả đã khẳng định Kiều có vẻ đẹp rực rỡ về dung nhan, đằm thắm về tâm hồn, tình cảm. Vẻ đẹp ấy là sự hội tụ của cả tài lẫn sắc “so bề tài sắc” điều mà Thuý Vân không có. Sau lời thơ miêu tả khái quát, tác giả lại đi vào miêu tả chi tiết Kiều:

“Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”

Khi tả Vân, tác giả lại đi vào miêu tả từng chi tiết, đường nét, từ gương mặt đến nụ cười, màu da, nước tóc. Còn khi tả Kiều, tác giả chỉ lựa chọn một chi tiết nhưng đấy lại là một chi tiết mang tính thần thái nhất, góp phần làm nên nhãn tự cho câu thơ, đó chính là đôi mắt nàng Kiều. Đôi mắt nàng trong sáng và thăm thẳm như mặt nước hồ thu ẩn dưới cặp lông mày thanh thản như dáng núi mùa xuân. Tác giả đã mượn hình ảnh ước lệ tượng trưng kết hợp với các vế tiểu đối gợi nhiều hơn tả, tác giả đã khắc hoạ được vẻ đẹp sắc sảo, kiều diễm, lộng lẫy của một trang giai nhân tuyệt thế với tâm hồn đa sầu, đa cảm. Và hơn thế nữa, vẻ đẹp ấy khiến cho hoa phải ghen, liễu phải hờn. Trong tự nhiên, hoa vốn tượng trưng cho cái đẹp thắm tươi, rực rỡ, còn liễu lại là tượng trưng cho sự mềm mại, tha thiết. Vậy mà cả hai đều phải “ghen, thua” nhường bước, lùi bước trước vẻ đẹp nổi trội, vượt ngưỡng của nàng Kiều với thái độ ganh ghét, đố kị.

Kiều không chỉ có vẻ đẹp khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn mà còn có tài năng xuất chúng, cầm kì thi hoạ, với “đủ món nghề”:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.

Ở Kiều, tài năng vốn là thiên bẩm, trời phú cho nàng sự thông minh và nét tài hoa hơn người, nàng có thể làm thơ, vẽ tranh, ca hát và đánh đàn. Trong đó, tài đánh đàn là nổi trội hơn cả. Không chỉ thế, nàng còn có thể sáng tác nên những bản nhạc “Bạc mệnh”. Bằng nghệ thuật liên kê kết hợp với những từ ngữ miêu tả cụ thể, tác giả đã khắc hoạ tài năng của Kiều là tài năng xuất chúng, nó hội tụ đầy đủ những yếu tố theo quan niệm truyền thống của xã hội phong kiến xưa kia đó là “cầm-kì-thi-hoạ”. Viết về tài năng của Kiều, một lần nữa, nhà thơ lại cho chúng ta hiểu thêm về tâm hồn của Kiều, của người con gái ấy. Nguyễn Du đằng sau những từ ngữ miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” nói chung và “Chị em Thuý Kiều” nói riêng đã thể hiện thái độ ngợi ca, trân trọng tài năng của người phụ nữ trong xã hội xưa, đây là nét mới mẻ và độc đáo của Nguyễn Du so với đương thời.

….

Đoạn văn Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều

Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một kiệt tác giàu giá trị cả nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm viết về số kiếp truân chuyên của người con gái tài sắc nhưng bạc mệnh Thúy Kiều. Đặc biệt, trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, thông qua bút pháp miêu tả nhân vật và nghệ thuật tả tình, nhà thơ Nguyễn Du đã tái hiện sống động vẻ đẹp, tài năng và những dự đoán về số phận sóng gió của nàng Kiều. Khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, nhà thơ đã không miêu tả cụ thể gương mặt của Kiều mà chỉ tập trung miêu tả đôi mắt của nàng. Đôi mắt ấy trong vắt, sâu thẳm như một hồ nước mùa thu tĩnh lặng còn đôi lông mày của Kiều lại thanh thoát như dáng núi mùa xuân. Chỉ bằng hai nét vẽ điểm nhãn nhưng Nguyễn Du đã gợi cho ta thấy vẻ đẹp tuyệt mỹ của nàng. Vẻ đẹp đó khiến cho “hoa ghen”, “liễu hờn”, làm nghiêng ngả cả thành quách “nghiêng nước nghiêng thành”. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá “hoa – liễu” biết “ghen – hờn” cùng thành ngữ nói quá để gợi lên vẻ đẹp xuất chúng, vượt trên mọi khuôn khổ của tự nhiên, khiến hoa, liễu phải ganh ghét, đố kị. Đồng thời ông cũng gợi ra cho người đọc một dự cảm không lành cho số phận truân chuyên kiếp hồng nhan của Kiều. Nếu như sắc đẹp của Kiều đã vô cùng tuyệt mỹ thì tài năng của nàng còn tuyệt vời gấp hai. Trời phú cho Kiều sự thông minh thiên phú cùng tài năng ở mọi lĩnh vực cầm kì thi hoạ. Tất cả nàng đều thông thạo, đều đạt tới mức lý tưởng theo quan niệm phong kiến “Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm”. Nhưng Kiều tài hoa nhất ở nghệ thuật đánh đàn và soạn nhạc. Không chỉ “làu bậc ngũ âm” trong nhạc cổ, Kiều còn có tài năng đánh “Hồ cầm” – một loại đàn cổ của người Hồ rất khó học. Đặc biệt nàng còn sáng tác ra khúc nhạc “Bạc mệnh” khiến cho ai nghe cũng phải đau khổ, buồn bã “não nhân”. Điều đó minh chứng cho một tâm hồn đa sầu đa cảm của Kiều, dự cảm về một tương lai đầy bi kịch, nước mắt. Vẻ đẹp của Kiều là bức chân dung về số phận về tính cách. Vẻ đẹp cũng như tài năng của nàng đều vượt trội so với những quy luật của tự nhiên. Nó báo hiệu một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh, éo le, truân chuyên, nghiệt ngã. Bằng những biện pháp như ước lệ tượng trưng, so sánh, nhân hoá, đặc biệt là nghệ thuật đòn bẩy đã cho ta thấy được vẻ đẹp tuyệt mỹ của Kiều. Qua đó một lần nữa khẳng định tài năng miêu tả con người rất xuất sắc của Nguyễn Du.

….

>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!

TOP 7 bài Cảm nhận vẻ đẹp Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều ngắn gọn, kèm theo 2 dàn ý chi tiết, giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận rõ hơn vẻ đẹp cùng số phận trắc trở, ngang trái của Thúy Kiều.

Thúy Kiều

Qua bút pháp ước lệ tượng trưng và nghệ thuật điểm nhãn tài tình của Nguyễn Du, người đọc không khỏi bồi hồi dự cảm về số phận trắc trở, ngang trái của nàng Kiều, một người con gái hồng nhan bạc mệnh. Mời các em cùng tải miễn phí bài viết dưới đây của Download.vn:

Cảm nhận về vẻ đẹp của Thúy Kiều hay nhất

Dàn ý cảm nhận vẻ đẹp của Thúy Kiều

Dàn ý 1

1. Mở bài:

  • Nguyễn Du là một nhà thơ tài năng, là bậc thầy ngôn ngữ.
  • Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Truyện Kiều”.
  • Tác phẩm là câu chuyện về cuộc đời nàng Kiều tài năng, xinh đẹp. Vẻ đẹp và tài năng của nàng thể hiện thông qua đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”.

2. Thân bài:

a. Khái quát về đoạn trích:

  • Vị trí: thuộc phần đầu “Gặp gỡ và đính ước”, giới thiệu về gia cảnh của Kiều.
  • Nội dung: Miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.

b. Vẻ đẹp của Thuý Kiều:

* Vẻ đẹp nhan sắc:

– Nguyễn Du đã tập trung miêu tả vẻ đẹp của Vân trước để làm đòn bẩy, nhấn mạnh vẻ đẹp của Kiều “Kiều càng sắc sảo mặn mà”.

  • Tác giả đã sử dụng nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên “làn thu thuỷ”, “nét xuân sơn”, “hoa”, “liễu” để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều.
  • Nguyễn Du chú ý miêu tả đôi mắt của Kiều “Làn thu thuỷ, nét xuân sơn” để gợi lên cả vẻ đẹp của nàng: Đôi mắt đẹp, trong như nước mùa thu, đôi lông mày như nét núi mùa xuân (bút pháp điểm nhãn).

– Vẻ đẹp của Kiều của vượt ra khỏi chuẩn mực thông thường:

  • Nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hoá “hoa ghen”, “liễu hờn” cùng thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” để chỉ vẻ đẹp của Kiều – một vẻ đẹp khiến thiên nhiên cũng ghen tị.
  • Việc miêu tả vẻ đẹp của Kiều vượt ra khỏi quy luật tự nhiên: gợi lên một số phận truân chuyên, trắc trở.

* Vẻ đẹp tài năng:

  • Nàng được trời phú cho bản tính “thông minh” cùng tài năng cầm, kì, thi, hoạ: tất cả đều nhất mực tinh thông.
  • Kiều còn “làu bậc ngũ âm” cũng như “ăn đứt hồ cầm”: nàng thuộc tất cả âm giai của nhạc cổ lại tinh thông đàn tỳ bà cổ.
  • Không chỉ vậy, Kiều còn có tài năng sáng tác với khúc nhạc “bạc mệnh”, mỗi khi tấu lên đều khiến người nghe phải sầu não, buồn thương.
  • Tài năng của nàng, đặc biệt là khúc nhạc “Bạc mệnh”: dự cảm về số phận éo le, “hồng nhan” đầy trắc trở của Kiều.

c. Đặc sắc nghệ thuật:

  • Nghệ thuật ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của Kiều rất đặc sắc.
  • Ngôn ngữ và hình ảnh so sánh đều hết sức gợi tả.
  • Nghệ thuật đòn bẩy, điểm nhãn, nhân hoá, … đều được sử dụng rất khéo léo.

3. Kết bài:

  • Vẻ đẹp và tài năng của Kiều đều là tuyệt mỹ nhưng nó cũng là dự cảm về số phận trắc trở của nàng.
  • Thể hiện tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du: trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp, phẩm chất của người phụ nữ xưa.

Dàn ý 2

a) Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

  • Nguyễn Du là đại thi hào, nhà thơ thiên tài của dân tộc, ông đã có nhiều đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc.
  • Truyện Kiều là kiệt tác bất hủ viết về cuộc đời của Thúy Kiều – người con gái tài hoa bạc mệnh.

– Giới thiệu đoạn trích Chị em Thúy Kiều: Đoạn trích viết về vẻ đẹp nhan sắc cùng tài năng của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều đặc biệt là sắc đẹp và tài năng của Kiều.

b) Thân bài

* Khái quát về đoạn trích:

  • Vị trí: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Thuý Kiều.
  • Giá trị nội dung: Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã ca ngợi vẻ đẹp của hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, mỗi người có một vẻ đẹp riêng và cùng dự cảm về số phận tương lai khác nhau của họ.

* Luận điểm 1: Vẻ đẹp nhan sắc của Thúy Kiều

  • “Kiều càng sắc sảo mặn mà” -> Thúy Kiều mặn mà về tâm hồn, sắc sảo về trí tuệ
  • “làn thu thủy”: vẻ đẹp của đôi mắt trong veo, êm dịu, đượm buồn như nước hồ mùa thu
  • “nét xuân sơn”: vẻ đẹp của đôi lông mày như nét bút vẽ núi mùa xuân trong bức tranh thủy mặc.

-> Tác giả sử dụng lối ước lệ tượng trưng để đặc tả riêng đôi mắt trong sáng, long lanh của Kiều.

=> Thúy Kiều gợi lên là trang tuyệt thế giai nhân với vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” khiến thiên nhiên phải ganh ghét, đố kị: hoa ghen, liễu hờn.

=> Dự cảm về số phận, cuộc đời lênh đênh sau này.

* Luận điểm 2: Tài năng của Thúy Kiều

  • Cái tài của Thúy Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến: cầm, kì, thi, họa

“Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm”

  • Kiều am hiểu mọi thứ nhưng nổi bật nhất là thi ca, cầm chương: “Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương”
  • Đặc biệt cung đàn bạc mệnh của nàng là tiếng lòng của trái tim đa sầu, đa cảm: “Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.

-> Dự báo cuộc đời, vận mệnh bi kịch của nàng như khúc đàn “Bạc mệnh”.

=> Chân dung Thúy Kiều khiến tạo hóa ganh ghét, tài hoa thiên bẩm, tâm hồn đa sầu đa cảm dự báo số phận trắc trở, nghiệt ngã đầy sóng gió bởi “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.

=> Số phận chung của người phụ nữ xưa phải chịu những tủi cực, khó khăn, sự bất công của xã hội. Cuộc đời của họ như tấm lụa đào phất phơ giữa chợ, như thân bèo trôi nổi vô định không biết trôi dạt về đâu.

* Đặc sắc nghệ thuật

  • Nghệ thuật miêu tả ước lệ tượng trưng
  • Sử dụng miêu tả khái quát cùng biến hóa, uyển chuyển tạo hứng thú với chân dung nhân vật
  • Nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo, đặc biệt là những từ có giá trị gợi tả cao.
  • Nghệ thuật lấy điểm tả diện, đòn bẩy
  • Các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đối xứng, liệt kê…

c) Kết bài

  • Khái quát lại vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều trong đoạn trích.
  • Nêu cảm nhận của em.

Cảm nhận vẻ đẹp của Thúy Kiều – Mẫu 1

Nguyễn Du là một nhà thơ tài năng, một bậc thầy của nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Tác phẩm nổi tiếng nhất mà ông để lại cho hậu thế là kiệt tác “Truyện Kiều”. Tác phẩm là câu chuyện về cuộc đời của nàng Kiều tài năng và xinh đẹp nhưng lại chịu số phận 15 năm lưu lạc, lênh đênh giữa cuộc đời. Vẻ đẹp và tài năng của nàng Kiều được Nguyễn Du thể hiện rõ thông qua đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”.

Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm ở phần đầu “Gặp gỡ và đính ước” của tác phẩm “Truyện Kiều”. Đây là phần mà tác giả Nguyễn Du tập trung giới thiệu về gia đình của Kiều. Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” miêu tả chi tiết về vẻ đẹp cũng như tài năng của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân, đặc biệt là vẻ đẹp của Thuý Kiều.

Nếu như đoạn trích có 24 câu thơ thì Nguyễn Du dành tới 12 câu thơ để miêu tả vẻ đẹp của Kiều, điều đó chứng tỏ sự ưu ái của ông dành cho nàng. Không chỉ vậy, mặc dù Kiều là chị gái của Thuý Vân, nhưng ông lại dồn tâm, dồn lực để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân trước khi miêu tả vẻ đẹp của Kiều. Để rồi khi bước sang miêu tả vẻ đẹp của Kiều, Nguyễn Du đã nhấn mạnh rằng:

“Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”

Đây chính là nghệ thuật đòn bẩy, khơi gợi trong lòng người đọc một sự chờ đợi trong mong mỏi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nàng Kiều. Và Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung nhan sắc của Kiều đẹp tuyệt vời như sau:

Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.”

Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để làm thước đo cho vẻ đẹp của con người. Những hình ảnh như thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu, … được ông sử dụng để thể hiện vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt sắc. Nếu như ở Thuý Vân, Nguyễn Du chú trọng miêu tả từng chi tiết trên khuôn mặt, lông mày, màu da, nước tóc,… thì ở Thuý Kiều, ông lại chỉ tập trung miêu tả đôi mắt của nàng. Bởi đối với một con người, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, chứa đựng tất cả tâm tư, tình cảm của người đó. Với Kiều, đôi mắt ấy như một “làn thu thuỷ”, còn đôi lông mày của nàng lại như một “nét xuân sơn”. Một đôi mắt trong biếc như làn nước của mùa thu cùng với đôi lông mày thanh tú tựa như dáng núi mùa xuân, một vẻ đẹp mà không có bút nào tả xiết! Đây là bút pháp điểm nhãn được Nguyễn Du sử dụng, chỉ một nét chấm phá mà gợi ra cả nhan sắc của một con người. Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều thông qua đôi mắt vậy mà ta cũng đã cảm nhận được vẻ đẹp thanh tú tuyệt vời của nàng. Vậy mới biết, ngòi bút của Nguyễn Du quả thật vô cùng xuất sắc! Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn so sánh vẻ đẹp của Kiều với “hoa”, với “liễu”, những vẻ đẹp yểu điệu, dịu dàng của thiên nhiên đã được người ta công nhân. Người xưa thường ví mỹ nhân như hoa, như ngọc. Vậy mà vẻ đẹp của nàng Kiều lại vượt qua cả vẻ đẹp của tạo hoá, vượt ra khỏi mọi khuôn khổ của vẻ đẹp tự nhiên, khiến cho “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, thậm chí là “nghiêng nước nghiêng thành”. Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá “hoa ghen”, “liễu hờn” cùng thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” chỉ để miêu tả vẻ đẹp của Kiều. Vẻ đẹp ấy của nàng quả là tuyệt mỹ, khiến cho tạo hoá cũng phải hơn thua mà ghen tị. Thế nhưng khi miêu tả vẻ đẹp của nàng, Nguyễn Du dường như đã dự cảm về số phận của Kiều, về cuộc đời trôi nổi của nàng sau này. Bởi vẻ đẹp của nàng đã vượt mọi khuôn khổ, gợi lên những mâu thuẫn, bất hoà với tạo hóa, vậy thì chắc hẳn cuộc đời của nàng cũng sẽ đầy những truân chuyên và quả đúng là như vậy!

Nàng Thuý Kiều xinh đẹp không chỉ có nhan sắc “chim sa cá lặn”, nàng còn là một người con gái với tài năng cầm, kỳ, thi, hoạ vô cùng tuyệt vời: “Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”. Ở Thuý Vân, Nguyễn Du chỉ tập trung miêu tả nhan sắc của nàng, nhưng với Thuý Kiều, ông lại chỉ dành một phần tả nhan sắc của nàng, còn lại, ông dồn hết tâm sức để miêu tả tài năng của nàng, rằng:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh, lại càng não nhân.”

Thuý Kiều, nàng không chỉ là hiện thân của vẻ đẹp mà còn là hiện thân của tài năng. Trời phú cho nàng sự “thông minh” thiên bẩm, lại còn phú cho nàng cả đủ cả “thi hoạ” và “ca ngâm”. Tất cả tài năng của nàng đều đạt tới mức tinh thông, lí tưởng, đặc biệt là tài năng đàn cầm. Phụ nữ xưa chỉ cần biết cầm, kì, thi, hoạ, mỗi thứ một chút ít đã là bậc tài nữ trong thiên hạ, vậy mà Thuý Kiều lại có thể “làu bậc ngũ âm” cũng như đánh được loại đàn “Hồ cầm” – loại đàn của người Hồ vô cùng khó học. Không chỉ giỏi đánh đàn, nàng còn có thể sáng tác ra những tuyệt khúc mà nổi bật là thiên “Bạc mệnh”. Tiếng đàn khúc “Bạc mệnh” của nàng vang lên đều khiến cho người nghe phải xúc động, đau khổ, sầu nào. Điều đó đã chứng minh cho tài năng thi ca vô cùng tuyệt vời của Kiều, nhưng đó cũng là biểu hiện, là dấu hiệu về số phận “bạc mệnh” của nàng. Bởi bài hát, khúc ca mang theo tâm tư của người viết nhạc, một khúc nhạc não nề, buồn thương như thế chứng minh cho một trái tim đa sầu đa cảm, cũng là dự báo về một cuộc đời “hồng nhan” éo le, đầy bất hạnh.

Có thể nói rằng Nguyễn Du đã vô cùng thành công khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều. Nghệ thuật ước lệ tượng trưng, đòn bẩy được ông sử dụng vô cùng tinh tế để làm nổi bật vẻ đẹp của Thuý Kiều so với người em Thuý Vân. Cùng với đó là nghệ thuật lấy điểm tả diện, nghệ thuật nhân hoá,… đều được Nguyễn Du sử dụng hết sức khéo léo khi miêu tả nhan sắc và tài năng của Kiều. Không chỉ vậy, những ngôn từ miêu tả hết sức độc đáo, những hình ảnh thiên nhiên so sánh có sức gợi cao đã giúp chúng ta hình dung ra vẻ đẹp và tài năng tuyệt vời của người con gái mang tên Vương Thuý Kiều.

Chỉ bằng những câu thơ của mình, Nguyễn Du đã vẽ lên bức chân dung vô cùng tuyệt mỹ của Thuý Kiều không chỉ về nhan sắc mà còn là tài năng của nàng. Nhưng qua những lời thơ miêu tả đầy ngợi ca ấy, ông cũng nói lên dự cảm của mình về cuộc đời đầy trắc trở của nàng Kiều. Từ đó, ta có thể thấy được một trong những cảm hứng nhân đạo mà Nguyễn Du gửi gắm là trân trọng vẻ đẹp, tài năng của những con người, đặc biệt là những phụ nữ trong xã hội xưa.

Cảm nhận vẻ đẹp của Thúy Kiều – Mẫu 2

Từ lâu, “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã được xem là một tác phẩm có giá trị độc đáo, đánh dấu một bước phát triển vượt bậc về cả nội dung và nghệ thuật truyện thơ Nôm ở thế kỉ XVIII. Mặc dù, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được sáng tác dựa trên cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc, nhưng những dụng ý, tư tưởng nghệ thuật và sự sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” có những bước đột phá mới mẻ, đậm đà giá trị nhân văn, nhân đạo, nhân bản, nhân sinh sâu sắc. Và một trong những sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo khéo léo của Nguyễn Du làm nên sự thành công của tác phẩm đó là nghệ thuật tả người. Điều này được thể hiện rất rõ, rất cụ thể trong trích đoạn “Chị em Thúy Kiều” qua vẻ đẹp chân dung và tài năng của nhân vật Kiều.

Đoạn trích nằm ở phần mở đầu của tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều. Sau khi dựng lên chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân, nhà thơ tập trung bút lực vào miêu tả vẻ đẹp của Kiều trong sự đối sánh với vẻ đẹp của Vân:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn

Vẻ đẹp của Kiều khác và hơn hẳn Vân cả về tài lẫn sắc. Đó là sự “sắc sảo” về trí tuệ; “mặn mà” về tâm hồn.

Trước hết là vẻ đẹp nhan sắc – ngoại hình của Kiều. Vẫn tiếp tục sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người qua một loạt các hình ảnh: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu, Nguyễn Du đã làm hiện vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt mĩ. Nhưng khi miêu tả Kiều, tác giả không miêu tả cụ thể chi tiết như ở Vân mà ngược lại, tác giả tập trung vào một điểm nhìn là đôi mắt “Làn thu thủy nét xuân sơn”: Đôi mắt sáng trong và sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Đây chính là lối vẽ “điểm nhãn” cho nhân vật. Bởi đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn con người. Và qua đôi mắt đó của Kiều, ta thấy được tâm hồn trong sáng, sâu thẳm và cuốn hút lạ thường của nhân vật. Vẻ đẹp nhan sắc của Kiều là vẻ đẹp vượt ra khỏi chuẩn mực của tự nhiên và khuôn khổ của người phụ nữ phong kiến nên: “Hoa ghen – liễu hờn” và thậm chí là nghiêng ngả cả thành quách, đất nước:

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Nghệ thuật nhân hóa (hoa ghen – liễu hờn) kết hợp với nghệ thuật nói quá (thành ngữ: Nghiêng nước nghiêng thành) vừa có tác dụng gợi tả vẻ đẹp của Kiều; lại vừa có tác dụng dự đoán về số phận, cuộc đời của nàng. Bởi vẻ đẹp đó gợi lên mâu thuẫn, không hài hòa (khác với Vân: thua – nhường: hài hòa, bình yên) nên chắc chắn cuộc đời nàng sẽ truân chuyên, trắc trở:

“Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

Tiếp đến là vẻ đẹp tài năng của Kiều. Nếu như khi tả Vân, nhà thơ chỉ chú trọng vào khắc họa vẻ đẹp nhan sắc mà không chú trọng tới miêu tả tài năng và tâm hồn thì khi tả Kiều, nhà thơ chỉ tả sắc một phần, còn lại dành phần nhiều vào tài năng:

Sắc đành đòi một tài đành họa hai

Chỉ một câu thơ mà nhà thơ đã nêu được cả sắc lẫn tài. Nếu như về sắc thì Kiều là số một thì về tài không ai dám đứng hàng thứ hai trước nàng. Tài năng của Kiều có thể nói là có một chứ không có hai trên đời. Vì được trời phú cho tính thông minh nên ở lĩnh vực nghệ thuật nào Kiều cũng toàn tài: cầm – kì – thi – họa. Tất cả đều đạt đến mức lí tưởng hóa theo quan niệm thẩm mĩ của lễ giáo phong kiến: “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. Đặc biệt tài năng của Kiều được nhấn mạnh ở tài đàn: “Cung thương lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”: nàng thuộc lòng các cung bậc và đánh đàn Hồ cầm (đàn cổ) thành thạo. Hơn thế, nàng còn giỏi sáng tác nhạc nữa: “Khúc nhà tay lựa nên chương/ Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Mỗi nàng lần đánh đàn, nàng lại cất lên bài hát “Bạc mệnh” làm cho người nghe phải đau khổ, sầu não. Bài hát chính là tâm hồn, là bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều, biểu hiện một trái tim đa sầu đa cảm và cuộc đời éo le, bất hạnh.

Tóm lại, chân dung của Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp khác người nên làm cho thiên nhiên phải ghen tị “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”; tài năng của Kiều vượt trội hơn người nên chắc chắn theo một qui luật thông thường của định mệnh “Chữ tài đi với chữ tai một vần” hay “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” nên cuộc đời Kiều là cuộc đời của một kiếp hồng nhan bạc mệnh, éo le và nghiệt ngã.

Đến đây chúng ta thấy được tài năng độc đáo của Nguyễn Du trong việc khắc họa chân dung con người. Từ vẻ đẹp chân dung, nhà thơ thể hiện những dự cảm về tính cách, cuộc đời, số phận của nhân vật. Và mặc dù, ở đầu đoạn trích, tác giả giới thiệu Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân nhưng sau đó, nhà thơ lại miêu tả chân dung nhân vật Vân trước, Kiều sau. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ trong việc tạo ra thủ pháp “đòn bẩy”. Điều đó có tác dụng nhấn mạnh và làm nổi bật được vẻ đẹp độc đáo, vượt trội về cả sắc lẫn tài và tình của nhân vật Thúy Kiều. Vì thế, tuy cùng sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng khi miêu tả hai nhân vật nhưng chúng ta thấy được mức độ đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Nhà thơ chỉ dùng bốn câu để tả Vân, còn lại dành tận mười hai câu để tả Kiều; tác giả khi tả Vân chỉ tập trung tả nhan sắc nhưng khi tả Kiều thì “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Mặc dù vậy nhưng ở nhân vật nào cũng hiện lên rất sống động, cụ thể, chân thực, mang vẻ đẹp, tính cách, số phận khác nhau.

Như vậy, bằng bút pháp ước lệ lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người, Nguyễn Du đã khắc họa thành công vẻ đẹp chân dung hai chị em Thúy Kiều, đặc biệt là vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều. Qua đó, chúng ta thấy được cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp, tài năng con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh đầy nhân văn ở Nguyễn Du.

Cảm nhận vẻ đẹp của Thúy Kiều – Mẫu 3

Nguyễn Du là một thi hào dân tộc Việt Nam. Ông đã để lại cho đời kiệt tác Truyện Kiều, tác phẩm mang đến tinh thần nhân đạo và hiện thực cao cả. Truyện Kiều là một bài ca lớn về giá trị nhân đạo, một bản cáo trạng nghiêm khắc về cái ác, phản ánh sâu sắc nhân bản về quyền con người. Truyện tập trung miêu tả nhân vật Thúy Kiều, một nhân vật với trọn vẹn vẻ đẹp, tài năng và đức hạnh.

Đoạn thơ trích trong phần mở đầu của Truyện Kiều có thể nói là là bức chân dung miêu tả rõ nét nhất vẻ đẹp của Thúy Kiều. Bốn câu mở đầu là lời giới thiệu chung về hai nhân vật có nhan sắc lộng lẫy, hai cô con gái đầu lòng của nhà viên ngoại họ Vương. Hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp với phép ẩn dụ là những biện pháp tu từ trong thơ văn cổ cho ta thấy sắc đẹp hai chị em Thúy Kiều thật là thanh tao, trong trắng như mai như tuyết của thiên nhiên

“Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Họ đẹp từ hình dáng bên ngoài cho đến tâm hồn bên trong. Nhà thơ tả Thúy Vân, tưởng như sắc đẹp của Thúy Vân không ai hơn được nữa để rồi sau đó Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân chỉ là cái nền làm tôn thêm vẻ đẹp của Kiều. Chỉ hai câu:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”

Đôi mắt của nàng Kiều được miêu tả bằng hai hình ảnh ẩn dụ:

“Làn thu thủy, nét xuân sơn”

Cặp mắt của nàng trong trẻo và long lanh như làn nước mùa thu, còn lông mày lại thanh nhẹ, đẹp như nét núi mùa xuân nghiêng nghiêng, duyên dáng. Đây cũng là vẻ đẹp ước lệ, tượng trưng thường gặp trong thơ văn cổ. Những nghệ thuật nhân hóa, thậm xưng, so sánh, hoán dụ, ẩn dụ, điển cố, liệt kê, đối ngữ, tương hỗ được vận dụng tuyệt đối đã đưa sắc đẹp của Thúy Kiều đến tuyệt đỉnh, vẻ đẹp sắc nước hương trời, không còn từ ngữ hay sự so sánh nào có thể lột tả được nữa.

“Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

“Hoa” và “liễu” là những loài vô tri, vô giác, vậy mà phải “ghen”, “hờn”, tức giận trước vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà”, “mười phân vẹn mười” của nàng Kiều. Vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành khiến mọi sự vật trên đời cũng đều ghen tị.

Nhưng qua nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy, đài các, kiêu sa, có sức cuốn hút mãnh liệt của Thúy Kiều, tuy nhan sắc đẹp mà không được lòng người như vậy, có thực sự đáng ngưỡng mộ hay không? Nguyễn Du đã hé mở cho chúng ta thấy những cơn sóng gió bão tố của cuộc đời như chờ trực để vùi dập thân phận của nàng.

Nếu như ở Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều, nàng được Nguyễn Du vừa miêu tả nhan sắc, vừa ca ngợi tài năng:

“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”

Giải nghĩa câu thơ có thể thấy Nguyễn Du miêu tả rằng về nhan sắc Thúy Kiều là số một trên đời nhưng về tài thì Kiều cũng thuộc loại nếu bị xếp thứ hai thì sẽ không biết ai là người thứ nhất. Thứ nhất là trí thông minh sẵn có do tạo hóa ban tặng:

“Thông minh vốn sẵn tính trời”

Thứ nhì là tài cầm – kì – thi – họa:

“Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương lầu bậc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương”

Nguyễn Du có dụng ý rất rõ trong việc nhấn mạnh tài sắc của Thúy Kiều, nhà thơ đã cực tả Thúy Vân, tưởng như sắc đẹp của Thúy Vân đã là cực phẩm, không ai hơn được nữa, nhưng rồi vẫn có người với tư chất không ai bì kịp là Kiều. Vẻ đẹp và tài năng của Kiều là sự sắp đặt của thiên mệnh.

Có thể nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, hình ảnh người phụ nữ hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn Du một cách trân trọng nhất.

Bằng một bút pháp điêu luyện kết hợp với lòng thương yêu của con người, nhất là người phụ nữ, Nguyễn Du vẽ lên bức chân dung vừa điển nhã, vừa có sức gợi cảm mãnh liệt của Thúy Vân và Thúy Kiều trong trích đoạn Chị em Thúy Kiều, đặc biệt là những câu thơ miêu tả tài sắc của nàng Kiều.

Cảm nhận vẻ đẹp của Thúy Kiều – Mẫu 4

Kiệt tác “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du hơn 200 năm nay làm say đắm lòng người không chỉ bởi giá trị xã hội sâu sắc, tư tưởng, quan niệm tiến bộ mà còn làm say đắm lòng người bởi những đoạn thơ miêu tả chân dung đạt đến độ uyên bác. Một trong số đó là đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” với bức chân dung tuyệt đẹp của Thúy Kiều.

Trong bức chân dung Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả chi tiết chân dung nàng với vẻ đẹp đài cát, cao sang, quý phái hơn người. Vẻ đẹp của Thúy Vân đạt chuẩn thước đo thẩm mĩ của chế độ phong kiến. Cô em đã đẹp như thế nhưng cô chị còn đẹp hơn. Vẻ đẹp của Thúy Kiều vượt lên trên khuôn mẫu, ràng buộc trước đó. Cái đẹp đó là cái đẹp của vẻ “sắc sảo” và “mặn mà”:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”

Nhà thơ đã cố tình nhấn mạnh các từ “càng”, “phần hơn”. Cô chị không chỉ đẹp hơn em mà còn tài giỏi hơn em. Nhắc đến vẻ đẹp của mỹ nhân xưa, người ta thường nghĩ đến vẻ đẹp liễu yếu đào tơ. Bởi vậy sự sắc sảo, mặn mà của Kiều hẳn là điều đặc biệt.

Khi dựng lên bức chân dung Thúy Vân, Nguyễn Du thể hiện nghệ thuật miêu tả toàn diện còn với Thúy Kiều, Nguyễn Du lại thiên về tả khái quát với những nét vẽ nhẹ nhàng, thanh thoát. Ngòi bút chấm phá cùng bút pháp ước lệ cổ điển, Nguyễn Du khiến người đọc chìm đắm vào vẻ đẹp của đôi mắt Kiều:

“Làn thu thủy nét xuân sơn”

Hội họa cổ điển phương Đông có những bút pháp khá độc đáo: lấy điểm tả diện, họa vân hiển nguyệt. Nguyễn Du cũng sử dụng bút pháp này, chỉ gợi tả “làn”, “nét” mà đã dựng lên bức chân dung của một mỹ nữ tuyệt sắc. Đó là đôi mắt trong sáng, long lanh, thăm thẳm, tình tứ và ăm ắp như hồ nước mùa thu ẩn dưới đôi lông mày thanh tú, kiều diễm như dáng núi mùa xuân. Vẻ đẹp của đôi mắt Kiều kết tinh tinh hoa của trời đất, của núi thẳm, sông dài; của những êm ả, dịu dàng của mùa thu và những trong sáng của mùa xuân. Chọn tả đôi mắt Kiều là một dụng ý của Nguyễn Du bởi đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn. Đôi mắt biết nói ấy phản ánh một tâm hồn đa cảm, một trí tuệ tinh anh. Nguyễn Gia Thiều đã lấy cảm hứng từ vẻ đẹp đôi mắt người cung nữ:

“Khóe thu ba gợn sóng kinh thành”

Đôi mắt người cung nữ ở đây được miêu tả rất đẹp, gợi ra vẻ sắc sảo, dữ dội chứ không ấm áp như đôi mắt Kiều.

Vẻ đẹp nhan sắc của Kiều được đặt trong mối quan hệ với thiên nhiên:

“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”

Các từ “hờn”, “ghen” được sử dụng với nghệ thuật nhân hóa để nói lên thái độ ghen ghét, đố kỵ của thiên nhiên trước vẻ đẹp vượt ngưỡng của Kiều. Vẻ đẹp đó còn được đặt trong mối quan hệ với con người. Đại thi hào đã dùng điển tích “nghiêng nước nghiêng thành” để khẳng định vẻ đẹp sắc nước hương trời của Kiều có thể sáng với vẻ đẹp của những mỹ nhân mà lịch sử đã ca tụng.

Xinh đẹp là vậy nhưng sinh ra nàng lại có sẵn trí tuệ thông minh trời phú do đó mà đa tài: đàn, ca, họa, làm thơ, soạn nhạc. Đặc biệt tài đàn của Kiều đã trở thành năng khiếu, sở trường. Kiều giỏi đàn đến mức soạn riêng cho mình một bản đàn bạc mệnh, chính là tiếng lòng, là trái tim đa cảm của Kiều. Tuy nhiên người xưa đã từng nói:

“Một vừa hai phải ai ơi
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”
hay “Chữ tài liền với chữ tai một vần”

Điều đó báo trước cho một số phận cay đắng, trầm luân, bất hạnh, gợi ra một nàng Kiều đa sầu, đa cảm, đa đoan.

Qua bức chân dung tuyệt sắc giai nhân, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ cổ điển, từ ngữ trau chuốt, gợi tả, gợi cảm cùng các thủ pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, điển cố đẹp hòa cùng với ngòi bút miêu tả chấm phá tài ba để xây dựng vẻ đẹp khuynh thành đảo quốc của Kiều.

Dựng lại bức chân dung mang tính cách số phận của Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện tấm lòng trân trọng, mến mộ của mình đối với người con gái bạc mệnh.

Cảm nhận vẻ đẹp của Thúy Kiều – Mẫu 5

Truyện Kiều là kiệt tác bất hủ của nền văn học dân tộc từ xưa đến nay. Không những thành công về nội dung, Truyện Kiều còn đạt được những giá trị nghệ thuật chưa từng có, góp phần nâng cao sức mạnh biểu đạt ngôn ngữ dân tộc và đưa thể thơ lục bát lên đỉnh cao chói lọi.

Nguyễn Du đã dồn hết tâm lực để gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân. Nhưng nhà thơ lại khiến cho người đọc ngạc nhiên hơn khi miêu tả bức chân dung miêu tả vẻ đẹp Thúy Kiều. Bằng cách nhấn thêm mấy chữ: “Kiều càng sắc sảo, mặn mà”, Nguyễn Du làm người đọc thích thú, háo hức đi tìm vẻ đẹp ấy. Nghệ thuật tả khách hình chủ khéo léo gợi ra bức chân dung người chị với vẻ đẹp hơn hẳn người em gấp bội lần:

“Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Thủ pháp ước lệ được vận dụng tài tình. Nguyễn Du không tả mà chỉ gợi ra trước mắt người đọc một pho tuyệt sắc. Dường như tất cả những gì tinh túy nhất của đất trời đã hội tụ vào hình dung ấy. Nhân vật không chỉ đẹp về hình thức mà còn đẹp cả trong phẩm chất và tài năng. Vẻ đẹp ấy thu hút mạnh mẽ ánh nhìn, càng ngắm càng thấy say mê.

Phụ từ “càng” nhấn mạnh và làm tăng tiến mức độ của vẻ đẹp và tài năng ấy. Cái tài của Nguyễn Du thể hiện ở sự linh hoạt trong ngôn ngữ khi miêu tả nhân vật. Ông không lặp lại cách tả chi tiết như đã tả thúy Vân. Ở Kiều có tất cả vẻ đẹp mà Thúy Vân có. Nhưng nàng sắc sảo, mặn mà hơn. Thúy Kiều không những xinh đẹp mà còn có nhiều tài năng.

Thiên tài họ Nguyễn tập trung gợi tả đôi mắt và hàng chân mày của Kiều: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”. Đôi mắt Kiều trong veo như mặt nước hồ thu êm ả. Đôi mắt ấy lại được điểm tô bằng hàng chân mày thanh tú và đầy dặn như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của người con gái đang độ tuổi phơi phới thanh xuân.

Một lần nữa người đọc nhận ra sự sáng tạo của nhà thơ. Nếu ở Thúy Vân, nhà thơ dùng những hình ảnh nhẹ nhàng, đằm thắm (mây, hoa, nguyệt, tuyết…) thì ở Thúy Kiều, Nguyễn Du lựa chọn hình ảnh cao lớn, rộng dài, sâu thẳm hơn (thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu,..). Thủ pháp tăng tiến về mức độ khiến cho vẻ đẹp của Thúy Kiều càng thêm sinh động. Qua đó, tác giả muốn khẳng định, đó là vẻ đẹp toàn mĩ, không gì sánh bằng. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Du một lần nữa nâng vẻ đẹp của Thúy Kiều lên hạng tuyệt đỉnh, chưa từng nhìn thấy ở trên đời:

“Một hai nghiêng nước, nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.

Thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” khẳng định vẻ đẹp của Thúy Kiều có thể làm chao đảo mọi tâm hồn. Nếu tài năng của nàng có thể có hai người thì sắc đẹp của nàng là duy nhất, chưa từng có ở trên đời này. Có thể nguyễn Du đã phóng đại sắc đẹp ấy lên nhiều lần. Song qua đó giúp ta thấu hiểu được tình cảm lớn lao mà tác giả đã cho nhân vật của mình.

Thúy Kiều được xây dựng như một con người toàn mĩ: kì tài và tuyệt sắc. Thế nhưng, thật đáng tiếc thay, vẻ đẹp ấy lại không thể hòa hợp với vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời. Nó khiến cho thiên nhiên phải “hờn ghen”, lòng người muôn phần đố kị: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Qua bức chân dung của Thúy Kiều, người đọc không khỏi bồi hồi dự cảm về một số phận đầy trái ngang, trắc trở của nàng về sau. Một cuộc đời đầy nghiệt ngã đang đón đợi nàng phía trước. Tấm lòng thương người của thiên tài Nguyễn Du là ở đây.

Cảm nhận vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều

Nguyễn Du là một trong những cây đại thụ của nền văn học dân tộc với nhiều áng văn bất hủ, nổi bật nhất trong số đó là kiệt tác “Truyện Kiều”. Ra đời dựa trên cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, tuy nhiên, Nguyễn Du đã thổi một làn gió mới khiến cho một câu chuyện vốn tẻ nhạt trở nên hấp dẫn, sinh động và mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Trong số các nhân vật của mình, Thúy Kiều là nhân vật được Nguyễn Du khắc họa chân thực và sinh động nhất cả về vẻ đẹp lẫn tài năng. Qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” ta sẽ thấy rõ điều đó.

Đoạn trích nằm ở phần đầu của tác phẩm: “Gặp gỡ và đính ước”. Thúy Kiều và Thúy Vân được miêu tả là hai nàng “tố nga” – vừa thông minh lại xinh đẹp hiếm có trong thiên hạ. Hai chị em “mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”. Với bút pháp ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã ngụ ý miêu tả vẻ đẹp của em gái Thúy Vân trước để làm đòn bẩy, làm nổi bật lên vẻ đẹp “phần hơn” của cô chị Thúy Kiều:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn

Nếu Thúy Vân được miêu tả là một cô gái “trang trọng khác vời” với “khuôn trăng đầy đặn” và “nét ngài nở nang” thì Thúy Kiều lại càng “sắc sảo mặn mà” hơn bội phần. Thúy Kiều có vẻ đẹp của một tuyệt thế giai nhân, nghiêng nước nghiêng thành. Không chỉ vậy, nàng còn giỏi cầm, kỳ, thi, họa. Bởi vậy, so về “sắc” hay “tài” thì Kiều đều giỏi hơn Vân một phần. Câu thơ đầy ngụ ý, mở ra cho người đọc thấy được vẻ đẹp và tài năng của nàng Kiều.

Bật mí:  Danh Sách Đầy Đủ Các Nhân Vật Trong Pokémon mới nhất

Để làm nổi bật hình tượng nàng Kiều, đầu tiên, Nguyễn Du tập trung miêu tả vẻ đẹp nhan sắc của nàng:

“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Bút pháp ước lệ tượng trưng được sử dụng có hiệu quả trong việc khắc hoạ vẻ đẹp của Thuý Kiều. Khuôn mặt nàng là một khuôn mặt vô cùng thanh tú, được so sánh như làn nước mùa thu, như dáng núi mùa xuân. Nếu khi miêu tả nàng Vân, Nguyễn Du tập trung miêu tả từng chi tiết thì đến nàng Kiều, ông chỉ tập trung khắc họa đôi mắt xinh đẹp, biết nói của nàng. Đó là một đôi mắt xanh, biêng biếc như làn nước trong vắt của mùa thu cùng đôi lông mày thanh thoát như dáng núi mùa xuân. Đôi mắt ấy tuyệt đẹp, chất chứa bên trong là một tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống. Nghệ thuật lấy điểm tả diện, tác giả chỉ cần đặc tả đôi mắt thôi cũng đủ để làm bật lên vẻ đẹp yêu kiều, thướt tha, trong sáng của cô tiểu thư đài các.

Chính vẻ đẹp vượt ra khỏi những nét đẹp chuẩn mực thông thường của người phụ nữ trong xã hội phong kiến của Kiều đã khiến cho “hoa ghen”, “liễu hờn”. Câu thơ như một lời dự báo của Nguyễn Du dành cho nàng. Có chăng, cuộc đời nàng Kiều sẽ gặp phải truân chuyên vì những kẻ mưu mô, hẹp hòi sẽ ghen, hờn với tài sắc “mười phân vẹn mười” của nàng? Nếu Thúy Vân có cuộc sống khiến vạn vật phải “thua”, “nhường” thì Thúy Kiều lại trái ngược. Nó dự báo cho một cuộc đời đầy giông bão, trắc trở sắp ập đến với nàng.

Bằng đôi ba câu ngắn ngủi, Nguyễn Du đã dựng nên vẻ đẹp về ngoại hình của Kiều. Với nét vẽ của một người họa sĩ, ông đã vẽ lên bức họa chân dung nàng Kiều với vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt thế. Vẻ đẹp ấy hoàn mĩ như một bức tranh thuỷ mặc: Có núi, có trời, có sắc nước mùa thu.

Không chỉ trầm trồ bởi vẻ đẹp của nàng Kiều, người đọc lại càng ngưỡng mộ tài năng thiên bẩm của nàng:

“Sắc đành đòi một tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”

Yêu thương Kiều, Nguyễn Du đã miêu tả nàng bằng những mỹ từ. Nếu về sắc, nàng là số một thì về tài, không ai dám đứng thứ hai trước nàng. Nguyễn Du ca ngợi Thúy Kiều tột bậc, nàng là một trong số những mỹ nhân hiếm có trong thiên hạ, vừa có cả sắc, vừa có cả tài. Vốn sẵn tính thông minh, Thúy Kiều vừa “pha nghề thi họa” lại cũng “đủ mùi ca ngâm”. Như vậy, cả bốn kỹ nghệ cầm – kỳ – thi – họa nàng đều thành thạo. Thế nhưng nổi bật nhất trong số đó là tài đánh đàn của nàng. Tiếng đàn ngân nga cất lên với “làu bậc ngũ âm” vô cùng thành thục và êm tai, thậm chí vượt xa những người con gái tài giỏi khác một bậc “ăn đứt hồ cầm một chương”. Thử hỏi mấy ai trong thiên hạ có được tài đánh đàn khéo léo, uyển chuyển giống như nàng?

Tuy tài năng là vậy nhưng Nguyễn Du cũng ngầm dự báo số phận éo le của Kiều bởi bản nhạc mà nàng thường đánh là bản “Bạc mệnh” vô cùng “não nhân”. Là một người con gái yêu kiều dịu dàng, thế nhưng nàng Kiều lại thường thích những bản nhạc u sầu, buồn bã. Điều đó như đã vận vào chính số mệnh của nàng. Bản bạc mệnh nàng đánh cho ai? Hay là đánh cho chính mình? Nàng không hề hay biết rằng, sắp tới nàng sẽ bước vào trang mới của cuộc đời cuộc đời với rất nhiều khổ đau và tủi nhục.

Như vậy, Nguyễn Du đã thành công phác họa bức chân dung của Thúy Kiều về cả sắc đẹp lẫn tài năng. Đó là một vẻ đẹp tuyệt mỹ khiến cho trời xanh đố kị, một tài năng vượt trội khiến cho ai cũng phải thán phục, trầm trồ. Thế nhưng, số phận nàng Kiều sẽ không thể tránh khỏi những truân chuyên như Nguyễn Du đã từng ca thán:

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Bằng bút pháp ước lệ tượng trưng, nghệ thuật lấy điểm tả diện, lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp con người, Nguyễn Du đã thành công khắc họa chân dung vẻ đẹp và tài năng của Kiều. Đặc biệt, tác giả sử dụng thành công thủ pháp đòn bẩy : Tả Thúy Vân trước để làm đòn bẩy nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều. Phải yêu thương nhân vật của mình thì ông mới có thể xây dựng được hình tượng nàng Kiều tuyệt đẹp, khiến bạn đọc phải trầm trồ đến vậy.

Đoạn thơ khép lại mang tới những dư âm sâu sắc trong lòng bạn đọc. Đó là dư âm về tài năng của Nguyễn Du, về ý nghĩa nhân sinh sâu sắc được chuyển tải trong những câu thơ. Ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ là cảm hứng muôn đời, có ý nghĩa từ xa xưa cho đến hiện tại. Quả không sai khi người ta nhắc đến Nguyễn Du là “một tài năng lớn, một nhân cách lớn”.

Cảm nhận vẻ đẹp và tài năng của nhân vật Thúy Kiều

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du là tập đại thành của thi ca Việt Nam thời trung đại. Tác phẩm nổi tiếng không chỉ bởi những tư tưởng vượt thời đại mà còn bởi bút pháp miêu tả nhân vật đầy nghệ thuật. Điều này được thể hiện rất rõ qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”. Ở đây, Nguyễn Du đã xây dựng nên một nàng Kiều tài sắc vẹn toàn, thể hiện sự ngợi ca dành cho những người phụ nữ tài hoa trong xã hội xưa.

Khi bắt đầu miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du viết:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”

Trước đó, tác giả đã miêu tả Thúy Vân là người con gái mang vẻ đẹp trang trọng, phúc hậu, khiến thiên nhiên phải nhún nhường vài phần. Thế nhưng đến Kiều, nàng lại mang vẻ đẹp “sắc sảo”, “mặn mà”. Nguyễn Du đã sử dụng đòn bẩy, đặt Thúy Vân lên trên trước để làm nổi bật lên vẻ đẹp của Kiều ở phía sau. Những từ “càng”, “phần hơn” mang theo sắc thái tăng tiến, làm tôn lên vẻ đẹp xuất chúng của đứa con gái cả nhà họ Vương.

Để tạo ấn tượng cho người đọc về Thúy Kiều, Nguyễn Du đã tập trung miêu tả rõ hơn vẻ đẹp của nàng ở hai câu sau:

“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Những hình ảnh của thiên nhiên như “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa”, “liễu” đã được tác giả sử dụng triệt để để diễn tả vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt sắc đang ở độ xuân thì. Kiều có đôi mắt long lanh, trong sáng, đẹp như “làn thu thủy” – làn nước mùa thu trong vắt. Cặp lông mày của nàng có “nét xuân sơn”, chính là dáng núi mùa xuân cong cong, nghiêng nghiêng, hài hòa với khuôn mặt. Chỉ với hai chi tiết đó thôi tác giả đã gợi ra cho ta về một người con gái đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Đây chính là bút pháp điểm nhãn, mô tả một vài bộ phận để gợi ra toàn bộ chủ thể. Người thiếu nữ ấy còn đẹp đến nỗi khiến cho thiên nhiên phải ghen tị. “Hoa” và “liễu” đã được nhân hóa với nét tính cách “ghen”, “hờn” thể hiện sự tự ti, ganh ghét đối với vẻ đẹp của nàng Kiều. Và có lẽ, đây cũng chính là điềm báo cho cuộc đời đầy sóng gió của nàng sau này.

Không chỉ là người có vẻ đẹp ngoại hình xuất sắc, Thúy Kiều còn được miêu tả với những tài năng xuất chúng:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh, lại càng não nhân.”

Con gái trưởng của Vương viên ngoại được trời phú cho sự thông minh nên khi học gì cũng tinh thông. Văn nhân thi sĩ thời xưa chơi đàn, chơi cờ, làm thơ, vẽ tranh thì Kiều cũng biết không thiếu một thứ gì. Không những thế, tài đánh đàn của nàng còn được người người ca ngợi. Thúy Kiều thuộc được cả năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. Nàng đàn Hồ cầm hay đến nỗi, nếu như người Hồ mà nghe tiếng đàn của nàng cũng phải xin thua. Thúy Kiều còn có thể tự sáng tác một khúc nhạc của riêng mình, lấy tên là “Bạc mệnh”. Bất cứ ai nghe xong khúc nhạc ấy đều không khỏi thổn thức vì những giai điệu tuyệt vời mà nàng Kiều mang đến

Để diễn tả vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều những biện pháp, bút pháp nghệ thuật đặc sắc như ước lệ tượng trưng, nghệ thuật đòn bẩy, điểm nhã, nhân hóa,… Mỗi thứ lại được sắp đặt khéo léo, hợp lí, giữ nguyên được cái nét giản dị của ngòi bút tác giả.. Mỗi câu thơ đọc lên, người đọc lại được một phen trầm trồ, thán phục và kinh ngạc vì cách miêu tả độc đáo nhà thơ mang lại.

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã thể hiện cho người đọc thấy rõ được vẻ đẹp về ngoại hình và tài năng của người con gái tài hoa tên Vương Thúy Kiều . Thế nhưng đó cũng là những dấu hiệu báo trước về số phận trắc trở của nàng sau này. Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã thể hiện sự ca ngợi dành cho vẻ đẹp của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn trong xã hội xưa.

Đề tài: Phân tích vẻ đẹp của Thuý Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều (Trích đoạn) truyện Kiều – Nguyễn Du).

***

Vẻ đẹp của Thúy Kiều được thể hiện qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều

(Bài văn đạt điểm cao của học sinh lớp 9)

Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc ta. truyện Kiều Là một kiệt tác của thơ cổ dân tộc sáng ngời tinh thần nhân đạo, xét về nghệ thuật, bài thơ này là một mẫu mực xuất sắc về ngôn ngữ, tả cảnh, tả người, tả tình, tự sự… mang đến cho nhân dân ta một nhiều hứng thú văn chương. Đoạn thơ giới thiệu chị em Thúy Kiều là một trong những đoạn thơ hay và đặc sắc nhất trong truyện Kiều. Thúy Kiều là nhân vật trung tâm của bài thơ, một thiếu nữ tài năng, xinh đẹp được nhà thơ khắc họa một cách duyên dáng, đẹp đẽ.

Hai chị em Kiều có vẻ đẹp thanh tao, trinh nguyên như “mai”, như “tuyết”, mỗi người có một vẻ đẹp riêng, vẹn toàn, hoàn hảo:

Bộ xương, tuyết tinh thần,

Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Vẻ đẹp của Thúy Vân là vẻ đẹp của một thiếu nữ “đàng hoàng” và “khác người” – rất quý phái: khuôn mặt “đầy đặn” sáng như trăng, mắt phượng, môi cười tươi như hoa. , giọng trong như ngọc.. Còn gì đẹp hơn mái tóc, màu da? – “Mây rụng màu tóc tuyết nhường màu da”. Nhà thơ đã dùng ước lệ tượng trưng để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân, tạo nên những hình ảnh ẩn dụ gợi cảm. Tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau là dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du nhằm khẳng định Kiều là một giai nhân tuyệt sắc:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề là người tài lại hơn.

Dung nhan Thúy Kiều rất đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”. Đôi mắt đẹp trong veo như làn nước mùa thu, lông mày thanh tú, xinh đẹp như dáng núi mùa xuân; một vẻ đẹp yêu kiều, xanh tươi khiến “hoa ghen thua, liễu kém xanh”. Lối viết riêng của nhà thơ phong phú, đa dạng: kết hợp các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa, thậm chí vận dụng tinh tế thi liệu cổ (nghiêng nước nghiêng thành) để tạo nên những vần thơ. vẻ đẹp gợi cảm. Hình bóng người đẹp được phác họa bằng đôi ba dòng phá lệ nhưng rất giàu cảm xúc, để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc và sự kính trọng:

Thu thủy, xuân sơn.

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Một hai nghiêng nước nghiêng thành.

Hoa Công như ưu đãi Kiều hết mực “Thành công phải cầu một, tài phải cầu hai”. Thông minh bẩm sinh “thiên bẩm”, tài năng xuất chúng: có tài làm thơ, vẽ giỏi, đàn giỏi; Môn nghệ thuật nào cô giỏi cũng trở thành “nghề”, “ăn đứt” thiên hạ:

Trí thông minh vốn dĩ là thần thánh,

Hòa điệu họa mi, đủ mùi tiếng hát.

Cung điện của năm âm tiết,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm trương.

Nguyễn Du đã không tiếc lời ca ngợi Thúy Kiều bằng một số từ biểu thị giá trị tuyệt đối: bản chất vốn có, công trộn lẫn, đủ thứ mùi hương…

Khi miêu tả tài sắc của Thúy Kiều, nhà thơ không chỉ nói đến sự tuyệt sắc ở hiện tại mà còn hàm ý dự đoán về tương lai của nàng, vẻ đẹp kiều diễm “ghen tuông… “Bạc mệnh” mà nàng sáng tác “ càng bâng khuâng” càng gợi trong tâm hồn ta một nỗi ám ảnh “chết người” mà nhà thơ đã khẳng định: “Trời xanh thói quen má hồng đánh ghen”,.. “Chữ tài đi liền với chữ tài một vần”,… Gần như hai thế kỷ nay, chân dung người phụ nữ đẹp qua bài thơ này. Chị em Thúy Kiều đã để lại trong lòng hàng triệu người dân Việt Nam tình cảm ấm áp, sự e ấp dành cho cô con gái đầu lòng của họ Vương. Đó chính là tài năng đích thực của Nguyễn Du trong nghệ thuật miêu tả con người.

Đức là gốc của con người. Thúy Kiều không chỉ có tài mà còn có đức. Cô được giáo dục theo khuôn khổ của giáo phái và gia phong. Tuy sống trong cảnh “lắm áo đỏ quần” đã đến “lục tuần” nhưng cô là một thiếu nữ có học và đức hạnh:

Nhẹ nhàng rũ tấm màn che,

Bức tường tấp nập ong bướm.

Tóm lại, Thúy Kiều là một nhân vật đẹp trong Đoạn trường Tân Thành. Thi hào Nguyễn Du với cảm hứng nhân đạo và tài thơ điêu luyện đã miêu tả Thúy Kiều bằng những vần thơ lục bát đẹp nhất. Anh dành cho nhân vật rất nhiều tình cảm và sự kính trọng sâu sắc. Sự kết hợp tài tình giữa ước lệ tượng trưng, ​​sử dụng sáng tạo các biện pháp tu từ, đặc biệt là ẩn dụ so sánh, ngôn ngữ thơ chắt lọc, cô đọng, giàu hình ảnh và sức gợi để vẽ nên một bức chân dung. một vẻ đẹp thơ ca rực rỡ nhất trong nền văn học cổ nước nhà. Thúy Kiều có “xuất thân” ngoại quốc nhưng dưới ngòi bút thiên tài của thi hào Nguyễn Du, nàng hiện lên với nhiều phẩm chất tốt đẹp, đậm đà bản sắc dân tộc. Vẻ đẹp nhân bản toát ra từ hình tượng Thúy Kiều chính là vẻ đẹp văn chương của đoạn thơ này.

Tuyển chọn những bài văn hay phân tích vẻ đẹp của nàng Kiều

Bài văn hay số 1:

Về nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du, Lã Nhâm Thìn nhận xét: “Tả người đẹp mà người đọc cảm thấy đẹp thật, đẹp thật là thành công rực rỡ”. Điều đó vô cùng chính xác.Không chỉ miêu tả thiên nhiên mà nghệ thuật tả người của Nguyễn Du cũng vô cùng tài hoa và đặc sắc.Dưới bàn tay tài hoa, tấm lòng trân trọng, nâng niu người phụ nữ, Nguyễn Du đã phác họa nên một bức chân dung đẹp, vượt mọi chuẩn mực của Thúy Kiều.

Trong văn học trung đại, chân dung của con người hiếm khi được tìm thấy. Chẳng hạn như Vũ Nương, chỉ được Nguyễn Du phác họa bằng một câu ngắn gọn: “Trời đã êm, lại thêm ý hay”. Còn Nguyễn Du thì miêu tả chi tiết, tường tận.

Thúy Kiều là chị cả, con gái vua ngoại tộc. Kiều và Vân đều có vẻ đẹp toàn bích, mỹ miều nhưng mỗi nàng lại mang một vẻ đẹp riêng, không lẫn vào đâu được. Để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng đòn bẩy, miêu tả Thúy Vân trước. Và thủ pháp này tỏ ra vô cùng hữu dụng, sau bốn câu thơ miêu tả chân dung Vân, ông tập trung miêu tả vẻ đẹp của Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề là người tài lại hơn.

Trong tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Thúy Kiều được miêu tả qua lời nhận xét của Kim Trọng: “Thúy Kiều có đôi lông mày nhỏ mà dài, đôi mắt trong veo mà sáng, chỉ tả được vẻ bề ngoài mà không được thần thái, phẩm chất bên trong của nàng nhân vật.Trong câu thơ của Nguyễn Du miêu tả cả thần thái của nhân vật.Thúy Kiều có cái nhìn sắc sảo cả về tài lẫn sắc.Cái “mặn” ở Thúy Kiều khiến người ta nhìn là say đắm, như uống rượu đã lâu rượu tuy nhạt nhưng ấn tượng sâu đậm, trường tồn.Đặc biệt điệp từ “có thể” kết hợp với nghệ thuật so sánh càng nhấn mạnh và khẳng định vẻ đẹp nổi bật của Thúy Kiều.Tuy chỉ dùng hai câu giới thiệu nhưng cũng đã cho ta hình dung ban đầu về một mỹ nhân xinh đẹp, có nét đẹp hiếm có xưa nay.

Nguyễn Du không miêu tả chi tiết như khi tái hiện chân dung Thúy Vân, bức tranh khắc họa chân dung Thúy Kiều chủ yếu qua bút pháp miêu tả và những hình ảnh ẩn dụ qua đôi mắt:

Thu sóng nước, xuân sơn

Đôi mắt Kiều trong veo, long lanh như làn nước mùa thu thể hiện một con người thông minh, nhanh nhẹn. Đôi mắt ấy sâu thẳm, tràn đầy sức sống, linh hoạt thể hiện một tâm hồn đượm buồn, đa cảm. Đôi mắt ấy như biết nói, biết thủ thỉ, đó là chiều sâu nội tâm của cô. Hình ảnh ước lệ, ẩn dụ “nét xuân sơn” gợi hình dáng đôi lông mày mảnh, sắc như dáng núi mùa xuân. Đôi lông mày ấy làm tôn lên vẻ đẹp của đôi mắt Thúy Kiều, làm cho cả khuôn mặt trở nên sáng sủa, trẻ trung và tươi tắn. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp vượt ngưỡng, vượt khỏi những chuẩn mực tự nhiên mà văn học trung đại lấy làm chuẩn mực. Đó là lý do tại sao:

Hoa khen thua, liễu bớt xanh.

Nghệ thuật nhân hóa qua hai từ “ghét và ghen” đã cho người đọc thấy bản chất sinh ra lòng đố kỵ, ghen ghét trước sắc đẹp của Thúy Kiều. Đây là một điềm xấu cho số phận tương lai của cô. Đặc biệt ở hai câu cuối khi nói về vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã ca ngợi vẻ đẹp toàn bích, hoàn hảo: Một hai nghiêng nước nghiêng thành/ Sắc phải cầu tài mới vẽ được hai. Thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” đã nhấn mạnh vẻ đẹp hoàn mỹ của nàng, một vẻ đẹp mà không ngòi bút nào có thể diễn tả được, một vẻ đẹp mặn mà, nồng nàn làm say đắm lòng người. Nhưng đằng sau câu thơ ấy là một dự báo đáng sợ về những bất trắc, giông tố đang chờ đợi Kiều ở phía trước.

Để làm nổi bật chân dung Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng một cách khéo léo những ước lệ tượng trưng để làm nổi bật vẻ đẹp hoàn mỹ, vượt qua những chuẩn mực của tự nhiên. Đồng thời với tư cách là một biện pháp đòn bẩy, tả Vân trước rồi mới tả Kiều cũng góp phần không nhỏ làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều.

Bằng những hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng chính xác, Nguyễn Du không chỉ xây dựng chân dung nàng Kiều mà còn là bức tranh tinh thần về nàng. Một cô gái có vẻ đẹp trong sáng, tâm hồn sâu sắc, nhạy cảm. Hình ảnh ấy cũng mang tính dự báo về cuộc đời nàng, vẻ đẹp vượt chuẩn mực tự nhiên, khiến hoa ghen, liễu hờn, dự báo tương lai đầy sóng gió, trắc trở của Kiều sau này.

Bài văn hay số 2:

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” được trích từ Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Đây là đoạn trích mà tác giả đã miêu tả chân dung của hai chị em Thúy Kiều mà nổi bật nhất là chân dung Kiều. Vẻ đẹp của nàng là một vẻ đẹp hoàn hảo, kiều diễm hội tụ đủ cả sắc – tài – tình. Nhưng suy cho cùng, tài năng của Kiều cũng không thể vượt ra ngoài khuôn khổ của quan niệm phong kiến ​​xưa “Hồng nhan bạc mệnh”.

Sau phần giới thiệu chung về hai chị em và chân dung vẻ đẹp riêng của Thúy Vân, Nguyễn Du đã lấy vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền, làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà…

Đã đòi một sắc, hai quan tài nguyên”

Tương tự như cách miêu tả chân dung Vân, tác giả vẫn sử dụng bút pháp so sánh, ẩn dụ, ước lệ. Dùng cách miêu tả, đưa ra những chuẩn mực của thiên nhiên để so sánh với vẻ đẹp của Kiều. Dường như với Kiều, tác giả đã tập trung miêu tả vẻ đẹp của đôi mắt, bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là biểu hiện của sự ưu tú, trí tuệ. Cả sự sắc bén của trí óc và sự ngọt ngào của tâm hồn đều liên quan đến đôi mắt. Hình ảnh ước lệ “làn nước mùa thu” đã gợi lên một cách sinh động một đôi mắt long lanh, trong veo và linh hoạt. Còn “xuân sơn” tả cặp lông mày thanh tú trên gương mặt thanh xuân. Quả thật, vẻ đẹp của Kiều thật phi thường và lộng lẫy, đến độ khiến thiên nhiên phải ghen ghét, đố kị. Điều đó chứng tỏ vẻ đẹp của Kiều đã vượt ra ngoài giới hạn của quy luật tự nhiên, ngoài sức tưởng tượng. Vẻ đẹp ấy có sức hút mãnh liệt làm “nghiêng nước nghiêng thành”, không bậc thang nào có thể đánh giá được. “Thành công cần một, cầu tài có hai” đã khẳng định một cách tuyệt đối vẻ đẹp của Kiều là duy nhất. Nhưng không chỉ có nhan sắc, Thúy Kiều còn là một cô gái thông minh lanh lợi, lắm tài nhiều tật:

“Trí thông minh vốn dĩ là thần thánh…

Số phận của một thiên đường bạc thậm chí còn nhiều hơn con người.”

Tác giả đưa tài năng và trí tuệ của Kiều lên hàng đầu, bởi trời phú cho tất cả. Những từ tuyệt đối được dùng như: vốn có, hỗn tạp, đủ mùi, lầu, ăn,… Theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, cô là người có đầy đủ tài – thi – thi – họa. Cái tài của tác giả cực tả còn là ca ngợi tấm lòng đặc biệt của nàng, khúc “Bạc ma” mà Kiều sáng tác là tiếng nói của một trái tim buồn đa cảm.

Như vậy, qua đoạn trích “Chị em Thúy Kiều“Chúng ta đã được xem một bức chân dung độc đáo về nàng Kiều của Nguyễn Du. Vẻ đẹp của tài và sắc của Kiều đã đạt đến mức tuyệt vời, nhưng chính cái tài ấy lại báo trước một tương lai đầy sóng gió và đau thương trong cuộc đời Kiều. Dù miêu tả chân dung, vẻ đẹp và bộc lộ tâm hồn và báo trước số phận, đó là một tài năng hiếm có của Nguyễn Du.

————————————————– – ——————-

» Tìm hiểu thêm:

Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

Phân tích vẻ đẹp cả thúy Vân và Thúy Kiều – Ngữ văn 9

Bài giảng Ngữ văn 9 Chị em Thúy Kiều 

Dàn ý Phân Tích Vẻ Đẹp Của Thuý Vân Và Thuý Kiều Trong Đoạn Trích Chị Em Thuý Kiều 

1. Mở bài

– Truyện Kiều là tác phẩm thuộc hàng kinh điển trong văn học Việt Nam.
– Biệt tài tả người, tả cảnh của Nguyễn Du ấn tượng nhất là ở bút pháp ước lệ tượng trưng, tiêu biểu là trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều.

2. Thân bài

* Vị trí, nội dung, nghệ thuật đoạn trích:
– Nằm ở phần mở đầu của Truyện Kiều.
– Nội dung khắc họa một cách cụ thể rõ nét và sinh động và độc đáo chân dung của chị em Thúy Kiều, qua đó Nguyễn Du bộc lộ cảm hứng nhân văn rất sâu sắc của mình.
– Nghệ thuật sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, thể thơ lục bát, ngôn ngữ chọn lọc, trau chuốt.

* 4 câu thơ đầu: “Đầu lòng … vẹn mười”: Khái quát chung về chị em Thúy Kiều
– Là 2 con gái lớn của Vương ông, Kiều là chị, Vân là em.
– Đây là hai người con gái với vẻ đẹp thanh cao, tâm hồn trong sáng tựa mai, tuyết.
– Nhấn mạnh dấu ấn cá nhân “Mỗi người một vẻ”.

* 4 câu thơ tiếp “Vân xem… màu da”: Miêu tả vẻ đẹp của Vân.
– Vân có vẻ đẹp “trang trọng”, quý phái cao sang và phúc hậu.
– Khuôn mặt tròn đây như mặt trăng, mày đậm, giọng nói tiếng cười thanh thoát như hoa như ngọc, tóc mượt như mây, da trắng hơn tuyết.
– Dự báo về một cuộc đời êm đềm, sang quý.

* 12 câu thơ tiếp “Kiều càng… não nhân”: Đặc tả nhan sắc và tài năng của nàng Kiều.
– “Sắc sảo mặn mà” hơn Thúy Vân, vẻ đẹp của Vân làm nền để tôn lên vẻ đẹp của Kiều. Kiều vừa sắc sảo về trí tuệ lại mặn mà cả về hình thể lẫn tâm hồn.
– Vẻ đẹp của Kiều được gợi ra một cách rất chung, để người đọc tự liên tưởng.
+ Đặc tả đôi mắt như nước mùa thu, hàng mày như núi mùa xuân, đó là những vẻ đẹp kinh điển của những trang tuyệt thế giai nhân.
+ Vẻ đẹp của Kiều không được sự chấp nhận thua kém từ thiên nhiên như Vân mà thay vào đó là sự ghen ghét, đố kỵ. Điều đó dự cảm một cuộc đời đầy sóng gió, chông gai của nàng.
+ Thành ngữ cổ “nghiêng nước nghiêng thành” lần nữa nhấn mạnh và tôn lên nhan sắc hiếm có của Kiều, đó là vẻ đẹp rực rỡ, họa thủy, trăm năm có một.
– Vẻ đẹp của Thúy Kiều không chỉ nằm ở bề ngoài mà còn là vẻ đẹp trí tuệ.
+ Tinh thông cầm, kỳ, thi, họa, đặc biệt có tài gảy hồ cầm điêu luyện.
+ Nàng còn biết sáng tác, thế nhưng những bản nhạc của nàng đều ai oán, não nề cho một kiếp người tài hoa bạc mệnh. Điều đó cho thấy tâm hồn đa sầu đa cảm và những dự đoán về một tương lai đoạn trường của Kiều.

* 4 câu thơ cuối: Khái quát về cuộc sống cũng như tình trạng của hai nàng.
– Cuộc sống ấm no, sung túc và êm đềm
– Hai nàng đã sắp đến tuổi gả chồng, búi tóc cài trâm
– Gia đình gia giáo, nề nếp, trướng rủ màn che, các nàng cũng chưa hề mang đến việc yêu đương nam nữ.

vẻ đẹp của thúy kiều

3. Kết bài

– Qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều đặc tả hai người con gái tài sắc mười phân vẹn mười, Nguyễn Du đã bộc lộ sự trân trọng, đề cao giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, từ vẻ đẹp nhan sắc đến vẻ đẹp tâm hồn, tài năng, đó chính là biểu hiện cực kỳ sâu sắc trong tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du.
– Việc sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng trong việc miêu tả nhân vật rất phù hợp với tư tưởng ca ngợi, ngưỡng mộ đề cao giá trị của con người trong tác phẩm, lấy vẻ đẹp của con người làm lý tưởng cho mọi vẻ đẹp của thiên nhiên rộng lớn.

Bài giảng Ngữ văn 9 Chị em Thúy Kiều 

Dàn ý Phân Tích Vẻ Đẹp Của Thuý Vân Và Thuý Kiều Trong Đoạn Trích Chị Em Thuý Kiều

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du (đại thi hào, danh nhân văn hóa thế giới)

Truyện Kiều là tác phẩm gây tiếng vang, trở thành kiệt tác văn học Việt Nam

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều không chỉ khắc họa vẻ đẹp của những trang tuyệt thế giai nhân mà còn thể hiện tài năng miêu tả chân dung nhân vật bậc thầy của Nguyễn Du

2. Thân bài

a. Khái quát vấn đề 

 Miêu tả nhân vật khắc họa tính cách và số phận của con người là tài năng của Nguyễn Du, đây là thành công lớn của ông

    + Xây dựng thành công nhiều nhân vật để lại dấu ấn như Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Mã Giám Sinh, Sở Khanh

b. Phân tích vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân

– Ban đầu, Nguyễn Du gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều từ hình ảnh thiên nhiên: mai, tuyết. Bút pháp ước lệ gợi ấn tượng về vẻ đẹp với cốt cách như mai, thanh tao, và cốt cách trong trắng, tinh khôi như tuyết

– Bốn câu thơ miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân :thanh cao, duyên dáng, trong trắng

    + Câu thơ “Vân xem trang trọng khác vời” khái quát được vẻ đẹp cao sang, quý phái của nàng.

    + Vẻ đẹp của Vân sánh với những thứ đẹp nhất từ tự nhiên như hoa, mây trăng, tuyết, ngọc

    + Chân dung của Thúy Vân dệp từ khuôn mặt, nụ cười, mái tóc, làn da, với phong thái điềm đạm (các chi tiết so sánh, ẩn dụ thú vị trong thơ)

→ Vẻ đẹp của Vân hơn mọi chuẩn mực của tự nhiên, khiến tự nhiên cúi đầu chịu ‘thua”, “nhường”, ắt hẳn cuộc đời nàng sẽ được an ổn, không sóng gió

– Vẻ đẹp của Thúy Kiều ( 12 câu thơ tiếp theo)

    + Tác giả sử dụng lối ước lệ tượng trưng: thu thủy, xuân sơn để đặc tả riêng đôi mắt trong sáng, long lanh của Kiều

    + Thúy Kiều gợi lên là trang tuyệt thế giai nhân với vẻ đẹp khiến tự nhiên phải ganh ghét, đố kị: hoa ghen, liễu hờn

    + Cái tài của Thúy Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến: cầm, kì, thi, họa

    + Nhấn mạnh tài đàn của nàng, đặc biệt cung đàn bạc mệnh của nàng ( Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân) là tiếng lòng của trái tim đa sầu, đa cảm

→ Chân dung Thúy Kiều khiến tạo hóa ganh ghét, tài hoa thiên bẩm, tâm hồn đa sầu đa cảm dự báo số phận trắc trở, nghiệt ngãm đầy sóng gió bởi “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”.

vẻ đẹp của thúy kiều

– Nguyễn Du miêu tả Thúy Vân trước rồi miêu tả Thúy Kiều, thủ pháp đòn bẩy này làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều

– Sử dụng tài tình các tính từ miêu tả vẻ đẹp Vân, Kiều ( vẻ đẹp mang số phận): mặn mà, trang trọng, sắc sảo…

– Các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đối xứng, liệt ke, tăng tiến, điển tích điển cố… được sử dụng linh hoạt trong đoạn trích

→ Bút pháp ước lệ tượng trưng là cách thể hiện con người quen thuộc trong thơ ca trung đại ( miêu tả qua những công thức, chuẩn mực có sẵn được quy ước trong nghệ thuật)

3. Kết bài

Đoạn trích khắc họa rõ nét chân dung chị em Thúy Kiều nhờ bút pháp ước lệ tượng trưng, thủ pháp đòn bẩy và các biện pháp tu từ

Nguyễn Du thể hiện cảm hứng nhân văn qua việc đề cao con người, ca ngợi vẻ đẹp tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh

Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân (mẫu 1)

Nền văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X-XIX được đánh dấu bằng nhiều tác phẩm thơ văn xuất sắc, mà tiêu biểu nhất phải kể đến Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Nhắc đến Truyện Kiều người ta không chỉ đơn giản nhớ đến một tác phẩm vang danh một thời, mà Truyện Kiều được xem là kiệt tác văn học được xếp vào hàng kinh điển của cả nền văn học Việt Nam, chứ không của riêng thời đại nào. Truyện Kiều đã quá đỗi quen thuộc và đi vào đời sống của nhân dân ta một cách tự nhiên nhất, từ đó hình thành nên những nét sinh hoạt văn hóa thú vị và đặc sắc ví như bói Kiều, ngâm Kiều, tranh Kiều, rồi vịnh Kiều,… Phải nói hiếm có tác phẩm văn học Việt Nam nào lại được truyền bá rộng rãi và thậm chí được dịch sang hơn hai mươi thứ tiếng khác nhau trên thế giới như Truyện Kiều. Dẫu nhiều câu nhiều chữ, nhưng tựu chung lại giá trị của tác phẩm nằm ở hai điểm lớn đó là cảm hứng hiện thực và tư tưởng nhân đạo xuyên suốt trong cả tác phẩm. Đọc Truyện Kiều người ta thường dễ dàng nhận ra Nguyễn Du có một biệt tài tả người, tả cảnh rất hay, rất độc đáo ấy là ở bút pháp ước lệ tượng trưng, trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã xuất sắc phác họa nên hai thiếu nữ tài sắc vẹn toàn với những hình ảnh tượng trưng, so sánh rất tinh tế, rất tài hoa.

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm trong phần mở đầu của tác phẩm, khi mà lúc này đây chị em Thúy Kiều vẫn đang sống cuộc sống êm ấm, nhung lụa. Phần mở đầu chủ yếu giới thiệu gia cảnh và thành viên trong gia đình Thúy Kiều, trong đó trọng tâm là miêu tả nhan sắc của hai chị em Vân, Kiều. Toàn bộ đoạn trích khắc họa một cách cụ thể rõ nét và sinh động và độc đáo chân dung của chị em Thúy Kiều, qua đó Nguyễn Du bộc lộ cảm hứng nhân văn rất sâu sắc của mình. Ông ca ngợi vẻ đẹp tài năng và nhan sắc của con người, đồng thời dự cảm về số phận tài hoa nhưng bạc mệnh của Thúy Kiều, cũng như cuộc sống có phần êm đềm, tĩnh lặng của Thúy Vân. Nghệ thuật chủ yếu trong cách miêu tả vẻ đẹp nhân vật là bút pháp miêu tả cổ điển, hết sức ước lệ tượng trưng, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để nói lên vẻ đẹp và tài năng của con người. Ngôn ngữ trau chuốt, chọn lọc, lời thơ lục bát có vần có nhịp rất trôi chảy và hàm súc.

Bốn dòng thơ đầu của đoạn trích là những khái quát chung nhất về hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều.

“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Vân và Kiều là hai người con gái lớn của Vương ông, Nguyễn Du dùng “tố nga” vốn có nghĩa là loài thiên nga xinh đẹp, điều đó nhằm phiếm chỉ vẻ đẹp thanh cao và duyên dáng của hai chị em Kiều. Tiếp đó Nguyễn Du lại lấy hình dáng cây mai làm “cốt cách”, bởi mai từ xưa đến nay vẫn được xếp vào hàng “tứ quân tử”, với vẻ đẹp thanh cao, ngay thẳng, sức sống mãnh liệt và kiên cường. “Tuyết tinh thần”, tức là tâm hồn luôn luôn trong sáng, trắng đẹp tựa như những hạt tuyết mùa đông, điều đó cũng dễ khiến người ta liên tưởng đến vẻ đẹp của hai cô gái kiêu sa, lòng không vướng nổi một hạt bụi trần. Kết lại, Nguyễn Du chốt rằng “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”, hai cô gái ấy có những nét tính cách cao đẹp giống nhau, nhưng luận về tài năng và nhan sắc thì không hề giống nhau, ai cũng có những vẻ đẹp rất riêng, không dám so rằng ai hơn ai, đó là cách mà Nguyễn Du nhấn mạnh và cá thể hóa từng nhân vật để làm tiền đề cho đoạn sau.

Đến 14 câu thơ tiếp, mỗi một độc giả hoàn toàn nhận ra rằng Nguyễn Du chủ yếu tập trung vào nhân vật người chị là Thúy Kiều với 12 câu thơ đặc tả Kiều và với chỉ bốn câu thơ để nói về người em là Vân. Trước tiên nói về những câu thơ tả Thúy Vân.

“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ cổ điển, chủ yếu là gợi nhiều hơn tả, vẽ nên dáng hình Thúy Vân với những nét đẹp rất độc đáo, có thể nói là khuôn vàng thước ngọc cho người con gái này. Nàng Vân với dáng vẻ “trang trọng” quý phái và cao sang, khuôn mặt thì tròn đầy phúc hậu như vầng trăng, nét mày ngài “nở nang”, nàng cũng có khuôn miệng duyên dáng, tiếng nói, tiếng cười như “ngọc thốt”, hết sức đoan trang nền nã. Thúy Vân cũng được ưu ái cho làn tóc mượt mà đến mây cũng không dám tranh, làn da trắng đến tuyết cũng phải nhường. Có thể nói vẻ đẹp của Thúy Vân là một vẻ đẹp rất hài hòa và lý tưởng, không nằm ngoài khuôn thước thẩm mỹ truyền thống trong xã hội cũ, điều đó đã định sẵn cũng như báo trước về một cuộc đời an nhàn và bình yên của nàng Vân trong Truyện Kiều, khác biệt hẳn so với chị mình.

Nói về nhan sắc và tài năng của Kiều, Nguyễn Du đã dùng một số lượng câu thơ gấp 3 lần so với khi tả Vân, thế nhưng vẻ đẹp của Kiều lại không được chỉ ra một cách cụ thể từ khuôn mặt, tóc tai, mày ngài, giọng nói, màu da giống như Vân mà Nguyễn Du thiên về hướng gợi bằng những hình ảnh thiên nhiên đặc sắc đem đến những ấn tượng chung và để độc giả tự suy ra vẻ đẹp khác biệt của nàng Kiều.

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.”

Có nhiều thắc mắc rằng vì sao Kiều là nhân vật chính nhưng lại được xếp tả sau, thì đến đây người ta mới vỡ lẽ ra rằng hóa ra tả Thúy Vân, để từ đó mà suy ra cái nhan sắc của Thúy Kiều. Nguyễn Du viết “Kiều càng sắc sảo mặn mà/So bề tài sắc lại là phần hơn”, đó là ý ngầm so sánh với Thúy Vân, nàng Vân có đẹp nhưng so ra Kiều lại vẫn hơn ở chỗ “sắc sảo, mặn mà”. Như vậy phần miêu tả nhan sắc của Vân chính là bệ phóng làm nền cho phần tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, Vân càng đẹp bao nhiêu thì càng khẳng định được cái nhan sắc rực rỡ của nàng Kiều bấy nhiêu. Phải nói “sắc sảo mặn mà” đều là những từ khái quát một cách ngắn gọn về cả tâm hồn lẫn hình thể của nàng Kiều, nàng sắc sảo về trí tuệ, nàng mặn mà về tâm hồn, nhan sắc. Cách tả của Nguyễn Du đặc sắc là ở chỗ ấy. “Làn thu thủy nét xuân sơn”, là miêu tả đôi mắt của người con gái đẹp và trong như nước mùa thu, còn “nét xuân sơn” chính là đôi mày cong tựa như núi mùa xuân, cách đặc tả đôi mắt của người thiếu nữ khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến một trang tuyệt thế giai nhân mà chỉ cần một ánh mắt thôi, thì đã đủ làm người người say đắm. Đồng thời người ta vẫn ví đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, người có đôi mắt mà sóng mắt lại trong như nước mùa thu thì hẳn tâm hồn nàng phải trong trẻo và đẹp đẽ đến nhường nào. Câu “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, phần để chỉ đôi môi đỏ, cùng làn tóc xanh của Kiều, mà nó quá đỗi rực rỡ xinh đẹp khiến thiên nhiên cũng phải hờn, phải ghen. Nghiên cứu kỹ câu thơ dường như ta đã nhận ra một dự báo về tương lai đầy gian nan và trắc trở của nàng Kiều. “Một hai nghiêng nước nghiêng thành” cũng là câu thơ để chỉ vẻ đẹp đến độ kinh diễm của Thuý Kiều, vẻ đẹp ấy có thể khiến cho nước mất nhà tan, vốn vẫn thường gọi là hồng nhan họa thủy. Như vậy Nguyễn Du không tả một cách cụ thể vẻ đẹp của Thúy Kiều mà lại chỉ ra sự ghen ghét, đố kỵ của thiên nhiên, cùng với lòng say mê ngưỡng mộ của cả thành trì, đất nước để tôn lên cái vẻ đẹp động lòng người của nàng Kiều. Câu thành ngữ cổ “nghiêng nước nghiêng thành” đã được tác giả sử dụng một cách sáng tạo để miêu tả vẻ đẹp tuyệt thế thiên tiên của nàng Kiều. Vẻ đẹp của Kiều không chỉ là vẻ đẹp rực rỡ bề ngoài mà còn thể hiện ở những vẻ đẹp có chiều sâu khác đó chính là vẻ đẹp tài năng, trí tuệ của nàng.

“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.”

Nguyễn Du viết “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, như vậy Kiều ngoài cái vẻ đẹp kinh động lòng người, thì còn có một thân tài nghệ. Nàng sinh ra đã được trời phú một dung mạo tuyệt mỹ, lại thêm bản tính vốn thông minh, học đâu biết đấy, thế nên cầm kỳ thi họa chẳng có thứ nào mà nàng không tinh thông, đặc biệt là trong cầm kỹ, nàng đã rèn riêng cho mình một thân hồ cầm tuyệt kỹ, phải nói khó có ai sánh bằng. Có thể nói Thúy Kiều đã đạt đến mức lý tưởng trong quan niệm truyền thống, tài sắc đều là bậc nhất, trăm năm mới có một người. Thúy Kiều ngoài khả năng đánh đàn, nàng còn biết cả sáng tác nhạc, thế nhưng những bản nhạc của nàng lúc nào cũng ai oán, như buồn, như thương cho số kiếp hồng nhan bạc mệnh, điều đó đã phần nào nói nên tâm hồn đa sầu đa cảm, đồng thời cũng là dự báo về một số kiếp trái ngang của Thúy Kiều.

“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

Sau khi miêu tả về nhan sắc và tài năng hai chị em Thúy Kiều, thì Nguyễn Du đã có những dòng thơ để nhận xét chung về cuộc sống cũng như tình trạng hiện tại của hai mỹ nhân nhà họ Vương. Có thể nhận ra rằng Kiều và Vân là con gái của viên ngoại thế nên hai nàng có cuộc sống khá sung túc, đủ đầy, quần là áo lụa, không phải lo nghĩ. “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” là đề cập đế tuổi tác của hai nàng đã sắp đến tuổi gả chồng, xuân sắc phơi phới, đặc biệt với nhan sắc và tài năng như thế nhưng hai nàng lại có một nề nếp gia phong nghiêm cẩn “Êm đềm trướng rủ màn che”, quanh quẩn chốn khuê phòng. Hai nàng cũng chưa từng một lần màng đến chuyện yêu đương nam nữ dù biết bao thanh niên tài tuấn đang dòm ngó, thế nên mới có câu “Tường đông ong bướm đi về mặc ai”.

Qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều đặc tả hai người con gái tài sắc mười phân vẹn mười, Nguyễn Du đã bộc lộ sự trân trọng, đề cao giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, từ vẻ đẹp nhan sắc đến vẻ đẹp tâm hồn, tài năng, đó chính là biểu hiện cực kỳ sâu sắc trong tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du. Việc sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng trong việc miêu tả nhân vật rất phù hợp với tư tưởng ca ngợi, ngưỡng mộ đề cao giá trị của con người trong tác phẩm, lấy vẻ đẹp của con người làm lý tưởng cho mọi vẻ đẹp của thiên nhiên rộng lớn. Đồng thời qua đoạn trích Nguyễn Du cũng đã hé lộ những dự cảm đầy xót thương về cuộc đời bi ai, bạc mệnh của nàng Kiều, cũng như của người phụ nữ trong xã hội phong kiến hủ lậu.

Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân (mẫu 2)

Nguyễn Du là một thiên tài văn học và ông được coi là Đại thi hào văn hóa của Việt Nam. Cả cuộc đời cầm bút, ông đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá trị, trong đó tiêu biểu có “Đoạn trường tân thanh” mà người Việt quen gọi nôm là “Truyện Kiều”. Trong chương trình Ngữ văn 9, tập 1, có đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” trích “Truyện Kiều”, là một trong những đoạn trích hay, độc đáo, thể hiện tài năng nghệ thuật miêu tả, khắc họa chân dung con người của Nguyễn Du, góp phần làm nên thành công của tác phẩm.

    Bốn câu mở đầu là lời giới thiệu chung về hai nhân vật có nhan sắc lộng lẫy này, hai cô con gái đầu lòng của nhà Viên ngoại họ Vương. Hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp với phép ẩn dụ là những biện pháp tu từ trong thơ văn cổ cho ta thấy sắc đẹp hai chị em Thuý Kiều thật là thanh tao, trong trắng như mai như tuyết của thiên nhiên. Những người con gái vừa mới lớn dậy này đã được Nguyễn Du giới thiệu thật súc tích nhưng đầy trân trọng mến thương:

“Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

    Họ đẹp từ hình dáng bên ngoài cho đến tâm hồn bên trong.

    Sau lời giới thiệu chung là bức chân dung của nàng Vân. Vẫn bút pháp ước lệ kết hợp với một hệ thống từ ngữ chọn lọc, bốn câu thơ tiếp theo như vẽ ra trước mắt ta hình ảnh người thiếu nữ trong sáng, ngây thơ, rất đỗi đoan trang, phúc hậu dễ hoà lẫn với chung quanh. Đây là cái đẹp toàn bích của người con gái hiền dịu, trong sáng, vô tư, không gợn một nét nhỏ bụi trần từ “khuôn trăng”, “nét ngài ” cho đến nụ cười, giọng nói. Nhưng nhà họa sĩ hình như không phải dụng công nhiều trong miêu tả nhân vật này. Bút lực của ông còn dành cho nhân vật Thuý Kiều. Nhà thơ tả Thuý Vân, tưởng như sắc đẹp của Thuý Vân không ai hơn được nữa để rồi sau đó Thuý Kiều xuất hiện thì Thuý Vân chỉ là cái nền làm tôn thêm vẻ đẹp của Kiều. Chỉ hai câu:

‘”Kiều càng sắc sào mặn mà”

So bề tài sắc lại là phần hơn” như là một phép đòn bẩy, nhà thơ đã nâng nhân vật chính lên một bậc cao hẳn cả tài lẫn sắc trước mắt người đọc. Đến đây, tác giả không dừng lại ở hình thức bên ngoài mà đi sâu vào tài năng, tính cách bên trong, vào sự “sắc sảo mặn mà”, “Một hai nghiêng nước nghiêng thành” của Thuý Kiều.

    Nếu ở nàng Vân, cái đẹp phúc hậu, đoan trang dễ chinh phục chung quanh: “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” thì ở nàng Kiều, cái đẹp “sắc sảo mặn mà” dễ gây tạo vật ghen tuông, hờn dỗi: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Thực ra vẻ đẹp bên ngoài là điều đáng chú ý, song đáng quan tâm hơn vẫn là tài hoa và tính cách của nhân vật. Tác giả đã dùng nhiều câu kiến trúc theo lối tiểu đối để cho tài và sắc của Thuý Kiều được giới thiệu đến mức độ tới hạn của nó:

Mai cốt cách tuyết tinh thần

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da

Làn thu thủy nét xuân sơn, .

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Sắc đành đời một tài đành họa hai

Chưa hết, Nguyễn Du đã không tiếc lời ca ngợi nàng bằng một loạt từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: “Thông minh vốn sẵn tính trời!”, “Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm”.

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Không một chữ đưa đẩy, các chữ, các hình ảnh đối chọi nhau và các từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối, đã thực sự tạo nên nhịp thơ trang trọng, đĩnh đạc càng tôn thêm tài sắc của Thuý Kiều.

Hai vẻ đẹp khác nhau nhưng bút pháp xây dựng lại giống nhau. Tác giả xây dựng hình tượng nhân vật thuần đường cong: làn nước mùa thu, ngọn núi mùa xuân, khuôn trăng, nét ngài, tóc mây, da tuyết, … Nói là chị em Thúy Kiều, nhưng đoạn thơ chỉ nhằm giới thiệu nàng Kiều với vẻ đẹp sắc sảo, tài hoa mà sắc sảo tài hoa đến mức “hoa ghen” “liễu hờn”., trong đó tài hoa mới thực là điều đáng trọng.

Tóm lại, đoạn thơ ngắn gọn, bố cục hoàn chỉnh, chặt chẽ, nghệ thuật tả người bậc thầy, với bút pháp điêu luyện đã chỉ đúng thần thái, cốt cách của nhân vật, từ ngoại hình đã bộc lộ nội tâm, ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, đồng thời dự báo những gì sẽ đến với từng nhân vật: cuộc đời Thuý Vân sẽ chẳng biết đến “sóng gió” là gì, còn cuộc đời Thuý Kiều sẽ không tránh khỏi “mệnh bạc”, kiếp “ đoạn trường”.

Bật mí:  Tên tiếng Anh 17 ngày lễ lớn của Việt Nam trong năm mới nhất

Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân (mẫu 3)

Truyện Kiều là tác phẩm bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây là một viên ngọc vô cùng quý giá trong kho tàng văn học dân tộc Việt Nam. Truyện Kiều vừa có giá trị nghệ thuật, vừa có giá trị nội dung sâu sắc. Với bút pháp miêu tả tài tình trong đoạn trích Chị em. Thuý Kiều, tác giả đã tạo nên chân dung Thuý Vân, Thuý Kiều vừa đa dạng vừa sinh động. Thuý Kiều, Thuý Vân hiện lên là những thiếu nữ đẹp, mỗi người lại có vẻ đẹp riêng.

          Chân dung Thúy Vân được Nguyễn Du vẽ lên trong bốn câu thơ. Vân xem trang trọng khác vời câu thơ này đã gợi ra vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thuý Vân. Còn trong ba câu còn lại, tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân bằng các hình ảnh ước lệ: Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Câu thơ đã miêu tả khuôn mặt của Thúy Vân. Nàng có khuôn mặt tròn như mặt trăng, lông mày rậm, cong như con ngài. Hoa cười, ngọc thốt đoan trang câu thơ này lại diễn tả sự đoan trang của Thúy Vân, nàng cười tươi như hoa, tiếng nói trong đẹp như ngọc. Và ta càng thấy Thúy Vân đẹp hơn trong câu thơ cuối: Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Tóc Vân đẹp hơn mây, da trắng hơn tuyết. Nguyễn Du đã rất tài tình khi lấy hình ảnh của thiên nhiên như trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết để miêu tả cái đẹp của Thuý Vân. Ta tưởng như Thuý Vân có vẻ đẹp được kết hợp từ những cái đẹp, cái cao quý của thiên nhiên. Nhưng Nguyễn Du còn tài tình hơn khi qua những vẻ đẹp ấy, ông bộc lộ được tính cách của Thuý Vân. Nàng là người cao sang mà phúc hậu, lại vô cùng đoan trang và có phần trang nghiêm, đứng đắn. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Thuý Vân được hiện lên cả vẻ đẹp lẫn tính cách.

Và Nguyễn Du còn tài tình hơn nửa khi khắc hoạ được chân dung của Thuý Kiều. Thuý Kiều cũng đẹp nhưng cái đẹp của nàng gây ấn tượng mạnh hơn và khác xa cái đẹp của Thuý Vân: Kiều càng sắc sảo mặn mà. Nét đẹp cùa Kiều là vẻ đẹp đằm thắm mặn mà, sắc sảo, quyến rũ chứ không phải là vẻ đẹp phúc hậu như Thuý Vân. Để tả Kiều, Nguyễn Du đã đi sâu vào tả đôi mắt của Kiều: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn. Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh như nước mùa thu, đôi lông mày cong, thanh thoát như nét núi mùa xuân. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, vì vậy Nguyễn Du khắc hoạ đôi mắt Kiều chính là cho thấy cái mặn mà, sắc sảo trong tâm hồn Kiều, cái tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân không gây nên sự đố kị thì cái đẹp của Thuý Kiều lại khiến hoa ghen, liễu hờn, cái đẹp ấy làm nghiêng nước nghiêng thành. Qua sự miêu tả của Nguyễn Du, Kiều quả thật rất đẹp, nhưng nàng không chỉ đẹp bên ngoài mà còn đẹp ở cái tài bên trong, cầm, ki, thi, hoạ những chuẩn mực tài năng lí tưởng của xã hội xưa đều hội tụ ở Kiều. Nàng giỏi làm thơ, thông thạo vẽ tranh, âm vực, nhạc lí và đặc biệt giỏi chơi đàn. Nàng còn có tài sáng tác nhạc. Bản nhạc Bạc mệnh do nàng sáng tác khiến ai nghe cũng buồn não lòng. Bản nhạc này chính là tiếng lòng từ trái tim đa sầu đa cảm của Kiều. Nguyễn Du đã gợi tả cả sắc, tài, tình của Kiều. Nàng Kiều quả là người vẹn toàn cả tài và sắc.

Tất cả những vẻ đẹp đó của Thúy Vân, Thúy Kiều được hiện lên thật sinh động chỉ qua những hình ảnh ước lệ. Hình ảnh ước lệ đã bộc lộ được cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn tính cách của Thuý Vân Nó còn cho thấy vẻ đẹp, cái mặn mà đằm thắm trong tâm hồn, cái tinh anh trong trí tuệ, tài năng của Kiều.

Hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân hiện lên với mỗi người một vẻ. Nếu như Thuý Vân mang vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang, cao sang thì Kiều lại có vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, sắc sảo, mặn mà, vẻ đẹp được kết hợp giữa cả tài lẫn sắc. Dù là hai chị em nhưng vẻ đẹp của Thúy Kiều, Thúy Vân rất khác nhau, báo hiệu số phận cũng khác nhau của hai người.

Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân (mẫu 4)

Đọc truyện Kiều mấy ai không nhớ vẻ đẹp sắc nước hương trời của hai người con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại:

Đầu lòng hai ả tố nga

Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười

        Chỉ bốn câu thơ thôi tác giả đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh hai người con gái xinh đẹp, dáng hình mảnh dẻ, thanh tao như mai và tâm hồn trắng trong như tuyết . Vẻ đẹp của cả hai đều đạt đến mức “mười phân vẹn mười ”nhưng nét bút của Nguyễn Du vẫn muốn đậm nhạt “mỗi người một vẻ” . Đến với người đọc trước hết là vẻ yêu kiều của Thuý Vân :

Vân xem trang trọng khác vời

Khuân trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười, ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da .

        Vân mới đẹp làm sao! Con người nàng toát lên vẻ trang trọng khác vời ,từng đường nét dường như đều là một kỳ công của tạo hoá :gương mặt tròn đầy ,tươi sáng như ánh trăng ,đôi mày dài thanh thoát,miệng cười tươi thắm như hoa ,tiếng nói trong như ngọc ,mái tóc mềm hơn mây ,làn da trắng mịn màng hơn tuyết. Cô gái ấy đã đẹp người lại ý nhị, đoan trang . Mỗi câu thơ thực sự là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân .Vẻ đẹp của nàng sánh ngang sự sáng trong của trăng,hoa,ngọc, vàng, mây,tuyết những báu vật tinh khôi trong trẻo của đất trời. Dường như phải tả như thế mới nói hết vẻ yêu kiều của một giai nhân.Vẻ đẹp của Thuý Vân đươc thiên nhiên ưu ái nhường nhịn nên có lẽ cuộc đời sẽ phẳng lặng ấm êm.

Đẹp như Thuý Vân tưởng đã là tuyệt thế ,nhưng không :

Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn .

Kiều đến với người đọc bằng ấn tượng đầu tiên : “sắc sảo mặn mà” .Các từ mang ý nghĩa so sánh:“càng”, “so bề”,“phần hơn”cho thấy nàng không chỉ có vẻ đẹp như Thuý Vân mà nàng còn đẹp hơn thế nữa.Cái “sắc sảo mặn mà” của người con gái đang độ trăng tròn được Nguyễn Du phác hoạ bằng vài nét chấm phá:

Làn thu thuỷ nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh .

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một ,tài đành hoạ hai .

Không chi tiết như khi tả Thuý Vân, tả Kiều tác giả chỉ tập trung đặc tả đôi mắt. Đôi mắt đẹp như làn nước mùa thu được điểm tô bằng đôi mày thanh nhẹ, tươi tắn như dáng núi mùa xuân.Phải chăng khi miêu tả đôi mắt của Thuý Kiều Nguyễn Du muốn người đọc hiểu rằng : đằng sau đôi mắt trong veo ấy là một tâm hồn đa cảm? Có thể là như thế .Chỉ biết rằng nàng đẹp lắm ,đẹp đến mức hoa phải ghen, liều phải hờn. Phép nhân hoá tài tình khiến người chợt liên tưởng : phải chăng hoa ghen với nàng bởi kém nàng hương sắc ,liễu hờn với nàng bởi kém nàng sự mềm mại thướt tha ?Không bằng những nét vẽ chi tiết ,chỉ vẫn là bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng Kiều đã thật sự hiện ra trước mắt người đọc với đầy đủ vẻ đẹp lộng lẫy của một trang quốc sắc thiên hương .Vài cái nhìn của nàng đủ khiến cho thành xiêu nước đổ . Buồn thay, chính vẻ đẹp sắc sảo mặn mà khiến thiên nhiên cũng phải hờn ghen, đố kỵ ấy đã dự báo trước một cuộc đời đầy sóng gió sẽ ập đến với nàng .

Không chỉ có nhan sắc tuyệt đỉnh,Thuý Kiều còn là người con gái thông minh, đa tài :

Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.

Ở nàng hội tụ đầy đủ tài thi- ca -nhạc- hoạ. Đỉnh cao của khiếu âm nhạc ở nàng là tài soạn nhạc với cung đàn“bạc mệnh ”mang âm điệu não nùng. Dường như số phận đã nhập vào điệu hồn riêng của nàng để hoá thân thành bản đàn bạc mệnh. Thuyết “tài mệnh tương đố” cũng mách bảo người nghe về một tương lai dâu bể sẽ xô cuốn đời nàng .Tất cả tài năng của Kiều đều ở mức tuyệt đỉnh ,tuyệt đỉnh như chính nhan sắc mà tạo hoá đã kỳ công ban cho nàng, mà“hồng nhan đa truân”,”chữ tài liền với chữ tai một vần ”.Triết lý đó đã được người học trò xuất sắc của đạo Khổng vận dụng để dự đoán trước cuộc đời của người con gái sắc nước hương trời ấy.

Dẫu vẫn sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tương trưng của văn thơ cổ song với tâm hồn mẫn cảm tài hoa, với cách sử dụng ngôn từ chắt lọc,chau chuốt, Nguyễn Du đã khắc hoạ thật sinh động hai bức chân dung Thuý Vân và Thuý Kiều,mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên từng tính cách số phận riêng,không lẫn vào nhau và càng không dễ phai nhoà trong tâm hồn người đọc .

Với một tấm nhân đạo ,một quan điểm thẩm mỹ và triết lý vì con người ,ở đoạn trích này Nguyễn Du đã thực sự tạo nên một viên ngọc bằng ngôn ngữ đẹp nhất ,lấp lánh nhất và cũng ý nghĩa nhất .Đúng như nhận định :“Với bút pháp tinh diệu, Nguyễn Du không những tạo nên được hai bức chân dung mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười mà dường như còn nói lên được cả tính cách ,thân phận toát ra từ diện mạo của mỗi vẻ đẹp riêng ” (Hoài Thanh).

Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân (mẫu 5)

Truyện Kiều là tác phẩm bất hủ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây là một viên ngọc vô cùng quý giá trong kho tàng văn học dân tộc Việt Nam. Truyện Kiều vừa có giá trị nghệ thuật, vừa có giá trị nội dung sâu sắc. Với bút pháp miêu tả tài tình trong đoạn trích Chị em. Thuý Kiều, tác giả đã tạo nên chân dung Thuý Vân, Thuý Kiều vừa đa dạng vừa sinh động. Thuý Kiều, Thuý Vân hiện lên là những thiếu nữ đẹp, mỗi người lại có vẻ đẹp riêng.

Chân dung Thúy Vân được Nguyễn Du vẽ lên trong bốn câu thơ: Vân xem trang trọng khác vời. Câu thơ này đả gợi ra vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thuý Vân. Còn trong ba câu còn lại, tác giả đã miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vàn bằng các hình ảnh ước lệ: Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Câu thơ đã miêu tả khuôn mặt của Thuý Vân. Nàng có khuôn mặt tròn như mặt trăng, lông mày rậm, cong như con ngài. Hoa cười, ngọc thốt đoan trang câu thơ này lại diễn tả sự đoan trang của Thuý Vân, nàng cười tươi như hoa, tiếng nói trong đẹp như ngọc. Và ta càng thấy Thuý Vân đẹp hơn trong câu thơ cuối: Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da. Tóc Vân đẹp hơn mây, da trắng hơn tuyết. Nguyễn Du đã rất tài tình khi lấy hình ảnh của thiên nhiên như trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết để miêu tả cái đẹp của Thuý Vân. Ta tưởng như Thuý Vân có vẻ đẹp được kết hợp từ những cái đẹp, cái cao quý của thiên nhiên. Nhưng Nguyễn Du còn tài tình hơn khi qua những vẻ đẹp ấy, ông bộc lộ được tính cách của Thuý Vân. Nàng là người cao sang mà phúc hậu, lại vô cùng đoan trang và có phần trang nghiêm, đứng đắn. Dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Thuý Vân được hiện lên cả vẻ đẹp lẫn tính cách.

Và Nguyễn Du còn tài tình hơn nữa khi khắc hoạ được chân dung của Thuý Kiều. Thuý Kiều cũng đẹp nhưng cái đẹp của nàng gây ấn tượng mạnh hơn và khác xa cái đẹp của Thuý Vân: Kiều càng sắc sảo mặn mà. Nét đẹp của Kiều là vẻ đẹp đằm thắm mặn mà, sắc sảo, quyến rũ chứ không phải là vẻ đẹp phúc hậu như Thuý Vân. Để tả Kiều, Nguyễn Du đã đi sâu vào tả đôi mắt của Kiều: Làn thu thuỷ, nét xuân sơn. Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh như nước mùa thu, đôi lông mày cong, thanh thoát như nét núi mùa xuân. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, vì vậy Nguyễn Du khắc hoạ đôi mắt Kiều chính là cho thấy cái mặn mà, sắc sảo trong tâm hồn Kiều, cái tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân không gây nên sự đố kị thì cái đẹp của Thuý Kiều lại khiến hoa ghen, liễu hờn, cái đẹp ấy làm nghiêng nước nghiêng thành. Qua sự miêu tả của Nguyễn Du, Kiều quả thật rất đẹp, nhưng nàng không chỉ đẹp bên ngoài mà còn đẹp ở cái tài bên trong, cầm, kì, thi, hoạ những chuẩn mực tài năng lí tưởng của xã hội xưa đều hội tụ ở Kiều. Nàng giỏi làm thơ, thông thạo vẽ tranh, âm vực, nhạc lí và đặc biệt giỏi chơi đàn. Nàng còn có tài sáng tác nhạc. Bản nhạc Bạc mệnh do nàng sáng tác khiến ai nghe cũng buồn não lòng. Bản nhạc này chính là tiếng lòng từ trái tim đa sầu đa cảm của Kiều. Nguyễn Du đã gợi tả cả sắc, tài, tình của Kiều. Nàng Kiều quả là người vẹn toàn cả tài và sắc.

Tất cả những vẻ đẹp đó của Thuý Vân, Thuý Kiều được hiện lên thật sinh động chỉ qua những hình ảnh ước lệ. Hình ảnh ước lệ đã bộc lộ được cả vẻ đẹp bên ngoài lẫn tính cách của Thuý Vân Nó còn cho thấy vẻ đẹp, cái mặn mà đằm thắm trong tâm hồn, cái tinh anh trong trí tuệ, tài năng của Kiều.

Hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân hiện lên với mỗi người một vẻ. Nếu như Thuý Vân mang vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang, cao sang thì Kiều lại có vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, sắc sảo, mặn mà, vẻ đẹp được kết hợp giữa cả tài lẫn sắc. Dù là hai chị em nhưng vẻ đẹp của Thuý Kiều, Thuý Vân rất khác nhau, báo hiệu số phận cũng khác nhau của hai người.

Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân (mẫu 6)

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc ta. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyện Kiều” – kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Có lẽ đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” trích trong tác phẩm là những vần thơ tuyệt bút. Chỉ bằng 24 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã miêu tả cả tài, sắc và đức hạnh của hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều với tất cả lòng quý mến, trân trọng của nhà thơ.

Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm trong phần: “Gặp gỡ và đính ước”, sau phần giới thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân.

Trước hết, Nguyễn Du cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuý Kiều trong bốn câu đầu:

Đầu lòng hai ả tố nga, 

Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân. 

Mai cốt cách, tuyết tinh thần, 

Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.

Nhà thơ dùng từ Hán Việt “tố nga” chỉ những người con gái đẹp tinh tế để gọi chung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Hai chị em được ví von có cốt cách thanh cao như hoa mai, có tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. Mỗi người có vẻ đẹp riêng và đều đẹp một cách toàn diện. Từ cái nhìn bao quát ấy, nhà thơ đi miêu tả từng người. Bằng nghệ thuật ước lệ tượng trưng, liệt kê, nhân hoá, tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp trang trọng, quý phái, phúc hậu:

Vân xem trang trọng khác vời, 

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười , ngọc thốt đoan trang, 

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da

Vẻ đẹp của Thuý Vân có sự hoà hợp với tự nhiên, như ngầm dự báo trước tương lai êm ấm, bình lặng trong cuộc đời nàng.

Tác giả dùng thủ pháp đòn bẩy, tả khách hình chủ, tả Thuý Vân trước rồi mới tả Thuý Kiều. Vân đã đẹp, Kiều càng muôn phần đẹp hơn. Thuý Kiều lại có nhan sắc “sắc sảo mặn mà”. Kiều “sắc sảo” về trí tuệ, “mặn mà” về tâm hồn. Đặc biệt, vẻ đẹp ấy thể hiện qua đôi mắt “làn thu thuỷ nét xuân sơn”. Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt Kiều trong sáng, long lanh như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân được thiên nhiên tạo hoá sẵn sàng nhường nhịn thì với Thuý Kiều, vẻ đẹp ấy lấn át cả thiên nhiên, khiến cho thiên nhiên ấy phải đố kị, ghen ghét:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà, 

So bề tài sắc lại là phần hơn, 

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” 

Nếu như nhan sắc của Thuý Kiều khiến cho nghiêng thành đổ nước, không ai sánh bằng thì tài năng của nàng may ra mới có người thứ hai.

“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai, 

Thông minh vốn sẵn tính trời, 

Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm” 

Thuý Kiều thông minh do thiên bẩm nên tất cả những môn nghệ thuật: thi hoạ, ca ngâm, nàng đều rất điêu luyện, đặc biệt là tài gảy đàn: “Cung thương làu bậc ngũ âm”. Nàng không chỉ giỏi về âm luật mà còn biết sáng tác. Khúc nhạc “Bạc mệnh” mà nàng sáng tác làm cho người nghe phải rơi lệ.

Như vậy, vẻ đẹp của Thuý Kiều là sự kết hợp giữa sắc – tài – tình. Chính vẻ đẹp ấy cũng ngầm dự báo một số phận không êm đềm, bình lặng như Thuý Vân, mà đầy trắc trở, éo le.

Những câu thơ cuối khái quát về cuộc sống đức hạnh của chị em Thuý Kiều:

“Êm đềm trướng rủ màn che, 

Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Hai chị em sống trong môi trường gia giáo, nề nếp, tránh xa những chuyện thị phi ong bướm ngoài đời.

Đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” đã tái dựng tài tình chân dung hai trang tuyệt sắc giai nhân Thuý Vân, Thuý Kiều bằng nhiều biện pháp ẩn dụ, tượng trưng, hình ảnh ước lệ, từ ngữ trong sáng, giàu sức gợi. Qua chân dung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều, nhà thơ Nguyễn Du đã bộc lộ thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ. Đó chính là một trong những biểu hiện rõ nét của tư tưởng nhân đạo Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.

Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân (mẫu 7)

“Kiều càng sắc sảo mặn mà, 

So bề tài sắc lại là phần hơn, 

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” 

Nếu như nhan sắc của Thuý Kiều khiến cho nghiêng thành đổ nước, không ai sánh bằng thì tài năng của nàng may ra mới có người thứ hai.

“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai, 

Thông minh vốn sẵn tính trời, 

Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm” 

Thuý Kiều thông minh do thiên bẩm nên tất cả những môn nghệ thuật: thi hoạ, ca ngâm, nàng đều rất điêu luyện, đặc biệt là tài gảy đàn: “Cung thương làu bậc ngũ âm”. Nàng không chỉ giỏi về âm luật mà còn biết sáng tác. Khúc nhạc “Bạc mệnh” mà nàng sáng tác làm cho người nghe phải rơi lệ.

Như vậy, vẻ đẹp của Thuý Kiều là sự kết hợp giữa sắc – tài – tình. Chính vẻ đẹp ấy cũng ngầm dự báo một số phận không êm đềm, bình lặng như Thuý Vân, mà đầy trắc trở, éo le.

Những câu thơ cuối khái quát về cuộc sống đức hạnh của chị em Thuý Kiều:

“Êm đềm trướng rủ màn che, 

Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Hai chị em sống trong môi trường gia giáo, nề nếp, tránh xa những chuyện thị phi ong bướm ngoài đời.

Đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” đã tái dựng tài tình chân dung hai trang tuyệt sắc giai nhân Thuý Vân, Thuý Kiều bằng nhiều biện pháp ẩn dụ, tượng trưng, hình ảnh ước lệ, từ ngữ trong sáng, giàu sức gợi. Qua chân dung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều, nhà thơ Nguyễn Du đã bộc lộ thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ. Đó chính là một trong những biểu hiện rõ nét của tư tưởng nhân đạo Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.

Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân (mẫu 8)

Văn bản “Chị em Thuý Kiều ”trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những đoạn thơ tả người hay nhất ,đẹp nhất không chỉ bởi ngôn ngữ thơ trong sáng mà còn bởi ở đó có hai chị em nhà họ Vương nhan sắc, tài năng đều hội tụ đủ đầy .

Đọc truyện Kiều mấy ai không nhớ vẻ đẹp sắc nước hương trời của hai người con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại:

Đầu lòng hai ả tố nga
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười

Chỉ bốn câu thơ thôi tác giả đã giới thiệu với chúng ta hình ảnh hai người con gái xinh đẹp, dáng hình mảnh dẻ, thanh tao như mai và tâm hồn trắng trong như tuyết.Vẻ đẹp của cả hai đều đạt đến mức “mười phân vẹn mười ”nhưng nét bút của Nguyễn Du vẫn muốn đậm nhạt “mỗi người một vẻ”. Đến với người đọc trước hết là vẻ yêu kiều của Thuý Vân :

Vân xem trang trọng khác vời
Khuân trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da .

Vân mới đẹp làm sao! Con người nàng toát lên vẻ trang trọng khác vời ,từng đường nét dường như đều là một kỳ công của tạo hoá :gương mặt tròn đầy ,tươi sáng như ánh trăng ,đôi mày dài thanh thoát,miệng cười tươi thắm như hoa ,tiếng nói trong như ngọc ,mái tóc mềm hơn mây ,làn da trắng mịn màng hơn tuyết …Cô gái ấy đã đẹp người lại ý nhị, đoan trang . Mỗi câu thơ thực sự là một nét vẽ tài hoa về bức chân dung giai nhân .Vẻ đẹp của nàng sánh ngang sự sáng trong của trăng,hoa,ngọc, vàng, mây,tuyết -những báu vật tinh khôi trong trẻo của đất trời. Dường như phải tả như thế mới nói hết vẻ yêu kiều của một giai nhân.Vẻ đẹp của Thuý Vân đươc thiên nhiên ưu ái nhường nhịn nên có lẽ cuộc đời sẽ phẳng lặng ấm êm.

Đẹp như Thuý Vân tưởng đã là tuyệt thế ,nhưng không :

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn .

Kiều đến với người đọc bằng ấn tượng đầu tiên : “sắc sảo mặn mà” .Các từ mang ý nghĩa so sánh:“càng”, “so bề”,“phần hơn”cho thấy nàng không chỉ có vẻ đẹp như Thuý Vân mà nàng còn đẹp hơn thế nữa.Cái “sắc sảo mặn mà” của người con gái đang độ trăng tròn được Nguyễn Du phác hoạ bằng vài nét chấm phá:

Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh .
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một ,tài đành hoạ hai .

Không chi tiết như khi tả Thuý Vân ,tả Kiều tác giả chỉ tập trung đặc tả đôi mắt.Đôi mắt đẹp như làn nước mùa thu được điểm tô bằng đôi mày thanh nhẹ ,tươi tắn như dáng núi mùa xuân.Phải chăng khi miêu tả đôi mắt của Thuý Kiều Nguyễn Du muốn người đọc hiểu rằng : đằng sau đôi mắt trong veo ấy là một tâm hồn đa cảm ? Có thể là như thế. Chỉ biết rằng nàng đẹp lắm ,đẹp đến mức hoa phải ghen, liều phải hờn . Phép nhân hoá tài tình khiến người chợt liên tưởng :phải chăng hoa ghen với nàng bởi kém nàng hương sắc ,liễu hờn với nàng bởi kém nàng sự mềm mại thướt tha ? Không bằng những nét vẽ chi tiết ,chỉ vẫn là bút pháp ước lệ tượng trưng nhưng Kiều đã thật sự hiện ra trước mắt người đọc với đầy đủ vẻ đẹp lộng lẫy của một trang quốc sắc thiên hương .Vài cái nhìn của nàng đủ khiến cho thành xiêu nước đổ . Buồn thay, chính vẻ đẹp sắc sảo mặn mà khiến thiên nhiên cũng phải hờn ghen, đố kỵ ấy đã dự báo trước một cuộc đời đầy sóng gió sẽ ập đến với nàng .

Không chỉ có nhan sắc tuyệt đỉnh,Thuý Kiều còn là người con gái thông minh, đa tài :

Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.

Ở nàng hội tụ đầy đủ tài thi- ca -nhạc- hoạ.Đỉnh cao của khiếu âm nhạc ở nàng là tài soạn nhạc với cung đàn“bạc mệnh ”mang âm điệu não nùng.Dường như số phận đã nhập vào điệu hồn riêng của nàng để hoá thân thành bản đàn bạc mệnh. Thuyết “tài mệnh tương đố” cũng mách bảo người nghe về một tương lai dâu bể sẽ xô cuốn đời nàng .Tất cả tài năng của Kiều đều ở mức tuyệt đỉnh ,tuyệt đỉnh như chính nhan sắc mà tạo hoá đã kỳ công ban cho nàng, mà“hồng nhan đa truân”,”chữ tài liền với chữ tai một vần ”.Triết lý đó đã được người học trò xuất sắc của đạo Khổng vận dụng để dự đoán trước cuộc đời của người con gái sắc nước hương trời ấy.

Dẫu vẫn sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tương trưng của văn thơ cổ song với tâm hồn mẫn cảm tài hoa,với cách sử dụng ngôn từ chắt lọc,chau chuốt,Nguyễn Du đã khắc hoạ thật sinh động hai bức chân dung Thuý Vân và Thuý Kiều,mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên từng tính cách số phận riêng,không lẫn vào nhau và càng không dễ phai nhoà trong tâm hồn người đọc .

Với một tấm nhân đạo ,một quan điểm thẩm mỹ và triết lý vì con người ,ở đoạn trích này Nguyễn Du đã thực sự tạo nên một viên ngọc bằng ngôn ngữ đẹp nhất ,lấp lánh nhất và cũng ý nghĩa nhất .Đúng như nhận định :“Với bút pháp tinh diệu, Nguyễn Du không những tạo nên được hai bức chân dung mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười mà dường như còn nói lên được cả tính cách ,thân phận …toát ra từ diện mạo của mỗi vẻ đẹp riêng ” (Hoài Thanh ).

Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân (mẫu 9)

Nguyễn Du là một nhà thơ tài năng, một bậc thầy của nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Tác phẩm nổi tiếng nhất mà ông để lại cho hậu thế là kiệt tác “Truyện Kiều”. Tác phẩm là câu chuyện về cuộc đời của nàng Kiều tài năng và xinh đẹp nhưng lại chịu số phận 15 năm lưu lạc, lênh đênh giữa cuộc đời. Vẻ đẹp và tài năng của nàng Kiều được Nguyễn Du thể hiện rõ thông qua đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”.

Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm ở phần đầu “Gặp gỡ và đính ước” của tác phẩm “Truyện Kiều”. Đây là phần mà tác giả Nguyễn Du tập trung giới thiệu về gia đình của Kiều. Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” miêu tả chi tiết về vẻ đẹp cũng như tài năng của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân, đặc biệt là vẻ đẹp của Thuý Kiều.

Nếu như đoạn trích có 24 câu thơ thì Nguyễn Du dành tới 12 câu thơ để miêu tả vẻ đẹp của Kiều, điều đó chứng tỏ sự ưu ái của ông dành cho nàng. Không chỉ vậy, mặc dù Kiều là chị gái của Thuý Vân, nhưng ông lại dồn tâm, dồn lực để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân trước khi miêu tả vẻ đẹp của Kiều. Để rồi khi bước sang miêu tả vẻ đẹp của Kiều, Nguyễn Du đã nhấn mạnh rằng:

“Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”

Đây chính là nghệ thuật đòn bẩy, khơi gợi trong lòng người đọc một sự chờ đợi trong mong mỏi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nàng Kiều. Và Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung nhan sắc của Kiều đẹp tuyệt vời như sau:

Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.”

Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để làm thước đo cho vẻ đẹp của con người. Những hình ảnh như thu thuỷ, xuân sơn, hoa, liễu, … được ông sử dụng để thể hiện vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt sắc. Nếu như ở Thuý Vân, Nguyễn Du chú trọng miêu tả từng chi tiết trên khuôn mặt, lông mày, màu da, nước tóc,… thì ở Thuý Kiều, ông lại chỉ tập trung miêu tả đôi mắt của nàng. Bởi đối với một con người, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, chứa đựng tất cả tâm tư, tình cảm của người đó. Với Kiều, đôi mắt ấy như một “làn thu thuỷ”, còn đôi lông mày của nàng lại như một “nét xuân sơn”. Một đôi mắt trong biếc như làn nước của mùa thu cùng với đôi lông mày thanh tú tựa như dáng núi mùa xuân, một vẻ đẹp mà không có bút nào tả xiết! Đây là bút pháp điểm nhãn được Nguyễn Du sử dụng, chỉ một nét chấm phá mà gợi ra cả nhan sắc của một con người. Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều thông qua đôi mắt vậy mà ta cũng đã cảm nhận được vẻ đẹp thanh tú tuyệt vời của nàng. Vậy mới biết, ngòi bút của Nguyễn Du quả thật vô cùng xuất sắc! Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn so sánh vẻ đẹp của Kiều với “hoa”, với “liễu”, những vẻ đẹp yểu điệu, dịu dàng của thiên nhiên đã được người ta công nhân. Người xưa thường ví mỹ nhân như hoa, như ngọc. Vậy mà vẻ đẹp của nàng Kiều lại vượt qua cả vẻ đẹp của tạo hoá, vượt ra khỏi mọi khuôn khổ của vẻ đẹp tự nhiên, khiến cho “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”, thậm chí là “nghiêng nước nghiêng thành”. Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật nhân hoá “hoa ghen”, “liễu hờn” cùng thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” chỉ để miêu tả vẻ đẹp của Kiều. Vẻ đẹp ấy của nàng quả là tuyệt mỹ, khiến cho tạo hoá cũng phải hơn thua mà ghen tị. Thế nhưng khi miêu tả vẻ đẹp của nàng, Nguyễn Du dường như đã dự cảm về số phận của Kiều, về cuộc đời trôi nổi của nàng sau này. Bởi vẻ đẹp của nàng đã vượt mọi khuôn khổ, gợi lên những mâu thuẫn, bất hoà với tạo hóa, vậy thì chắc hẳn cuộc đời của nàng cũng sẽ đầy những truân chuyên và quả đúng là như vậy!

Nàng Thuý Kiều xinh đẹp không chỉ có nhan sắc “chim sa cá lặn”, nàng còn là một người con gái với tài năng cầm, kỳ, thi, hoạ vô cùng tuyệt vời: “Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”. Ở Thuý Vân, Nguyễn Du chỉ tập trung miêu tả nhan sắc của nàng, nhưng với Thuý Kiều, ông lại chỉ dành một phần tả nhan sắc của nàng, còn lại, ông dồn hết tâm sức để miêu tả tài năng của nàng, rằng:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh, lại càng não nhân.”

Thuý Kiều, nàng không chỉ là hiện thân của vẻ đẹp mà còn là hiện thân của tài năng. Trời phú cho nàng sự “thông minh” thiên bẩm, lại còn phú cho nàng cả đủ cả “thi hoạ” và “ca ngâm”. Tất cả tài năng của nàng đều đạt tới mức tinh thông, lí tưởng, đặc biệt là tài năng đàn cầm. Phụ nữ xưa chỉ cần biết cầm, kì, thi, hoạ, mỗi thứ một chút ít đã là bậc tài nữ trong thiên hạ, vậy mà Thuý Kiều lại có thể “làu bậc ngũ âm” cũng như đánh được loại đàn “Hồ cầm” – loại đàn của người Hồ vô cùng khó học. Không chỉ giỏi đánh đàn, nàng còn có thể sáng tác ra những tuyệt khúc mà nổi bật là thiên “Bạc mệnh”. Tiếng đàn khúc “Bạc mệnh” của nàng vang lên đều khiến cho người nghe phải xúc động, đau khổ, sầu nào. Điều đó đã chứng minh cho tài năng thi ca vô cùng tuyệt vời của Kiều, nhưng đó cũng là biểu hiện, là dấu hiệu về số phận “bạc mệnh” của nàng. Bởi bài hát, khúc ca mang theo tâm tư của người viết nhạc, một khúc nhạc não nề, buồn thương như thế chứng minh cho một trái tim đa sầu đa cảm, cũng là dự báo về một cuộc đời “hồng nhan” éo le, đầy bất hạnh.

Có thể nói rằng Nguyễn Du đã vô cùng thành công khi miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều. Nghệ thuật ước lệ tượng trưng, đòn bẩy được ông sử dụng vô cùng tinh tế để làm nổi bật vẻ đẹp của Thuý Kiều so với người em Thuý Vân. Cùng với đó là nghệ thuật lấy điểm tả diện, nghệ thuật nhân hoá,… đều được Nguyễn Du sử dụng hết sức khéo léo khi miêu tả nhan sắc và tài năng của Kiều. Không chỉ vậy, những ngôn từ miêu tả hết sức độc đáo, những hình ảnh thiên nhiên so sánh có sức gợi cao đã giúp chúng ta hình dung ra vẻ đẹp và tài năng tuyệt vời của người con gái mang tên Vương Thuý Kiều.

Chỉ bằng những câu thơ của mình, Nguyễn Du đã vẽ lên bức chân dung vô cùng tuyệt mỹ của Thuý Kiều không chỉ về nhan sắc mà còn là tài năng của nàng. Nhưng qua những lời thơ miêu tả đầy ngợi ca ấy, ông cũng nói lên dự cảm của mình về cuộc đời đầy trắc trở của nàng Kiều. Từ đó, ta có thể thấy được một trong những cảm hứng nhân đạo mà Nguyễn Du gửi gắm là trân trọng vẻ đẹp, tài năng của những con người, đặc biệt là những phụ nữ trong xã hội xưa.

Phân tích vẻ đẹp của Thúy Kiều và Thúy Vân (mẫu 10)

Từ lâu, “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã được xem là một tác phẩm có giá trị độc đáo, đánh dấu một bước phát triển vượt bậc về cả nội dung và nghệ thuật truyện thơ Nôm ở thế kỉ XVIII. Mặc dù, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được sáng tác dựa trên cuốn tiểu thuyết “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc, nhưng những dụng ý, tư tưởng nghệ thuật và sự sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” có những bước đột phá mới mẻ, đậm đà giá trị nhân văn, nhân đạo, nhân bản, nhân sinh sâu sắc. Và một trong những sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo khéo léo của Nguyễn Du làm nên sự thành công của tác phẩm đó là nghệ thuật tả người. Điều này được thể hiện rất rõ, rất cụ thể trong trích đoạn “Chị em Thúy Kiều” qua vẻ đẹp chân dung và tài năng của nhân vật Kiều.

Đoạn trích nằm ở phần mở đầu của tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều. Sau khi dựng lên chân dung và vẻ đẹp nhân vật Thúy Vân, nhà thơ tập trung bút lực vào miêu tả vẻ đẹp của Kiều trong sự đối sánh với vẻ đẹp của Vân:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn

Vẻ đẹp của Kiều khác và hơn hẳn Vân cả về tài lẫn sắc. Đó là sự “sắc sảo” về trí tuệ; “mặn mà” về tâm hồn.

Trước hết là vẻ đẹp nhan sắc – ngoại hình của Kiều. Vẫn tiếp tục sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm thước đo cho vẻ đẹp của con người qua một loạt các hình ảnh: thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu, Nguyễn Du đã làm hiện vẻ đẹp của một trang giai nhân tuyệt mĩ. Nhưng khi miêu tả Kiều, tác giả không miêu tả cụ thể chi tiết như ở Vân mà ngược lại, tác giả tập trung vào một điểm nhìn là đôi mắt “Làn thu thủy nét xuân sơn”: Đôi mắt sáng trong và sâu thẳm như làn nước mùa thu; đôi lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Đây chính là lối vẽ “điểm nhãn” cho nhân vật. Bởi đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn con người. Và qua đôi mắt đó của Kiều, ta thấy được tâm hồn trong sáng, sâu thẳm và cuốn hút lạ thường của nhân vật. Vẻ đẹp nhan sắc của Kiều là vẻ đẹp vượt ra khỏi chuẩn mực của tự nhiên và khuôn khổ của người phụ nữ phong kiến nên: “Hoa ghen – liễu hờn” và thậm chí là nghiêng ngả cả thành quách, đất nước:

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Nghệ thuật nhân hóa (hoa ghen – liễu hờn) kết hợp với nghệ thuật nói quá (thành ngữ: Nghiêng nước nghiêng thành) vừa có tác dụng gợi tả vẻ đẹp của Kiều; lại vừa có tác dụng dự đoán về số phận, cuộc đời của nàng. Bởi vẻ đẹp đó gợi lên mâu thuẫn, không hài hòa (khác với Vân: thua – nhường: hài hòa, bình yên) nên chắc chắn cuộc đời nàng sẽ truân chuyên, trắc trở:

“Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

Tiếp đến là vẻ đẹp tài năng của Kiều. Nếu như khi tả Vân, nhà thơ chỉ chú trọng vào khắc họa vẻ đẹp nhan sắc mà không chú trọng tới miêu tả tài năng và tâm hồn thì khi tả Kiều, nhà thơ chỉ tả sắc một phần, còn lại dành phần nhiều vào tài năng:

Sắc đành đòi một tài đành họa hai

Chỉ một câu thơ mà nhà thơ đã nêu được cả sắc lẫn tài. Nếu như về sắc thì Kiều là số một thì về tài không ai dám đứng hàng thứ hai trước nàng. Tài năng của Kiều có thể nói là có một chứ không có hai trên đời. Vì được trời phú cho tính thông minh nên ở lĩnh vực nghệ thuật nào Kiều cũng toàn tài: cầm – kì – thi – họa. Tất cả đều đạt đến mức lí tưởng hóa theo quan niệm thẩm mĩ của lễ giáo phong kiến: “Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”. Đặc biệt tài năng của Kiều được nhấn mạnh ở tài đàn: “Cung thương lầu bậc ngũ âm/ Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”: nàng thuộc lòng các cung bậc và đánh đàn Hồ cầm (đàn cổ) thành thạo. Hơn thế, nàng còn giỏi sáng tác nhạc nữa: “Khúc nhà tay lựa nên chương/ Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Mỗi nàng lần đánh đàn, nàng lại cất lên bài hát “Bạc mệnh” làm cho người nghe phải đau khổ, sầu não. Bài hát chính là tâm hồn, là bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều, biểu hiện một trái tim đa sầu đa cảm và cuộc đời éo le, bất hạnh.

Tóm lại, chân dung của Kiều là bức chân dung mang tính cách và số phận. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp khác người nên làm cho thiên nhiên phải ghen tị “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”; tài năng của Kiều vượt trội hơn người nên chắc chắn theo một qui luật thông thường của định mệnh “Chữ tài đi với chữ tai một vần” hay “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” nên cuộc đời Kiều là cuộc đời của một kiếp hồng nhan bạc mệnh, éo le và nghiệt ngã.

Đến đây chúng ta thấy được tài năng độc đáo của Nguyễn Du trong việc khắc họa chân dung con người. Từ vẻ đẹp chân dung, nhà thơ thể hiện những dự cảm về tính cách, cuộc đời, số phận của nhân vật. Và mặc dù, ở đầu đoạn trích, tác giả giới thiệu Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân nhưng sau đó, nhà thơ lại miêu tả chân dung nhân vật Vân trước, Kiều sau. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ trong việc tạo ra thủ pháp “đòn bẩy”. Điều đó có tác dụng nhấn mạnh và làm nổi bật được vẻ đẹp độc đáo, vượt trội về cả sắc lẫn tài và tình của nhân vật Thúy Kiều. Vì thế, tuy cùng sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng khi miêu tả hai nhân vật nhưng chúng ta thấy được mức độ đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Nhà thơ chỉ dùng bốn câu để tả Vân, còn lại dành tận mười hai câu để tả Kiều; tác giả khi tả Vân chỉ tập trung tả nhan sắc nhưng khi tả Kiều thì “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Mặc dù vậy nhưng ở nhân vật nào cũng hiện lên rất sống động, cụ thể, chân thực, mang vẻ đẹp, tính cách, số phận khác nhau.

Như vậy, bằng bút pháp ước lệ lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người, Nguyễn Du đã khắc họa thành công vẻ đẹp chân dung hai chị em Thúy Kiều, đặc biệt là vẻ đẹp và tài năng của Thúy Kiều. Qua đó, chúng ta thấy được cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp, tài năng con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh đầy nhân văn ở Nguyễn Du.

Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ văn 9 hay, chi tiết khác:

Phân tích Cảnh ngày xuân

Phân tích Kiều ở lầu ngưng bích

Phân tích 8 câu cuối Kiều ở lầu ngưng bích

Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều thể hiện qua đoạn trích Kiều ở Lầu Ngưng Bích

Phân tích bài thơ Đồng chí – Chính Hữu

Bài văn mẫu trình bày cảm nhận về vẻ đẹp của Thúy Kiều qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm Truyện Kiều – kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam, bên cạnh giá trị nội dung sâu sắc. Truyện Kiều” cũng rất thành công về mặt nghệ thuật. Với nghệ thuật miêu tả con người qua bút pháp ước lệ tương đối, miêu tả cảnh thiên nhiên qua bút pháp gợi tả gợi cảm, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cũng đặc sắc. Điển hình là Truyện Kiều. đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” và tiêu biểu là 8 câu thơ sau đây đã miêu tả một cách xúc động nỗi nhớ nhung của Thúy Kiều đối với người yêu, đối với cha mẹ mình qua lời độc thoại nội tâm của nhân vật:

“Nghĩ người dưới trăng chén đồng

Tin sương sớm đợi ngày mai.

Giữa trời góc bể bơ vơ,

Con trai rửa không bao giờ phai.

Thương ai trước cửa ngày mai,

Quạt lạnh ủ nồng nồng của ai bây giờ?

Sân Lai cách xa nắng mưa,

Đôi khi gốc rễ của cái chết mới được người ta ôm lấy”

Sau khi biết mình bị lừa trốn vào lầu xanh, Kiều chán nản và quyết định tự tử. Tú Bà sợ mất cả vốn lẫn lời nên hứa đợi Kiều khỏi bệnh sẽ gả cho đàng hoàng rồi đem Kiều về lầu Ngưng Bích, thực chất là quản thúc. Là người con gái một mình nơi đất khách, Kiều sống ở lầu Ngưng Bích với tâm trạng cô đơn, buồn tủi. Trước mắt em chỉ là một không gian bao la có núi có trăng gần xa có cồn cát bụi mịt mù, trong khi thời gian như một vòng tuần hoàn khép kín, không gian và thời gian như giam cầm con người, khiến em cảm thấy cô đơn, buồn tủi, bâng khuâng. đau lòng.

Còn tám câu giữa bài diễn tả tâm trạng, nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều.

Trước hết Kiều nhớ đến Kim Trọng:

“Nghĩ người dưới trăng chén đồng

Tin mù mịt chờ đợi ngày mai”

Chữ hồi ức ở đây có nghĩa là hồi ức, hồi ức. Nhớ đến Kim Trọng là nhớ đến người yêu nên Kiều luôn nhớ đến lời thề đôi lứa. “Chén đồng” là chén rượu mà Kiều và Kim Trọng cùng uống dưới ánh trăng, một lòng một lời thề:

“Trăng tròn trên trời

Định Linh hai miệng một lời song hành”

Vầng trăng kia còn đó, ly rượu thề chưa cạn mà nay tình đã chợt chia đôi. Lời thơ như có nhịp thổn thức của một trái tim yêu đang rỉ máu.

Nhớ Kim Trọng, đau đớn tưởng tượng cảnh ở Liễu Dương xa xăm, Kim Trọng không biết Kiều đã bán mình chuộc cha, vẫn hướng về Kiều chờ tin nhưng vô vọng. Càng nhớ chàng, Kiều càng thương số phận của mình:

“Bên trời góc bể bơ vơ

Nước son không bao giờ phai”

Thương thân em lẻ loi một góc trời, góc hồ, càng luyến tiếc mối tình đầu. Câu thơ “Dòng son tẩy mãi không phai” có thể hiểu son môi của Kiều đã vấy bẩn, nàng không còn là người con gái phong lưu nhưng cũng có thể hiểu “son phấn” chính là tấm lòng chung thủy của nàng. đối với Kim Trọng không bao giờ nguôi. Trong cảnh cô đơn, Kiều tạm để lòng mình nguôi ngoai mà nhớ đến Kim Trọng. Đó là sự tha thứ và chung thủy của một người.

Chưa vơi đi nỗi nhớ người yêu, lòng Kiều lại càng ngập tràn nỗi nhớ cha mẹ nên khi nhớ đến Kim Trọng, nàng lại “nghĩ” và nhớ cha mẹ lại “xót xa”.

“Thương tiếc bên cửa mai,

Quạt lạnh ủ nồng nồng của ai bây giờ?

Sân Lai cách mấy ngày nắng mưa,

Đôi khi gốc rễ của cái chết mới được người ta ôm lấy”

Kiều buồn khi cha mẹ già yếu mà hàng ngày vẫn tựa cửa chờ tin con, nàng cũng buồn vì một mình mình không thể phụng dưỡng cha mẹ, biết ai phụng dưỡng bây giờ? . Các thành ngữ “Quạt ấm nóng lạnh”, điển tích “Phở lai”, “Cửu nguyên” đều thể hiện nỗi nhớ nhung tấm lòng hiếu thảo của Kiều.

Nghĩ về cha mẹ, cô mường tượng quê hương giờ đã thay đổi, nhưng sự thay đổi khiến cô lo lắng nhất là “Có khi gốc mẹ đã ôm rồi” nghĩa là cha mẹ mỗi ngày một già yếu. cách chăm sóc. Cụm từ “mấy ngày nắng mưa” vừa nói lên được khoảng cách thời gian qua hai mùa mưa nắng, vừa nói lên sự tàn phá của thiên nhiên, nắng mưa đối với con người và cảnh vật. Mỗi lần nhớ đến cha mẹ Kiều ân chín chữ cao sâu” và luôn ân hận ân hận vì đã được cha mẹ sinh thành, nuôi nấng. Đến đây ta mới hiểu vì sao trong nỗi nhớ Kiều lại nhớ đến Kim Trọng trước cha mẹ, phải chăng trong hai chữ hiếu nàng đã tạm nguôi ngoai với chữ hiếu vì khi bán mình chuộc cha Kiều đã phần nào công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ.Còn Kim Trọng trước khi về Liêu Dương chịu tang chú, chàng đã kỳ vọng biết bao ở Kiều.

“Giữ vàng giữ ngọc cho lành

Hãy để những người có đôi chân của họ và bầu trời thương xót họ.”

Để rồi giờ đây thân xác Kiều đã hoen ố, nàng đã phản bội chàng Kim nên nàng luôn ân hận, day dứt như một kẻ si tình. Nỗi đau ấy cứ giằng xé lòng nàng, khiến nàng luôn nhớ đến Kim Trọng, nhớ người yêu trước, nhớ cha mẹ sau, điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lí của Kiều. Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lí Kiều. Đồng thời cho thấy sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lí của Nguyễn Du. Điều đáng chú ý là dù trong hoàn cảnh lẻ loi trên lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất, nhưng trái tim Kiều lại tràn đầy tình yêu thương, nhân hậu, bao dung. Cô ấy là một người tình thủy chung, một người con rất hiếu thảo, thật đáng trân trọng.

Tổng kết bằng cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, từ ngữ tạo hình tinh tế. Qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nói chung và tám bài thơ trên nói riêng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công và xúc động nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều, qua đây cho thấy Kiều không chỉ là một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng cũng là người thủy chung, hiếu thảo. Đồng thời đoạn thơ cho ta thấy tấm lòng trân trọng vẻ đẹp, phẩm chất của con người đặc biệt là người phụ nữ. biểu hiện cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du trong Truyện Kiều.

————————————————– – ——————-

» Xem thêm:

Vẻ đẹp của Thúy Kiều qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

https://download.vn/phan-tich-ve-dep-thuy-kieu-trong-doan-trich-chi-em-thuy-kieu-39160
https://download.vn/cam-nhan-ve-dep-cua-thuy-kieu-trong-doan-trich-chi-em-thuy-kieu-49658
https://hoatieu.vn/hoc-tap/cam-nhan-ve-ve-dep-cua-thuy-kieu-215670
https://luatminhkhue.vn/viet-doan-van-mieu-ta-ve-dep-cua-thuy-kieu.aspx
https://doctailieu.com/phan-tich-ve-dep-cua-thuy-kieu
https://www.elib.vn/hoc-tap/phan-tich-ve-dep-cua-thuy-kieu-13307.html
https://vietjack.me/30-bai-phan-tich-ve-dep-cua-thuy-kieu-va-thuy-van-hay-nhat-47021.html
https://thuthuat.taimienphi.vn/cam-nhan-ve-dep-cua-thuy-kieu-trong-doan-trich-chi-em-thuy-kieu-69344n.aspx
https://download.vn/phan-tich-ve-dep-thuy-kieu-trong-doan-trich-chi-em-thuy-kieu-39160#:~:text=V%E1%BA%BB%20%C4%91%E1%BA%B9p%20c%E1%BB%A7a%20Ki%E1%BB%81u%20l%C3%A0,hai%20t%E1%BB%AB%20thua%20v%C3%A0%20nh%C6%B0%E1%BB%9Dng.