Viễn Phương – Wikipedia tiếng Việt mới nhất
bách khoa toàn thư mở Wikipedia
viễn phươngtên thật Phan Thanh Viễn (01/05/1928 – 21/12/2005), là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà thơ Việt Nam.
viễn phương | |
---|---|
![]() | |
Sinh ra | Phan Thanh Viễn Ngày 1 tháng 5 năm 1928 |
Mất | Ngày 21 tháng 12 năm 2005 | (77 tuổi)
bút danh | viễn phương |
Quốc gia | Kinh khủng |
Quyền công dân | ![]() |
Tác phẩm nổi bật | “Viếng lăng Bác” |
giải thưởng xuất sắc | Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật |
viễn phương quê gốc ở huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay là thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang). Thuở nhỏ, ông được đi học, đến khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ (1945), ông nhập ngũ và được biên chế vào Tiểu đoàn 23.
Biệt đội này hoạt động trên địa bàn rộng lớn ở ĐBSCL. Từ những cảm xúc thật của ông trên từng chặng đường chiến đấu gian khổ, những bài thơ của ông lần lượt ra đời và được đăng trên báo Tiếng Súng Địch, tờ báo duy nhất của Khu 9 Nam Bộ lúc bấy giờ. .
Năm 1952, Nam Bộ tổ chức giải tổng kết văn học nghệ thuật mang tên Giải Cửu Long, bản anh hùng ca “Chiến thắng vì hòa bình” của ông được xếp thứ hai về thơ.
Không lâu sau, Hội Văn nghệ Nam Bộ tổ chức đại hội, ông được bầu vào Ban chấp hành. Năm 1954, kháng chiến chống Pháp kết thúc, ông được phân công vào Sài Gòn hoạt động.
Trở về Sài Gòn, ông vừa đi học, vừa làm thuê kiếm sống nhưng công việc chính vẫn là làm thơ. Với bút danh Viễn Phương, ông làm thơ và truyện đăng trên một số báo ở Sài Gòn như: Nhân loại, Bình minh, Công lý…
Do có những bài báo có nội dung phản cảm, năm 1960, ông bị chính quyền Sài Gòn bắt giam ở Chí Hòa. Trong tù, ông tiếp tục làm thơ.
Ra tù (1962), ông rời Sài Gòn để vào chiến trường Củ Chi tiếp tục chiến đấu và làm thơ.
Sau sự kiện 30-4-1975, ông được bầu ngay làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh và được bầu vào Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. . văn học Việt Nam.
Ngoài bút danh Viễn Phương, ông còn lấy bút danh là Đoàn Viên và còn sáng tác văn xuôi. Ông nổi tiếng với bài thơ Viếng lăng Bác (Kim Sơn phổ nhạc) được đưa vào giảng dạy trong các trường phổ thông. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001.
Nhà thơ Viễn Phương mất ngày 21 tháng 12 năm 2005 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Con trai ông, PGS-TS. Phan Thanh Bình hiện là Ủy viên Trung ương Đảng – Giám đốc Đại học Quốc gia TP.HCM.
- Hòa Bình Chiến Thắng (ca dài, 1952)
- Người Hùng Mìn (truyện, 1968)
- Mắt sáng học trò (thơ, 1970)
- Ghi Nhớ Di Chúc (Bài Ca, 1972)
- Viếng lăng Bác (thơ, 1976). In trong Như Mây Xuân (1978)
- Như mây xuân (thơ, 1978)
- Địa đạo quê hương (truyện và hồi ký, 1981)
- Lòng mẹ (truyện thiếu nhi, 1982).
- Màu lụa Tru La (truyện ngắn, 1988)
- Phù sa quê hương (thơ, 1991)
- Mây Trắng Nghìn Say (truyện và hồi ký, 1998)
- Miền sông nước (truyện và hồi ký, 1999)
- Rainy July (truyện và ký, 1999. Dịch sang tiếng Anh)
- Thơ với tuổi thơ (thơ thiếu nhi, 2002)
- Gió lay hương Quỳnh (thơ, 2005)
- Ngôi Sao Xanh (truyện thiếu nhi, 2003)
- Hình bóng tình yêu (ký, 2005)
Thơ Viễn Phương được nhiều nhà thơ khen ngợi, trong đó có: Chế Lan Viên, Tô Hoài, Triệu Xuân, Nguyễn Xuân Nam, Mai Văn Tạo.[1]
Trích lời nhà văn Mai Văn Tạo:
- Thơ Viễn Phương dễ nhớ, giàu cảm xúc nhưng không luyến láy, cường điệu hóa nỗi đau… Thơ anh lung linh bóng dáng người phụ nữ Nam Bộ và người Mẹ. Ấn tượng nhiều mặt về người mẹ rất đậm nét và gần gũi. Ông viết nhiều bài thơ về Mẹ. Người mẹ dưới gầm cầu, người phụ nữ trong trại giam, người nữ chiến sĩ hy sinh trong lửa đạn, nữ sinh Sài Gòn – Chợ Lớn “xuống đường” trong những ngày “bão thành phố”, người vợ chiến đấu trong nội thành, chồng vào chiến khu, mẹ đào địa đạo nuôi giấu cán bộ, mẹ dẫn đường cho bộ đội – mẹ đã nói những lời rất thật, như lời căn dặn, như lời thề quyết tử: “Con cầm đuốc lên đường đi mẹ ơi”. thứ nhất, khi gặp giặc, mẹ hạ đuốc xuống, mấy đứa đi sau sẽ biết mà tránh, nếu chúng bắn chết mẹ, chúng sẽ báo động cho các con” (lời mẹ Sáu).
- …Thơ Viễn Phương cơ bản, thủ thỉ, thao thức, bâng khuâng, day dứt, không nút thắt, cầu kì, khoa trương, khoa học. Mọi hình ảnh trong đời anh đều thấy thơ. Không đợi tiếng còi và trong sương đêm, hoa lục bình trôi vết tím, bông sậy trong nắng chiều hay bông cúc xanh nhuộm vàng mặt nước… Một mái lá khô giữa rừng vắng, anh cũng đưa vào đây thực, hư, rất thơ mà thực, rất thực mà thơ.[2]
Viếng lăng Bác – tác giả, nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý
Nhằm mục đích giúp học sinh nắm vững kiến thức tác phẩm Viếng lăng Bác Ngữ văn lớp 9, bài học tác giả – tác phẩm Viếng lăng Bác trình bày đầy đủ nội dung, bố cục, tóm tắt, dàn ý phân tích, sơ đồ tư duy và bài văn phân tích tác phẩm.
A. Nội dung tác phẩm Viếng lăng Bác
Niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác. Mạch cảm xúc vận động theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác: Cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng → Cảm xúc về dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác → Cảm xúc khi vào trong lăng nhìn thấy Bác đang yên giấc → Niềm mong ước thiết tha khi sắp phải trở về miền Nam.
B. Đôi nét về tác phẩm Viếng lăng Bác
1. Tác giả
– Viễn Phương (1928 – 2005) tên khai sinh là Phan Thanh Viễn quê ở An Giang.
– Thơ Viễn Phương thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm và chất mơ mộng trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt ở chiến trường.
2. Tác phẩm
a. Hoàn cảnh sáng tác
Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác.
Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” xuất bản năm 1978.
b. Bố cục
Bài thơ được chia làm 4 khổ:
+ Khổ 1: Cảm xúc khi đến lăng Bác.
+ Khổ 2: Cảm xúc khi hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác.
+ Khổ 3: Cảm xúc khi ở trong lăng.
+ Khổ 4: Cảm xúc khi rời lăng.
c. Thể thơ: tự do
d. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm
e. Giá trị nội dung
Bài thơ “Viếng lăng Bác” thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác.
g. Giá trị nghệ thuật
– Giọng điệu trang trọng và tha thiết.
– Nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm.
– Ngôn ngữ bình dị mà cô đúc.
C. Sơ đồ tư duy Viếng lăng Bác
D. Đọc hiểu văn bản Viếng lăng Bác
1. Cảm xúc khi đến lăng Bác
Câu thơ đầu tiên giản dị như một lời thông báo → tâm trạng xúc động, sau bao năm mong mỏi mới được ra viếng Bác
+ Cách xưng hô “con – Bác” theo phong cách Nam Bộ → vừa gần gũi, thân thương, vừa trân trọng, thành kính như tình cảm của người con với cha lâu ngày gặp lại.
+ Cách nói giảm, nói tránh “thăm” thay cho “viếng” → giảm nỗi đau thương mất mát, đồng thời khẳng định Bác còn sống mãi trong tâm tưởng của mọi người.
– “Hàng tre bát ngát” là hình ảnh thực, hết sức quen thuộc, thân thương của làng quê đất nước Việt Nam.
– Hàng tre “xanh xanh Việt Nam/ Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng của dân tộc Việt Nam với vẻ đẹp thanh cao và sức sống bền bỉ, kiên cường.
+ Thành ngữ “bão táp mưa sa”: những khó khăn, gian khổ nhân dân ta đã vượt qua trong hành trình dựng nước và giữ nước
+ “đứng thẳng hàng”: tinh thần đoàn kết, phẩm chất kiên cường, vững vàng vượt qua mọi thử thách
+ “Ôi!”: từ cảm thán, biểu thị niềm xúc động tự hào trước hình ảnh hàng tre, trước vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam.
→ Hàng tre ấy như đội quân danh dự bảo vệ giấc ngủ cho Người.
=> Thể hiện những xúc cảm chân thành của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác.
2. Cảm xúc khi hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác
Có hai cặp câu với những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi độc đáo:
– Hình ảnh thực “mặt trời trên lăng” được nhân hóa “ngày ngày đi qua” chiêm ngưỡng “mặt trời trong lăng”.
+ Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng”: Nếu mặt trời tự nhiên vĩ đại, bất diệt, mang lại sự sống cho muôn loài thì với dân tộc Việt Nam, Bác đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc, là vị lãnh tụ vĩ đại sống mãi trong trái tim mọi người.
+ “rất đỏ”: là ẩn dụ cho phẩm chất cách mạng cao đẹp của Bác, cả một đời vì nước vì dân.
– Hình ảnh thực “dòng người đi trong thương nhớ”: ngày ngày dòng người vào lăng viếng Bác trong lòng tiếc thương kính cẩn.
+ Đó còn là hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác gợi một không gian tràn ngập nỗi nhớ thương.
+ Hình ảnh ẩn dụ độc đáo: “dòng người – tràng hoa” → không chỉ là tràng hoa được kết nên bởi dòng người vào lăng viếng Bác, còn là hoa của lòng nhớ thương, biết ơn, thành kính… hoa của cuộc đời đã nở dưới ánh sáng của Bác… tất cả đang thành kính dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”
+ Hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” lại chứa đựng bên trong một hình ảnh ẩn dụ đẹp (mùa xuân) → Cuộc đời của Bác đẹp như những mùa xuân.
+ Phép ẩn dụ, điệp ngữ “ngày ngày” vừa gợi ấn tượng về cõi trường sinh, vừa gợi tấm lòng biết ơn, thành kính không nguôi nhớ Bác.
=> Khổ thơ vừa là lời ngợi ca sự vĩ đại, bất tử của Bác Hồ vừa thể hiện lòng ngưỡng mộ, tôn kính và biết ơn vô hạn của nhân dân, đối với Bác.
3. Cảm xúc khi ở trong lăng
Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào.
– Hai câu đầu: khung cảnh, không khí trang nghiêm, thanh tĩnh
+ Cách nói giảm: “giấc ngủ bình yên” gợi sự bất tử của Bác và lòng kính yêu Người.
+ Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền”: diễn tả đúng ánh sáng dịu nhẹ của không gian trong lăng vừa gợi liên tưởng đến tâm hồn cao đẹp và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.
– Hai câu sau: Cảm xúc ngưỡng mộ như lắng xuống nhường chỗ cho nỗi đau xót không thể kìm nén.
+ Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” khẳng định: Bác bao dung, vĩ đại và trường tồn cùng thời gian.
+ Dù vẫn tin như thế nhưng không thể đau xót vì sự ra đi của Người. Nỗi đau xót đã được nhà thơ biểu hiện rất cụ thể, trực tiếp “mà sao nghe nhói ở trong tim!”.
+ Cấu trúc đối lập (vẫn biết – mà sao) + câu cảm thán → nỗi đau quặn thắt, tê tái trong đáy sâu tâm hồn, lòng xót thương vô hạn không thể nguôi ngoai.
+ Nhịp thơ đột ngột ngắt 4/3 như một tiếng nấc đau đớn, nức nở, nghẹn ngào.
4. Cảm xúc khi dời lăng
Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn được ở mãi bên Bác.
– “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” giản dị như một lời giã biệt.
+ “trào nước mắt”: lòng thương nhớ kìm nén đến lúc này vỡ òa thành nước mắt.
– Biết rằng sắp phải rời lăng Bác, tác giả ước “Muốn làm con chim … trung hiếu chốn này” → Luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa Bác, ước nguyện được hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật bên lăng để được ở mãi bên Bác.
– Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được khép lại cuối bài với một nét nghĩa bổ sung “cây tre trung hiếu” tạo kết cấu đầu cuối tương ứng.
– Nhân hóa – ẩn dụ “cây tre trung hiếu” → niềm tin và tình cảm thủy chung son sắt của cả dân tộc ta quyết đi theo con đường mà Người đã chọn.
– Điệp ngữ “muốn làm” cùng phép liệt kê tăng cấp và nhịp thơ dồn dập thiết tha gợi tâm trạng lưu luyến, ước muốn hoá thân, sự tự nguyện chân thành của tác giả. Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần gặp Bác.
– Hình ảnh hàng tre xuất hiện ở khổ đầu và câu cuối cùng của bài thơ.
+ Ở khổ đầu, hình ảnh hàng tre được gợi lên với cả hình dáng, màu sắc, sức sống và mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa. Hàng tre vừa thực vừa ảo, lung linh trong tâm tưởng. Đó là hình ảnh cây cối mang màu đất nước tụ về đây canh giữ giấc ngủ cho Bác, vừa là ẩn dụ cho dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất, bền bỉ, trung thành bên Bác.
+Trong câu thơ cuối, hình ảnh hàng tre lặp lại nhưng có sự đổi mới về nghĩa, tạo kết cấu đầu cuối tương ứng, gây ấn tượng đậm nét. Không còn là cây tre – khách thể nữa mà đã tan hòa vào chủ thể, tượng trưng cho tấm lòng, ước nguyện, ý chí của nhà thơ, của dân tộc: trung hiếu với Bác, mãi đi theo con đường của Bác, mãi bên Bác.
E. Bài văn phân tích Viếng lăng Bác
Có những tình cảm trong cuộc sống có ý nghĩa vô cùng với tâm hồn mỗi người. Đó là tình yêu ruột thịt, là tình bạn bè, anh em, đồng chí. Những tưởng không có sợi dây nào gắn kết những con người tưởng chừng xa lạ, nhưng luôn ấm áp tình thương. Ấy là người con miền Nam- Viễn Phương với trái tim thành kính hướng về người cha già. Người cha không cùng một dòng máu nhưng Người là cha chung của toàn dân tộc Việt Nam. Viếng lăng Bác ra đời là tấm lòng người con gửi đến cha.
Bài thơ được sáng tác năm 1976 tại một thời điểm rất đặc biệt. Đây là năm đánh dấu sự kiện lăng Bác được hoàn thành và những người con miền Nam trong đó có Viễn Phương, lần đầu được đến thăm, gặp gỡ người cha già của cả dân tộc. Với bốn khổ thơ tự do, một chỉnh thể không quá dài nhưng tất cả là kết tinh cho niềm yêu, nỗi nhớ, sự kính trọng khôn cùng của người con miền Nam dành cho Bác.
Khổ thơ đầu của bài là khung cảnh quanh lăng Bác hiện lên trong nỗi niềm xúc động bồi hồi của nhà thơ:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Người con giới thiệu mình với cha: con ở miền Nam. Trong lời thơ ấy còn chất chứa bao tâm tình. Sau 1975, đất nước mới hoàn toàn thống nhất và đến giờ con mới có dịp thăm cha. Từ xa, người con xúc động hướng về nơi Bác nằm. Nơi đó là thiên nhiên thanh bình với “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát’. Viễn Phương đã đến lăng Bác từ rất sớm phải chăng vì không muốn chậm dù chỉ một phút giây ngắn ngủi gặp cha. Vì lẽ đó mà sương sớm vẫn còn mờ ảo hiện lên trên khung cảnh quanh lăng. Nhưng có lẽ nhà thơ cũng như bao người con miền Nam, sự hồi hộp phút giây đầu gặp gỡ là điều chẳng thể tránh khỏi, và con như đang vịn vào khung cảnh kia để giữ lòng mình khỏi bồi hồi. Tình thái từ “Ôi’ vang lên đầy xúc động, nhà thơ nhìn ngắm hàng tre xanh mà lòng bao tự hào khôn xiết. Hàng tre xanh thực sự đã trở thành chủ thể tinh thần đặc biệt vì nó là “tre xanh Việt Nam”- biểu trưng cho con người, tâm hồn, khí phách Việt Nam. Với hoán dụ “bão táp mưa sa” dùng để ám chỉ những gian nan, vất vả, nhà thơ nhằm tô điểm “đứng thẳng hàng”. Dáng tre đứng thẳng hay lòng người mãi hiên ngang, mãi trường tồn. Cây tre kết tinh trong mình nó những giá trị đẹp, và khi tre được trồng tại lăng chủ tịch, tầm vóc, khí phách ấy càng làm say lòng người. Tre trở thành người bạn quê hương đón tiếp lớp lớp người con Việt Nam vào thăm Bác trong niềm hân hoan khôn cùng. Tình cha con thắm thiết được nâng lên, được mở rộng trở thành tình cảm lớn lao ấy là tình quần chúng dành cho lãnh tụ cao cả.
Tình cảm ấy không chỉ quyện hòa mà còn lắng đọng trong niềm xúc cảm của người con xa. Khổ thơ thứ hai trở thành điểm tựa để Viễn Phương bày tỏ trực tiếp chân tình trước hình ảnh lớn lao của người cha:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Khổ thơ được tạo dựng bởi những hình ảnh thực cùng hình ảnh ẩn dụ thật đẹp. Hai câu thơ đầu thông qua ẩn dụ “mặt trời”, Viễn Phương ngợi ca công lao to lớn của Bác. Mặt trời của tự nhiên trong câu thơ đầu là nguồn sống cho muôn loài và đảm nhiệm nhiệm vụ lớn lao “ngày ngày” duy trì sự sống. Mặt trời ấy quan trọng, quý giá và chỉ có duy nhất. Mặt trời tự nhiên lại bắt gặp một mặt trời nữa cũng đẹp, cũng sáng. Ấy là “mặt trời trong lăng”- ẩn dụ chỉ Bác Hồ với những hi sinh lớn lao dành cho dân tộc. Và đâu chỉ có Viễn Phương, Bác cũng luôn lồng lộng như ánh dương ấm áp trong ngòi bút Tố Hữu: “Bác như trời đất của ta”. Với câu thơ của mình, nhà thơ bên cạnh việc khẳng định công lao bất tử, sức sống của Bác với dân tộc Việt Nam thì còn muốn nói lên lòng biết ơn, sự tôn kính dành cho người cha già của cả dân tộc.
Yêu thương, kính trọng Bác là vô bờ. Đó đâu chỉ là tình cảm cá nhân riêng tư của nhà thơ. Hai câu tiếp trong khổ thơ khẳng định tình yêu của cả dân tộc dành cho người:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Nhịp thơ ở đây trôi đi thật chậm. Điệp từ thời gian “ngày ngày” lần nữa được sử dụng với dụng ý khẳng định tính chất thường xuyên liên tục. Quả đúng là vậy. Đoàn người vào lăng viếng Bác nối nhau thành “dòng”. Và tất cả “dòng người” đều chung một nỗi niềm, cảm xúc ấy là thương yêu Bác. Thông qua nghệ thuật ẩn dụ, dòng người nối tiếp nhau kết thành “tràng hoa” dâng lên Bác hiện lên thật đẹp. Viễn Phương mượn ẩn dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để nói về Bác. Nói về độ tuổi của Bác. Bác ra đi nhưng luôn sống mãi ở độ tuổi bảy mươi chín với sức xuân tràn ngập. Viễn Phương cô đọng, kết tinh tình cảm để cảm ơn người cha đem đến mùa xuân cho đất nước, con người Việt Nam.
Một quãng đường đi chầm chậm và rồi cuối cùng người con đã được gặp trực tiếp người cha già. Khung cảnh trong lăng hiện lên trong nỗi xót thương vô hạn của nhà thơ:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Ánh mắt người con hướng về Người và quan sát Người trong niềm thành kính. Giấc ngủ của người trong đôi mi khép chặt, người con không bỏ quên dù nhỏ bé. Và Người ngủ bình yên. Phải chăng, đây là giấc ngủ bình yên hiếm hoi trong “bảy mươi chín mùa xuân” mà người mải mê cống hiến cho dân tộc và quê hương. Hiểu điều đó, cả thiên nhiên và đất trời đều đồng lòng với giấc ngủ của Người. “Vầng trăng sáng dịu hiền” ở câu thơ hay chính là ẩn dụ cho khung cảnh thanh bình- lí tưởng mà cả đời Bác luôn theo đuổi. Trăng tô điểm cho giấc ngàn thu của Bác. Cả cuộc đời Bác, Bác cũng dành tình yêu của mình cho trăng: khi thì “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”, khi thì “Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ/ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Tất cả đều đẹp vô cùng.
Trong khung cảnh yên bình mà ta tưởng chừng không gian, thời gian đều ngưng đọng, tâm trạng và cảm xúc trong lòng người càng thêm rạo rực thiết tha. Đây là hai câu thơ trực tiếp thể hiện tâm trạng của tác giả: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi/ Mà sao đau nhói ở trong tim”. Bác là trời xanh, là mùa xuân vĩnh hằng mãi với không gian, thời gian vô cùng vô tận, nhưng Bác cũng là người cha bình thường không thoát khỏi quy luật sinh tử của tự nhiên. Và trong tâm trạng người con, Viễn Phương cũng như đồng bào Việt Nam, tất cả chúng ta đều chung nỗi đau thương nhớ khôn nguôi dành cho Bác: Mà sao nghe nhói ở trong tim. “Nghe nhói” là nỗi đau cảm giác được, nỗi đau ấy không vô hình mà hiện hữu đau đáu trong tâm can. Nỗi đau mất Bác là nỗi đau chẳng thể nguôi ngoai dẫu thời gian có chảy trôi vô cùng vô tận: Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa.
Kết thúc bài thơ là một sự thương nhớ khác, sự thương nhớ ấy là niềm bâng khuâng, lưu luyến của Viễn Phương với Bác. Những câu thơ cuối cũng là kết tinh cao nhất của tình cảm và tâm trạng trong lòng người con phải nói lời tạm biệt cha:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Viễn Phương vẫn đang đứng trong lăng Bác, vẫn đang cận kề bên Bác, nhưng nỗi nhớ vẫn chẳng thể nguôi khi nghĩ về cảnh chia xa “Mai về miền Nam”. Vì biết phải chia li, nên buồn thương ấy là không thể tránh khỏi. Cảm xúc bịn rịn trực tiếp được bộc lộ “trào nước mắt”. Niềm thương, tình cảm của người con chẳng còn xúc động, bùi ngùi mà nhân lên thành giọt nước đau thương. Và tình cảm lúc này chỉ có thể đọng lại thành lời yêu thương, thành nguyện ước dẫu tưởng chừng phi lí: làm chim, làm hoa, làm cây tre. Mong ước của Viễn Phương được diễn tả qua một loại điệp từ “muốn làm”. Nhịp điệu trong khổ thơ trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết. Những nguyện ước nhỏ bé, giản dị của Viễn Phương làm ta chẳng thể không xúc động. Ước mong làm chú chim trên bầu trời tự do để ngày ngày ca vang lời ca ngợi, lời yêu Bác sâu đậm. Và rồi tô điểm cho vẻ đẹp của mái nhà Bác ở qua nguyện ước làm “bông hoa tỏa hương thơm” say lòng người. Những gì đẹp nhất, những gì tinh túy nhất đều được Viễn Phương dành tặng cho Bác. Đặc biệt, ta càng yêu tấm lòng nhà thơ vì một ước ao cuối chân thành giản dị: làm cây tre trung hiếu. Hình ảnh cây tre với những đức tính tốt đẹp mở đầu bài thơ và cũng kết thúc bài thơ một cách thật sự nhiên. Cây tre mang bao vẻ đẹp của đất nước, con người và con nguyện hiến dâng để làm đẹp nơi Người an nghỉ. Viễn Phương chân thành và thắm thiết với người cha già.
Với một loạt hệ thống hình ảnh thơ giàu tính biểu cảm, những biện pháp nghệ thuật đặc sắc, Viễn Phương đã minh chứng cho người đọc một tình cảm thiết tha sâu nặng mà người con muốn dành tặng người cha dù bao xa cách trở. Tình cảm kính yêu, sự tự hào, niềm thương, nỗi nhớ ấy luôn sống mãi cùng thời gian và bạn đọc mọi thế hệ hôm nay.
Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu tác giả tác phẩm Viếng lăng Bác hay nhất, gồm 6 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Viếng lăng Bác Ngữ văn lớp 9.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu tác phẩm Viếng lăng Bác Ngữ văn lớp 9:
VIẾNG LĂNG BÁC
Bài giảng: Viếng lăng Bác
(Viễn Phương)
A. Nội dung tác phẩm
Niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác. Mạch cảm xúc vận động theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác: Cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng → Cảm xúc về dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác → Cảm xúc khi vào trong lăng nhìn thấy Bác đang yên giấc → Niềm mong ước thiết tha khi sắp phải trở về miền Nam.
B. Đôi nét về tác phẩm
1. Tác giả
– Viễn Phương (1928 – 2005) tên khai sinh là Phan Thanh Viễn quê ở An Giang.
– Thơ Viễn Phương thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm và chất mơ mộng trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt ở chiến trường.
2. Tác phẩm
a, Hoàn cảnh sáng tác
– Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác.
– Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” xuất bản năm 1978.
b, Bố cục
– Bài thơ được chia làm 4 khổ:
+ Khổ 1: Cảm xúc khi đến lăng Bác.
+ Khổ 2: Cảm xúc khi hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác.
+ Khổ 3: Cảm xúc khi ở trong lăng.
+ Khổ 4: Cảm xúc khi rời lăng.
c, Thể thơ: tự do
d, Phương thức biểu đạt: Biểu cảm
e, Giá trị nội dung
– Bài thơ “Viếng lăng Bác” thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và của mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác.
g, Giá trị nghệ thuật
– Giọng điệu trang trọng và tha thiết.
– Nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm.
– Ngôn ngữ bình dị mà cô đúc.
C. Đọc hiểu văn bản
1. Cảm xúc khi đến lăng Bác
– Câu thơ đầu tiên giản dị như một lời thông báo → tâm trạng xúc động, sau bao năm mong mỏi mới được ra viếng Bác
+ Cách xưng hô “con – Bác” theo phong cách Nam Bộ → vừa gần gũi, thân thương, vừa trân trọng, thành kính như tình cảm của người con với cha lâu ngày gặp lại.
+ Cách nói giảm, nói tránh “thăm” thay cho “viếng” → giảm nỗi đau thương mất mát, đồng thời khẳng định Bác còn sống mãi trong tâm tưởng của mọi người.
– “Hàng tre bát ngát” là hình ảnh thực, hết sức quen thuộc, thân thương của làng quê đất nước Việt Nam.
– Hàng tre “xanh xanh Việt Nam/ Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng của dân tộc Việt Nam với vẻ đẹp thanh cao và sức sống bền bỉ, kiên cường.
+ Thành ngữ “bão táp mưa sa”: những khó khăn, gian khổ nhân dân ta đã vượt qua trong hành trình dựng nước và giữ nước
+ “đứng thẳng hàng”: tinh thần đoàn kết, phẩm chất kiên cường, vững vàng vượt qua mọi thử thách
+ “Ôi!”: từ cảm thán, biểu thị niềm xúc động tự hào trước hình ảnh hàng tre, trước vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam.
→ Hàng tre ấy như đội quân danh dự bảo vệ giấc ngủ cho Người.
=> Thể hiện những xúc cảm chân thành của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác.
2. Cảm xúc khi hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác
Có hai cặp câu với những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi độc đáo:
– Hình ảnh thực “mặt trời trên lăng” được nhân hóa “ngày ngày đi qua” chiêm ngưỡng “mặt trời trong lăng”.
+ Hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng”: Nếu mặt trời tự nhiên vĩ đại, bất diệt, mang lại sự sống cho muôn loài thì với dân tộc Việt Nam, Bác đem lại cuộc sống tự do, hạnh phúc, là vị lãnh tụ vĩ đại sống mãi trong trái tim mọi người.
+ “rất đỏ”: là ẩn dụ cho phẩm chất cách mạng cao đẹp của Bác, cả một đời vì nước vì dân.
– Hình ảnh thực “dòng người đi trong thương nhớ”: ngày ngày dòng người vào lăng viếng Bác trong lòng tiếc thương kính cẩn.
+ Đó còn là hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác gợi một không gian tràn ngập nỗi nhớ thương.
+ Hình ảnh ẩn dụ độc đáo: “dòng người – tràng hoa” → không chỉ là tràng hoa được kết nên bởi dòng người vào lăng viếng Bác, còn là hoa của lòng nhớ thương, biết ơn, thành kính… hoa của cuộc đời đã nở dưới ánh sáng của Bác… tất cả đang thành kính dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”
+ Hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” lại chứa đựng bên trong một hình ảnh ẩn dụ đẹp (mùa xuân) → Cuộc đời của Bác đẹp như những mùa xuân.
+ Phép ẩn dụ, điệp ngữ “ngày ngày” vừa gợi ấn tượng về cõi trường sinh, vừa gợi tấm lòng biết ơn, thành kính không nguôi nhớ Bác.
=> Khổ thơ vừa là lời ngợi ca sự vĩ đại, bất tử của Bác Hồ vừa thể hiện lòng ngưỡng mộ, tôn kính và biết ơn vô hạn của nhân dân, đối với Bác.
3. Cảm xúc khi ở trong lăng
– Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào.
– Hai câu đầu: khung cảnh, không khí trang nghiêm, thanh tĩnh
+ Cách nói giảm: “giấc ngủ bình yên” gợi sự bất tử của Bác và lòng kính yêu Người.
+ Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền”: diễn tả đúng ánh sáng dịu nhẹ của không gian trong lăng vừa gợi liên tưởng đến tâm hồn cao đẹp và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.
– Hai câu sau: Cảm xúc ngưỡng mộ như lắng xuống nhường chỗ cho nỗi đau xót không thể kìm nén.
+ Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” khẳng định: Bác bao dung, vĩ đại và trường tồn cùng thời gian.
+ Dù vẫn tin như thế nhưng không thể đau xót vì sự ra đi của Người. Nỗi đau xót đã được nhà thơ biểu hiện rất cụ thể, trực tiếp “mà sao nghe nhói ở trong tim!”.
+ Cấu trúc đối lập (vẫn biết – mà sao) + câu cảm thán → nỗi đau quặn thắt, tê tái trong đáy sâu tâm hồn, lòng xót thương vô hạn không thể nguôi ngoai.
+ Nhịp thơ đột ngột ngắt 4/3 như một tiếng nấc đau đớn, nức nở, nghẹn ngào.
4. Cảm xúc khi dời lăng
– Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn được ở mãi bên Bác.
– “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” giản dị như một lời giã biệt.
+ “trào nước mắt”: lòng thương nhớ kìm nén đến lúc này vỡ òa thành nước mắt.
– Biết rằng sắp phải rời lăng Bác, tác giả ước “Muốn làm con chim … trung hiếu chốn này” → Luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa Bác, ước nguyện được hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật bên lăng để được ở mãi bên Bác.
– Hình ảnh cây tre xuất hiện ở đầu bài thơ được khép lại cuối bài với một nét nghĩa bổ sung “cây tre trung hiếu” tạo kết cấu đầu cuối tương ứng.
– Nhân hóa – ẩn dụ “cây tre trung hiếu” → niềm tin và tình cảm thủy chung son sắt của cả dân tộc ta quyết đi theo con đường mà Người đã chọn.
– Điệp ngữ “muốn làm” cùng phép liệt kê tăng cấp và nhịp thơ dồn dập thiết tha gợi tâm trạng lưu luyến, ước muốn hoá thân, sự tự nguyện chân thành của tác giả. Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần gặp Bác.
– Hình ảnh hàng tre xuất hiện ở khổ đầu và câu cuối cùng của bài thơ.
+ Ở khổ đầu, hình ảnh hàng tre được gợi lên với cả hình dáng, màu sắc, sức sống và mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa. Hàng tre vừa thực vừa ảo, lung linh trong tâm tưởng. Đó là hình ảnh cây cối mang màu đất nước tụ về đây canh giữ giấc ngủ cho Bác, vừa là ẩn dụ cho dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất, bền bỉ, trung thành bên Bác.
+Trong câu thơ cuối, hình ảnh hàng tre lặp lại nhưng có sự đổi mới về nghĩa, tạo kết cấu đầu cuối tương ứng, gây ấn tượng đậm nét. Không còn là cây tre – khách thể nữa mà đã tan hòa vào chủ thể, tượng trưng cho tấm lòng, ước nguyện, ý chí của nhà thơ, của dân tộc: trung hiếu với Bác, mãi đi theo con đường của Bác, mãi bên Bác.
D. Sơ đồ tư duy
Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác
Dàn ý chi tiết Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác
a) Mở bài
– Giới thiệu về tác giả và tác phẩm:
+ Viễn Phương là nhà thơ gắn bó với cuộc sống chiến đấu của bà con quê hương trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ xâm lược.
+ Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động của nhà thơ đối với Người khi vào lăng viếng Bác với giọng trang trọng, tha thiết thể hiện niềm yêu thương, biết ơn Bác.
b) Thân bài
* Cảm xúc khi đứng trước lăng
– Tình cảm chân thành giản dị, chân thành của tác giả Viễn Phương cũng chính là tấm lòng đau đáu thương nhớ Bác của người con miền Nam nói chung
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
+ Câu thơ gợi ra tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam bao nhiêu năm mong mỏi bây giờ được ra lăng viếng Bác
+ Đại từ xưng hô “con” rất gần gũi, thân thiết, ấm áp tình thân mật, diễn tả tâm trạng của người con ra thăm cha sau nhiều năm mong mỏi
+ Cách nói giảm nói tránh, cùng việc sử dụng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau mất mát, cũng là cách nói thân tình của diễn tả tâm trạng mong mỏi của tác giả
– Hình ảnh hàng tre là hình ảnh ẩn dụ đa nghĩa
+ Với tính chất tượng trưng, hình ảnh hàng tre gợi lên những liên tưởng thân thuộc của hình ảnh làng quê, đất nước đã thành biểu tượng của dân tộc
+ Cây tre tượng trưng cho khí chất, tâm hồn, sự thẳng thắn, kiên trung của con người Việt Nam
+ Từ “Ôi” cảm thán, biểu thị niềm xúc động tự hào về phẩm chất ngay thẳng, mạnh mẽ của dân tộc ta
* Cảm xúc trước dòng người vào lăng
– Ở khổ thơ thứ hai tác giả tạo ra được cặp hình ảnh thực và ẩn dụ song đôi: mặt trời thiên nhiên rực rỡ và hình ảnh Người
+ Tác giả ẩn dụ hình ảnh mặt trời nói về Bác, người mang lại nguồn sống, ánh sáng hạnh phúc, ấm no cho dân tộc
– Hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ, đây là hình ảnh thực diễn tả nỗi xúc động bồi hồi trong lòng tiếc thương kính cẩn của người dân khi vào lăng
– Hình ảnh thể hiện sự kết tinh đẹp đẽ “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
+ Đoàn người vào viếng Bác là hình ảnh thực, đây còn là hình ảnh ẩn dụ đẹp đẽ, sáng tạo của nhà thơ: cuộc đời của dân tộc ta nở hoa dưới ánh sáng cách mạng của Bác
+ Bảy mươi chín mùa xuân: là hình ảnh hoán dụ chỉ số tuổi của Bác, cuộc đời Bác tận hiến cho sự phát triển của đất nước dân tộc.
* Cảm xúc khi vào trong lăng
– Niềm biết ơn thành kính dần chuyển sang sự xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy Bác:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
+ Ánh sáng dịu nhẹ trong lăng gợi lên sự liên tưởng thú vị: “vầng trăng sáng dịu hiền”
+ Những vần thơ của Bác luôn gắn chặt với ánh trăng, hình ảnh “vầng trăng” gợi lên niềm xúc động, và khiến ta nghĩ tới tâm hồn thanh cao của Bác
+ Ở Người là sự hòa quyện giữa sự vĩ đại thanh cao với sự giản dị gần gũi
– Nhà thơ xúc động, đau xót trước sự ra đi mãi mãi của Người:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
+ Dù Người ra đi, nhưng sự ra đi đó hóa thân vào thiên nhiên, vào dáng hình xứ sở, giống như Tố Hữu có viết “Bác sống như trời đất của ta”
+ Nỗi lòng “nghe nhói ở trong tim” của tác giả chính là sự quặn thắt tê tái trong đáy sâu tâm hồn khi đứng trước di hài của Người, đó chính là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
* Cảm xúc khi chuẩn bị từ biệt
– Cuộc chia ly lưu luyến bịn rịn, thấm đẫm nước mắt của tác giả
+ Mai về miền Nam thương trào nước mắt: như một lời giã từ đặc biệt, lời nói diễn tả tình cảm sâu lắng, giản dị
+ Cảm xúc “dâng trào” nỗi luyến tiếc, bịn rịn, không muốn xa rời
+ Ước nguyện chân thành muốn được hóa thân thành “chim”, cây tre”, “đóa hoa” để được ở gần bên Bác
+ Điệp từ “muốn làm” diễn tả trực tiếp và gián tiếp tâm trạng lưu luyến của nhà thơ
– Hình ảnh cây tre kết thúc bài thơ như một cách kết thúc khéo léo, hình ảnh cây tre trung hiếu được nhân hóa mang phẩm chất trung hiếu như con người
+ “Cây tre trung hiếu” mang bản chất của con người Việt Nam trung hiếu, thẳng thắn, bất khuất đó cũng là sự tự hứa sống có trách nhiệm với sự nghiệp của Người.
c) Kết bài
– Viếng lăng Bác là bài thơ đẹp và hay gây xúc động trong lòng người đọc. Nhân dân Việt Nam trung thành, xúc động với con đường cách mạng mà Người vạch ra.
– Thể hiện qua giọng điệu trang trọng và tha thiết, hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ bình dị, hàm súc.
Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác – mẫu 1
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.”
Nỗi mong chờ và ao ước của đồng bào miền Nam được Bác vào thăm không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại bao niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ. Viễn Phương – nhà thơ trẻ miền Nam – được vinh dự ra thăm lăng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già dân tộc. Xúc động tận đáy lòng, Viễn Phương viết bài “Viếng lăng Bác”. Đây là bài thơ gợi cho em niềm cảm xúc sâu xa nhất.
Cảm xúc đầu tiên mà em cảm nhận được từ bài thơ có lẽ vì bài thơ thể hiện được tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào Nam Bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói hộ cùng Bác nỗi mong chờ và mong đợi Bác vào thăm.
Xúc động dạt dào, mở đầu bài thơ, tác giả viết:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre! Xanh xanh Việt Nam”
Tình cảm của nhà thơ rất chân thành và cũng rất gần gũi. Đối với người chiến sĩ miền Nam được ra thăm lăng Bác là một điều rất vinh dự. Nhưng không vì thế mà giảm mất tình yêu thương của tác giả đối với Bác. Câu thơ ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật “con”. Bởi tất cả mọi người đều là những người con trung hiếu của Bác, xem Bác như “là cha, là bác, là anh”. Tình người bao la, giản dị, tình dân tộc đằm thắm mến yêu. Đoạn thơ đã tạo nên một không khí ấm áp, gần gũi.
Video bài văn mẫu Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác
Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, hình ảnh thân thuộc của đất nước để mở bài thơ rộng hơn. Xa hơn nhưng cũng gần gũi hơn bao giờ hết. Nhắc đến hình ảnh cây tre, ta lại nghĩ tới đất nước, tới dân tộc Việt Nam với bao đức tính cao quý. Tre anh dũng trong chiến đấu, tre yêu thương giúp đỡ dân tộc, tre hi sinh cho thế hệ mai sau và tre cũng rất anh hùng bất khuất:
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”
Tre đã vất vả, chịu nhiều nắng mưa nhưng vẫn hiên ngang đứng giữa trời xanh, như dân tộc ta không bao giờ khuất phục bọn giặc cướp nước “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Theo đoàn người, tác giả vào thăm lăng Bác, nhà thơ nhìn thấy:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”
“Mặt trời” ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của đất, nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ và vĩnh viễn trên thế gian. Nhưng mặt trời ấy còn thấy và nhận ra một mặt trời khác, một “‘mặt trời trong lăng” rất đỏ. Mặt trời trên cao được nhân hóa, nhìn mặt trời trong lăng bằng đôi mắt của mặt trời. Một hình ảnh chứa chan bao tôn kính đối với Bác Hồ vĩ đại. Bằng hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ đã ví Bác là mặt trời. Người là mặt trời đỏ rực màu cách mạng sẽ mãi mãi chiếu sáng đường chúng ta đi bằng sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Đây là nét nghệ thuật sáng tạo của tác giả.
Độc đáo hơn, nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác nữa để ca ngợi Bác:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
Hình ảnh những dòng người đi trong thương nhớ kết thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh những dòng người xếp thành hàng dài vào lăng Bác trông như những tràng hoa vô tận. Nó còn có nghĩa tượng trưng: Cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng lên Người những gì tốt đẹp nhất. “Dâng bảy mươi chín mùa xuân” – đây là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng. Con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm ra những mùa xuân cho đất nước, cho con người.
Nhà thơ vào lăng, được nhìn thấy Bác nằm trong giấc ngủ bình yên giữa một vùng ánh sáng nhè nhẹ dịu hiền. Ánh sáng ấy nơi Bác nằm được nhà thơ miêu tả như ánh sáng một vầng trăng hiền dịu:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi nhà thơ sự liên tưởng thật là thú vị “ánh trăng”. Tác giả đã thể hiện sự am hiểu của mình về Bác qua sự liên tưởng kì lạ đó. Bởi trăng với Bác từng là đôi bạn tri âm tri kỉ. Ánh trăng bát ngát ngoài trời đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để ru giấc ngủ ngàn thu cho Người. Với hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” dụng ý nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Người có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm. Bác của chúng là là vậy. “Mặt trời”, “vầng trăng”, “trời xanh” đó là những cái mênh mông bao la của vũ trụ được nhà thơ ví như cái bao la rộng lớn trong tình thương của Bác. Đó cũng là biểu hiện sự vĩ đại, rực rỡ, cao siêu của con người và sự nghiệp của Bác. Biết rằng Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao. Nhưng nhà thơ vẫn không khỏi thấy nhói đau trong lòng khi đứng trước thi thể của Người: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức của tác giả. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
Còn đứng trong lăng Bác, nhưng khi nghĩ đến lúc phải xa Bác, Viễn Phương thấy bịn rịn không muốn dứt. Tình cảm của nhà thơ trong suốt thời gian trên luôn sâu lắng, đau lặng lẽ nhưng đến giây phút này, Viễn Phương không thể nào ngăn được nữa để cho tình cảm theo dòng nước mắt tuôn trào, dâng lên cao và tha thiết nhất “mơ về miền Nam thương trào nước mắt”. Chỉ nghĩ đến việc về miền Nam, tác giả cũng đã “trào nước mắt”, luyến tiếc khi chia tay, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ, ở câu thơ này, tác giả không sử dụng một nghệ thuật gì cả, chỉ là lời nói giản dị, là tình thương sâu lắng tự tấm lòng nhưng lại làm cho ta xúc động, bài thơ thêm giàu cảm xúc. Một cách nói không hoa mĩ, chân thành như người dân Nam Bộ, nhưng lại lắng trong đó nỗi thương yêu đau đớn không có gì có thể nói và tả được.
Tác giả thay mặt cho nhân dân miền Nam bày tỏ niềm thương tiếc vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Câu nói giản dị ấy làm người đọc thêm hiểu và đồng cảm với cảm xúc của Viễn Phương, bởi lời nói đó đều xuất phát từ muôn triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá. Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần nào gặp Bác:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Từ ngữ “muốn làm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện được ước muốn, sự tự nguyện của tác giả. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép bài thơ lại một cách khéo léo. Một mong ước chân thành của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim hằng ngày ca hót cho Bác yên ngủ, làm đóa hoa tỏa hương thơm ngào ngạt, cùng muôn đóa hoa khác làm đẹp nơi Bác nghỉ. Và vui sướng nhất khi được làm cây tre trung hiếu đứng mãi bên Bác canh từng giấc ngủ của Người. Cánh hoa ấy, tiếng chim hót và cây tre trung hiếu ấy giữ mãi cho Người giấc ngủ bình yên. Viễn Phương nói lên mong ước của mình cũng như là ước nguyện của tất cả chúng ta muốn được gần Bác để được lớn lên một chút:
“Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút.”
Bác của chúng ta là vậy. Người giàu tình thương yêu, giàu đức hi sinh và đời Người thì vô cùng giản dị. Đất nước ta mất Bác như mất người cha vĩ đại, người cha luôn luôn dành cho nhân loại tình thương vô bờ bến.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” thật giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, mấy ai đọc bài thơ mà không thấy rung động trong lòng. Bằng cách sử dụng điêu luyện những biện pháp tu từ một cách sáng tạo, tác giả đã thể hiện tình cảm ngọt ngào đằm thắm lại rất giản dị chân thành đối với Bác. Nhà thơ đã truyền được cảm xúc của mình đến với người đọc chính bởi cảm xúc của cả đồng bào Nam Bộ nói riêng của dân tộc nói chung. Chúng ta những cháu ngoan của Bác Hồ cũng xin nguyện như Viễn Phương làm cây tre trung hiếu, làm bông hoa đẹp, làm tiếng chim hay và làm muôn ngàn công việc tốt để dâng lên Người.
Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác – mẫu 2
Viễn Phương là cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ. Đề tài trong thơ ông viết về vị lãnh tụ vĩ đại. Bài thơ “ Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976 khi đất nước thống nhất, lăng Bác được khánh thành và tác giả được vào thăm lăng Bác. Bài thơ là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng bác, khi vào trong lăng Bác và những cảm xúc dâng trào cùng những ước nguyện khi ra về.
Thơ của Viễn Phương có một giọng điệu nhẹ nhàng giàu cảm xúc. Giọng điệu ấy được thể hiện rõ ràng ngay ở lời xưng hô:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp Mưa sa đứng thẳng hàng
Mở đầu là lời xưng hô “con – Bác” thật thân mật gần gũi như người thân trong gia đình, giữa cha với con. Lời xưng hô ấy là lời chào giới thiệu đứa con ở miền Nam ra thăm lăng Bác. Cách nói giảm nói tránh “thăm lăng Bác” dường như trong lòng Viễn Phương Bác vẫn còn sống mãi để giờ đây người con xa xôi ra thăm cha. Đến với lăng Bác nhà thơ bắt gặp hình ảnh “hàng tre trong sương xanh ngát” bốn mùa. Hàng tre ấy được trồng quanh lăng Bác gợi trong lòng cảm giác quen thuộc trở về với quê hương. Cây tre là loài cây bé nhỏ dẻo dai không chịu khuất phục bão táp mưa sa. Ngắm nhìn hàng tre mà nhà thơ không khỏi bồi hồi xúc động “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”. Dòng cảm xúc trào dâng được thể hiện bằng từ “ôi” cùng nghệ thuật ẩn dụ hàng tre xanh xanh tượng trưng cho cả dân tộc Việt Nam đang hội tụ quây quần bên lăng Bác.
Không chỉ nhìn thấy hàng tre mà Viễn Phương còn nhìn thấy hình ảnh mặt trời:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Điệp từ “ngày ngày” chỉ thời gian đều đặn như một vòng quay ngày nào mặt trời của thiên nhiên đem nguồn sáng đến trái đất. Mặt trời ấy cũng đi qua trên lăng sưởi ấm nơi Bác yên nghỉ. Ngắm nhìn mặt trời của thiên nhiên mà nhà thơ liên tưởng đến “mặt trời trong lăng” hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ là nhà thơ muốn ca ngợi công lao to lớn của Bác với đất nước, với dân tộc. Có thể nói Bác đã cống hiến cả cuộc đời cho dân tộc đánh dấu bằng bảy mươi chín mùa xuân. Chính vì thế dù đã đi xa nhưng mọi người vẫn nhớ về Bác ngày nào cũng như ngày nào những người con từ khắp mọi miền tổ quốc với những bộ trang phục đẹp chậm rãi tiến về phía lăng Bác giống như một “tràng hoa” nghệ thuật ẩn dụ dòng người với không khí trang nghiêm thành kính đều hướng về phía lăng Bác với lòng thành kính biết ơn.
Có thể nói người con ở miền Nam xa xôi gặp người cha kính yêu là một khát khao “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” và giờ đây niềm khao khát đã trở thành hiện thực. Bước chân vào lăng dòng cảm xúc nhà thơ lại trào dâng khi thấy hình ảnh:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Không khí trong lăng thật yên tĩnh với hình ảnh Bác nằm với tư thế thanh thản và đang trong giấc ngủ bình yên. Cách nói giảm nói tránh trong tâm tưởng nhà thơ Bác vẫn còn sống mãi. Ngắm nhìn Bác mà nhà thơ lại xúc động khi nghĩ đến những năm tháng đất nước còn chiến tranh Bác có nhiều đêm không ngủ “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.” Giờ đây đất nước thống nhất Bác mới có giấc ngủ bình yên. Người nằm đó mà xung quanh là ánh sáng trong trẻo của vầng trăng. Vầng trăng trên trời cao kia cũng đi vào trong lăng soi sáng nơi Người yên nghỉ. Dường như giữa người và thiên nhiên bao giờ cũng có sự giao hòa trăng đã trở thành đề tài trong thơ Bác và trở thành người bạn tri kỷ. Hay vầng trăng kia là chỉ Bác người có tâm hồn trong sáng thanh cao. Cách biểu đạt nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh” ví Bác như bầu trời cao rộng mà nhà thơ muốn ngợi ca sự vĩ đại trường tồn vĩnh cửu của người như hóa thân vào non sông đất nước sánh ngang cùng trời đất sống mãi trong lòng người. Cặp từ “vẫn biết – mà sao” lí trí tâm tưởng luôn khẳng định Bác vẫn còn sống nhưng trở lại hiện thực người đã đi xa một tổn thất lớn của dân tộc. Người mãi mãi đi làm cho lòng người đau nhói nỗi đau quặn thắt không nói lên lời.
Chính vì vậy mà khi chân còn ở trên đất Bác nghĩ đến ngày mai trở về nhà thơ cảm thấy buồn, xúc động lưu luyến không muốn xa rời. Dòng cảm xúc ấy rất tự nhiên, chân thành tuôn trào thành giọt nước mắt để rồi nhà thơ bày tỏ những ước nguyện:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Viễn Phương muốn làm con chim để dâng tiếng hót hay nhất của mình nơi lăng Bác, muốn làm bông hoa để khoe hương khoe sắc làm đẹp nơi Bác yên nghỉ, muốn làm cây tre để đứng canh cho giấc ngủ của Người. Nghệ thuật ẩn dụ “con chim, nhành hoa, cây tre” chỉ nhà thơ Viễn Phương người muôn hóa thân vào những gì nhỏ bé nhưng đẹp đẽ để được gần gũi nơi Bác yên nghỉ. Điệp ngữ “muốn làm” điệp cấu trúc điệp cách phô diễn càng làm cho những ước nguyện chân thành tha thiết. Hình ảnh cây tre trung hiếu còn là lời thề thiêng liêng nguyện trung thành với lý tưởng của người. Hình ảnh cây tre kết thúc ở cuối bài tạo cách kết thúc đầu cuối tương ứng.
Bài thơ kết cấu của thể thơ tám chữ, từ ngữ hay, giàu cảm xúc, hình ảnh đẹp “mặt trời, vầng trăng…” cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ cùng với giọng điệu nhẹ nhàng trang nghiêm thành kính đã diễn tả cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác, vào trong lăng Bác và lúc ra về. Đó là tâm trạng của tất cả mọi người khi đến nơi đây. Và với những bài thơ của Tố Hữu hay “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ, “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên các tác giả không chỉ đóng góp những bài thơ hay viết về Bác Hồ mà còn muốn ca ngợi về Người bằng tình cảm xuất phát từ tận đáy lòng, bằng tình yêu quý tự hào và biết ơn.
Bài thơ đã cho thấy tình cảm của Viễn Phương nói riêng và cả của dân tộc nói chung dành cho Bác. Qua đó em rất yêu quý và tự hào về Bác em hứa sẽ cố gắng học tập, thực hiện tốt năm điều Bác Hồ dạy để trở thành người công dân tốt.
Đối với tác giả, tác phẩm Viếng lăng Bác lớp 9 hay nhất, trình bày chi tiết nội dung chính, quan trọng nhất về bài Viếng lăng Bác, bao gồm bố cục, tóm tắt, nội dung chính, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, lập dàn ý, phân tích,….
Bài thơ Viếng lăng Bác (Viễn Phương) – Ngữ văn lớp 9
Bài học: Viếng Lăng Bác – Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Nội dung bài thơ Viếng lăng Bác
I. Giới thiệu tác giả
– Viễn Phương (1928-2005) tên thật là Phan Thanh Viễn
Quảng cáo
– Quê quán: An Giang
– Sự nghiệp sáng tạo:
+ Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, là cây bút sớm nhất của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
+ Năm 1952, bản hùng ca “Chiến thắng vì hòa bình” của ông được giải nhì khi Nam Bộ tổ chức giải tổng kết văn học nghệ thuật.
+ Khi Hội Văn nghệ phía Nam được thành lập, ông được bầu làm Ban chấp hành.
+ Tác phẩm tiêu biểu: “Anh hùng mỏ chim mồi”, “Như mây mùa xuân”, “Lòng mẹ”,…
– Phong cách sáng tác: Thơ Viễn Phương dạt dào cảm xúc nhưng không u uất, giọng thơ trầm ngâm, thủ thỉ, bâng khuâng.
II. Công việc
Quảng cáo
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, Lăng Bác khánh thành, Xa phương Bắc vào thăm Bác, nhà thơ đã viết bài thơ này. và được in trong tập Như Mây Xuân năm 1978
2. Bố cục
– Khổ 1: Cảm xúc của tác giả trước không gian và cảnh vật bên ngoài lăng
– Khổ 2: Cảm xúc trước đoàn người vào viếng lăng Bác
– Khổ 3: Cảm xúc khi vào lăng, nhìn thấu di hài Bác
– Khổ 4: Những tâm tư, tình cảm trước lúc ra đi
3. Giá trị nội dung
– Đoạn thơ thể hiện lòng thành kính, xúc động của nhà thơ nói riêng và mọi người nói chung khi đến viếng lăng Bác.
4. Giá trị nghệ thuật
– Bài thơ được viết theo thể bảy chữ, giọng điệu trang trọng, thiết tha, có nhiều hình ảnh thơ đẹp, lãng mạn gợi nhiều cảm xúc.
Quảng cáo
5. Phân tích tác phẩm
I. Giới thiệu
– Đôi dòng về tác giả Viễn Phương – nhà văn xuất hiện sớm nhất của lực lượng giải phóng miền Nam thời chống Mỹ cứu nước.
– Đôi lời về bài thơ “Viếng lăng Bác” – bài thơ là dòng cảm xúc nghẹn ngào của tác giả khi vào viếng lăng, cũng là nén hương dâng lên Chủ tịch Hồ Chí Minh.
II. Thân hình
1. Cảm xúc nghẹn ngào khi vào thăm lăng Bác (câu 1)
– “Cháu ở miền Nam ra thăm lăng Bác”: đồng bào miền Nam gọi các cháu bằng Bác vì Bác như người cha hiền từ.
– Nhà thơ dùng từ “viếng”: nói bớt để xoa dịu nỗi đau, tuy Bác đã đi xa nhưng trong tâm trí mỗi người Bác sẽ luôn sống mãi.
– Chữ “phúc” hiện ra trước mắt mà một màu xanh ngút ngàn trải dài bao bọc lăng
– Hình ảnh hàng tre thực chất có nghĩa là những rặng tre quanh lăng, nhưng nó cũng mang ý nghĩa ẩn dụ chỉ phẩm chất con người Việt Nam bất khuất, ngay thẳng, bất khuất với tinh thần yêu thương, đùm bọc.
⇒ Tác giả đứng trước lăng Bác với cảm xúc nghẹn ngào “ôi”, gọi “con”…
2. Cảm nghĩ trước đoàn người vào viếng lăng Bác (câu 2)
– Ẩn dụ “mặt trời”: Bác là mặt trời của dân tộc, đem lại ánh sáng ấm áp cho cuộc sống của dân tộc, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, kính trọng đối với Bác.
– Sử dụng điệp ngữ “ngày tháng”: chỉ thời gian vô tận, lòng người không thôi nhớ Bác
– Hình ảnh ẩn dụ “ tràng hoa”: chỉ những người vào lăng viếng Bác kết một vòng hoa rực rỡ, huy hoàng, mỗi người mang một bông hoa lòng thành kính, kính yêu, ngưỡng mộ lãnh tụ.
– “Bảy mươi chín mùa xuân”: là ẩn dụ chỉ cuộc đời của Bác đẹp như suối nguồn, đó cũng là cuộc đời của Bác.
Quảng cáo
⇒ Lòng biết ơn to lớn của Chủ tịch Hồ Minh, lòng kính trọng của nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ của dân tộc
3. Cảm xúc khi vào Lăng viếng di hài Bác Hồ (Câu 3)
– “Giấc ngủ bình yên”: nói giảm nói bớt nỗi đau, đồng thời thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng giấc ngủ của Bác.
– “vầng trăng sáng hiền”: nhân cách hóa ánh sáng tỏa ra từ lăng, cũng là hình ảnh ẩn dụ cho vẻ đẹp tâm hồn cao cả của Người.
– “Bầu trời xanh”: ẩn dụ về sự trường tồn, vĩnh cửu của Bác với non sông đất nước
– Nhà thơ sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để chuyển đổi cảm giác “nghe nhói trong tim”, nhà thơ dường như nghe thấy nỗi đau đang buốt như cắt trong lòng.
⇒ Tình cảm vào lăng của nhà thơ với Bác thật trân trọng và xúc động
4. Tâm tư, tình cảm trước lúc ra đi (Câu 4)
– “Ngày mai vào Nam nước mắt đầm đìa”: trực tiếp tình cảm lưu luyến không muốn rời
– Phép liệt kê, ẩn dụ “chim, hoa, trúc” cùng với điệp ngữ “muốn làm”: sự cống hiến nồng nàn, mãnh liệt, muốn làm một điều gì đó cho Bác
– Hình ảnh cây trúc được lặp lại tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng
⇒ Chủ ngữ “con” ở đây không xuất hiện thể hiện mong ước này không chỉ của tác giả mà của mọi người, của dân tộc ta đối với Bác Hồ.
III. Kết thúc
– Tổng kết những thành công về nội dung và nghệ thuật tạo nên bài thơ:
+ Thể thơ 8 chữ, giọng điệu tha thiết, sâu lắng, sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ quen thuộc, ngôn ngữ thơ giản dị mà cô đọng
+ Thể hiện niềm xúc động, kính trọng, tiếc thương của nhà thơ trước sự ra đi của Bác Hồ, ước nguyện của Bác là Bác mãi ở bên, khi Bác lên cao thì tràn đầy lòng thành kính, biết ơn…
Xem thêm các bài viết về tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 9 hay khác:
Xem thêm các bộ sách Để học tốt Tiếng Anh 9 hay khác:
Mã giảm giá Shopee mới nhất Mã số
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, Soạn SBT, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng….miễn phí. Tải xuống ứng dụng ngay bây giờ trên Android và iOS.


Nhóm học facebook miễn phí cho teen 2k7: fb.com/groups/hoctap2k7/
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:
Soạn Văn lớp 9 siêu ngắn được biên soạn bám sát câu hỏi SGK Ngữ Văn lớp 9 Tập 1, Tập 2 giúp bạn soạn bài Ngữ Văn 9 dễ dàng hơn.
Nếu thấy hay hãy động viên và chia sẻ nhé! Nhận xét không phù hợp quy tắc bình luận trang web Bạn sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
Các bộ đề lớp 9 khác
Bài viết dưới đây là Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương. Chúc các bạn có thêm nhiều kiến thức và tài liệu để ôn tập thật tốt. Cùng tham khảo nhé.
1. Hoàn cảnh sáng tác:
– Bài thơ viết vào tháng 4 năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi vẻ vang lập lại hòa bình trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Để kỷ niệm và cũng như dành sự tôn trọng, yêu quý nhớ ơn của bác người lãnh tụ đã hy sinh cả đời vì nước vì dân đất nước đã xây dựng và khánh thành Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, Lúc này tác giả Viễn Phương cùng đoàn người con xa ra Bắc vào viếng Bác. Nhà thơ đã viết bài thơ này và nằm trong tuyển tập “ “Như mây mùa xuân” năm 1978.
Xem thêm: Phân tích khổ 1, 2 bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
2. Ý nghĩa nhan đề bài thơ Viếng lăng bác:
“Viếng lăng Bác” là một nhan đề rút gọn nhưng rút lại ý nghĩa sâu xa của nó.
“Viếng” – chỉ hành động thăm hỏi, chia buồn khi có người qua đời.
“Lăng Bác” là một địa danh ở Hà Nội.
=> Như vậy, trước hết cho người đọc biết rằng nhà thơ nhân ngày đất nước thống nhất đã ra Bắc thăm Bác. Qua bài thơ, Viễn Phương cũng bày tỏ tình cảm kính trọng, kính yêu nhưng cũng đầy tiếc thương đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.
Xem thêm: Phân tích khổ 3, 4 bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
3. Vài nét về tác giả Viễn Phương và tác phẩm Viếng lăng Bác:
3.1. Tiểu sử cuộc đời tác giả Viễn Phương:
Viễn Phương, tên thật là Phan Thanh Viễn (1 tháng 5 năm 1928 – 21 tháng 12 năm 2005), quê quán huyện Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (ngày nay là thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang).
Khi còn là một đứa trẻ, anh ấy đã đi học. Cách mạng Tháng Tám nổ ra (1945), ông nhập ngũ và được biên chế vào Tiểu đoàn 23. Năm 1952, Nam Bộ tổ chức giải tổng kết văn học nghệ thuật mang tên Chín Giải. Bài thơ “Chiến thắng vì hòa bình” của ông được xếp thứ hai về thơ. Năm 1954, kháng chiến chống Pháp kết thúc, ông được phân công vào Sài Gòn hoạt động.
Sau biến cố 30-4-1975, ông được bầu ngay làm Chủ tịch Hội Văn nghệ Giải phóng Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Thành phố Hồ Chí Minh và được bầu vào Ban Chấp hành Thành đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. . văn học Việt Nam.
Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2001.
3.2. Sự nghiệp văn chương của Viễn Phương:
Trong suốt 30 năm đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc, Viễn Phương đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng. Ông dành cả cuộc đời để làm thơ. Với tâm hồn nghệ sĩ, tác giả đã nắm bắt được những sắc thái, cảm xúc của cuộc sống và sự lừa đảo. Anh viết để có thể thả hồn vào câu chữ, viết để cống hiến cho quê hương, đất nước.
Truyện ngắn và thơ là hai lĩnh vực tiêu biểu thể hiện trong sáng tác của Viễn Phương, trong đó thơ là lĩnh vực giúp anh gặt hái nhiều thành công. Bên cạnh đó, thể loại nhân vật của anh cũng được đánh giá cao.
Tác phẩm tiêu biểu: Địa đạo quê hương, Lòng mẹ, Sắc tinh tình là, Phù sa quê hương, Mây trắng ngơ ngác, Miền sông nước, Mưa tháng bảy, Đá hoa cương, Thơ với tuổi thơ, Gió lay hương Quỳnh, Ngôi sao xanh, Bóng dáng yêu thương…
Thơ Viễn Phương bùi bùi, thì thầm, thao thức, bâng khuâng, hẹn hò, không hoa mắt, cầu kỳ, khoa trương, ngôn ngữ. Mọi hình ảnh trong đời anh đều thấy thơ.
3.3. Nội dung tác phẩm Viếng lăng Bác – Viễn Phương:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
3.4. Bố cục tác phẩm Viếng lăng Bác – Viễn Phương:
– Khổ 1: Cảm xúc của tác giả trước không gian và cảnh vật bên ngoài lăng
– Khổ 2: Cảm xúc trước đoàn người vào viếng lăng Bác
– Khổ 3: Cảm xúc khi vào lăng, nhìn di hài Bác
– Khổ 4: Những tâm tư, tình cảm trước lúc ra đi
3.5. Giá trị nội dung và nghệ thuật:
Giá trị nội dung: Đoạn thơ thể hiện nổi bật niềm biết ơn và niềm tiếc thương vô hạn của nhà thơ nói riêng và mọi người nói chung khi đến viếng lăng Bác.
Giá trị nghệ thuật: Bài thơ được viết theo thể thơ bảy chữ, nhịp thơ trang trọng, thiết tha, với nhiều hình ảnh thơ đẹp, lãng mạn gợi nhiều cảm xúc.
Xem thêm: Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương siêu hay
4. Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác:
Hình ảnh Bác Hồ luôn là đề tài muôn thuở trong thơ ca Việt Nam. Bác là nguồn cảm hứng bất tận đối với những nhà thơ, nhà văn thể hiện tài năng của mình trong các tác phẩm của mình. Có thể nói Bác Hồ là hình ảnh đẹp nhất, trong sáng nhất trong thơ ca Việt Nam. Nhiều tác phẩm viết về Người, về những lần đến thăm và gặp gỡ Người, nhưng có lẽ cảm động nhất là tác phẩm “Viếng Lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là cảm xúc của người con ở phương Nam xa xôi trở về thăm Bác sau ngày Bác ra đi.
Viễn Phương là nhà thơ xuất hiện khá nhiều trên văn đàn cách mạng miền Nam từ những ngày chiến tranh. Nhưng tác phẩm “Viếng lăng Bác” có lẽ là tác phẩm thành công nhất của ông khi viết về Bác Hồ. Cả bài thơ chất chứa nỗi niềm trong đó là nỗi buồn, tình cảm chân thành của con người đối với vị cha già dân tộc của một người con từ phương xa trở về thăm. Mở đầu bài thơ, tác giả chào chúng ta, với yêu cầu vô cùng của Bác Hồ rằng:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Không thích các nhà thơ khác dùng những lời chúc hoa mỹ để mô tả một cuộc viếng thăm, Viễn Phương đã dùng lời giới thiệu chân thành nhất của mình. Tác giả rất thích miền Nam xa xôi, mãi đến hôm nay sau khi nước nhà giành độc lập mới được vào thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. hai chữ “Nam” như để nhấn mạnh sự xa cách về khoảng cách địa lý giữa hai đầu đất nước.
Và cuộc viếng thăm của nhà thơ cũng giống như một cuộc viếng thăm Lăng Bác được chờ đợi từ lâu. Bác mất năm 1969, nhưng mãi đến năm 1976, Viễn Phương mới về miền Bắc thăm Bác. Nói là thăm nhưng thực ra là viếng lăng Bác vì Bác đã lâu không về.
Nhưng ở đây, rõ ràng nhà xác định không dùng từ “tham quan” như mục đích thực sự của chuyến đi này, mà dùng từ “tham quan”. Bởi vì tác giả cũng như những người con Nam Bộ khác về đây thăm quê, thăm lại Cha già. Cũng bởi, miền Nam là một phần máu thịt của Việt Nam, là một phần của “ngôi nhà” mà Bác luôn đau đáu ghé thăm mà chưa có dịp:
“Bác thương miền Nam nỗi thương nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Tố Hữu)
Ở đây nhà thơ đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nói giảm đi như một cách làm giảm đi nỗi buồn chua xót tràn ngập trong lòng. Biết bao cảm xúc đau xót có thể dâng lên trong lòng như một cơn bão mạnh, nhưng ấn tượng đầu tiên trở lại trong lòng tác giả là “hàng tre”. Ẩn hiện trong làn sương sớm se lạnh bao quanh lăng Bác là những hàng tre xanh.
Cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng của dân tộc ta và tinh thần bất khuất của ông cha ta. Từ thời Thánh Gióng đã dùng tre đánh đuổi, đuổi theo bụi gai, cây gai cản bước quân thù. Cây tre cứ thế đi vào đời sống tinh thần của người Việt Nam. Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện ra “nhan nhản”.
Không phải từ nào khác, mà “bâng khuâng” khiến người đọc có cảm giác như nhìn thấy tầm nhìn cao vút, mơ hồ, ngút ngàn của những hàng tre bao quanh lăng Bác. Ấn tượng ấy nhà thơ chuyển thành cảm thán.
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Nhìn hàng tre lãng mạn bên Bác Hồ, nhà thơ mơ ước rằng những hàng tre ấy như ý chí của dân tộc Việt Nam bao năm qua luôn bất khuất, kiên cường và bất khuất. Dù trải qua “mưa bão” nhưng họ vẫn sát cánh bên nhau một lòng. Từ “xanh” được dùng ở đây như một cách diễn đạt, để nói lên rằng dân tộc Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ luôn “xanh”, mãi mãi là màu xanh.
“Xanh lam” có nghĩa là luôn luôn giống nhau, luôn luôn có cùng một màu xanh lam. Lớp con nối tiếp Lớp cha anh luôn vững vàng để bảo vệ Tổ quốc. Cả khổ thơ đầu, trong đó có Toàn, là cảm nhận đầu tiên của tác giả khi lần đầu tiên vào thăm lăng Bác. Trong khổ thơ đó là nỗi tiếc thương Bác Hồ mất nhưng ẩn chứa trong đó là một niềm tự hào dân tộc.
Bước sang khổ thơ thứ hai, ta theo chân Viễn Phương tiến dần vào Lăng Bác. Trong không khí trang nghiêm, nhà thơ đã sáng mắt ra hình ảnh mặt trời. Một mặt trời của vũ trụ ngày đêm luân chuyển không ngừng. Mặt trời ấy “ngày ngày” xuyên qua lăng Bác, sưởi ấm cho Người. Và từ đó, nhà thơ cũng nhận ra “một mặt trời trong lăng đỏ lắm”.
Một ẩn dụ vô cùng tinh tế và độc đáo. Bác Hồ – Người là niềm vui, là con thuyền đưa dân tộc Việt Nam vượt qua những ngày đêm đen tối nhất. Nếu như mặt trời của vũ trụ hằng ngày tỏa ánh sáng ấm áp đến nhân gian, thì Bác Hồ – mặt trời của dân tộc Việt Nam đã và mãi là nguồn sáng lớn soi đường cho dân tộc. Trong thơ ca, không ít tác giả dùng hình ảnh ông mặt trời để so sánh với Bác Hồ. Như Tố Hữu cũng đã nói:
“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng”.
(Sáng tháng năm)
Nhưng ở đây, với Viễn Phương, vẫn là hình ảnh ấy, nhưng mang một màu sắc rất riêng. Nếu như nắng bên ngoài đỏ rực hàng ngày thì nắng trong lăng nơi đây cũng đỏ rực một màu riêng. Màu đỏ ấy bừng lên từ bản chất con người Hồ Chí Minh, từ lý tưởng cao cả mà Người mang theo, từ ý chí bất khuất của Người, từ sự kiên cường đấu tranh mà Người đã thể hiện, từ những công lao mà Người đã lập được. .
Tất cả những điều đó tạo nên một mặt trời rực rỡ, sánh ngang với mặt trời của vũ trụ bên ngoài. Tác giả khéo léo sử dụng ở đây thông báo từ “ngày tháng”. “Ngày tháng” có nghĩa là sự liên tục của thời gian, sự lặp đi lặp lại theo chu kỳ của tự nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Người sẽ luôn sáng tỏ như vầng thái dương. Lần thứ hai, “ngày” được lặp lại khi miêu tả dòng người lặng lẽ vào viếng Người. Dòng người bước đi trong trang nghiêm và lặng lẽ, trong tiếc thương đau thương.
Ở đây, tác giả đã rất khách sáo khi không phải là một đoàn người, một dòng người mà là một dòng người. Điều này khiến người đọc có cảm giác như khoảng lặng, trải dài vô tận của những người đến viếng Bác. Cả đoàn người lặng lẽ “đi trong niềm thương nhớ” về vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc. Nỗi nhớ của ông đã trở thành “ tràng hoa”, dòng người của ông đã trở thành tràng hoa bất tận dâng lên Bác.
Và Viễn Phương hòa vào dòng người ấy với tấm lòng kính yêu chân thành dâng Bác, dâng “bọt suối chín” của Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” là tuổi của Bác. Cả cuộc đời bảy mươi mùa chín suối cống hiến hết mình cho dân tộc, không một giây phút ngơi nghỉ cho riêng mình. Tác giả muốn thể hiện sự cống hiến to lớn mà Bác Hồ vào sinh ra tử đối với đất nước. Và sự ra đời đó đã giúp cả dân tộc được sống trong hòa bình.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Đây có lẽ là khổ thơ đắt giá nhất của bài thơ. Khổ thơ là lời ca ngợi công lao của Bác, cũng là tình cảm thiết tha, lòng biết ơn vô hạn của mọi người dân Việt Nam đối với Bác. Tiếp đó, nhà thơ tiếp tục hành trình viếng lăng Bác. Và giờ đây, anh đã được gặp lại người Cha già mà anh hằng kính yêu và kính trọng:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác nằm đó, nhẹ nhàng, thanh thản như đang chìm vào giấc ngủ ngon. Cả đời người chỉ có một niềm đam mê, đó là đất nước được hòa bình. Vì vậy, giờ đây, khi đất nước đã hòa bình, độc lập, Người đã yên giấc ngàn thu.
Cả cuộc đời Người đã cống hiến hết sức lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, để rồi giờ đây Người đã “yên giấc ngàn thu”. Với nhà thơ hay với bất kỳ ai, Bác Hồ cũng như năm nào, tự thưởng cho mình một giấc ngủ ngon sau bao ngày vất vả, sớm khuya lo cho cuộc đấu tranh của nhân dân:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Một lần nữa, Viễn Phương phải dùng đến các biện pháp giảm nhẹ để giảm bớt bầu không khí đau thương đang tràn ngập trong tâm hồn. Bác nằm đó, giữa giấc ngủ êm đềm chưa từng có, giữa ánh sáng dịu nhẹ lan tỏa trong không gian.
Ánh sáng ấy có thể là ngọn đèn ngủ êm dịu thắp trong lăng Bác. Nhưng cũng có thể nhà thơ đang nói về ánh trăng thiên nhiên – vầng trăng mà Bác yêu quý nhất. Có thể thấy, tư liệu của ông luôn tràn ngập hình ảnh vầng trăng. Ví dụ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Hay:
“Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”
Có thể ở đây, hiệu không chỉ đơn giản là nói đến ánh đèn nhấp nháy trong Lăng Bác mà còn nói đến ánh trăng tự nhiên bên ngoài. Bởi trong cuộc đời Bác Hồ là người yêu trăng hơn bao giờ hết. Giờ đây, khi được bước sang một thế giới khác yên bình hơn, anh muốn được hòa mình với ánh trăng của thiên nhiên, luôn sáng đẹp, trường tồn như lý tưởng của anh. Và tiếp theo, sau bao nhiêu kìm nén, nhà thơ đã phải thốt lên một tiếng nghẹn ngào:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Một lời khiển trách đau đớn biết bao! Lời khiển trách đó là lời quở trách của trời xanh. Bầu trời vẫn thế, năm tháng vẫn xanh một màu bất diệt, nhưng tại sao vị cha già của dân tộc lại phải ra đi? Vẫn biết quy luật sinh tử của hóa học mà lòng vẫn ngậm ngùi đau xót. Dù lý trí luôn chỉ ra rằng quy luật tự nhiên là bất biến nhưng nhà thơ vẫn “nghe nhói đau trong lòng”.
Nỗi đau đến nghẹt thở ấy đã trở thành nỗi trách móc thấu tận trời xanh. Và cảm giác “nghe kẽo kẹt” khiến người đọc như đồng cảm được phần nào nỗi niềm đau đớn, xé lòng mà tác giả cũng muốn bày tỏ. Cảm xúc nó dồn nén đến tất cả các giác quan trong cơ thể con người.
Cuộc gặp nào rồi cũng đến, chuyến vào thăm Chủ tịch Hồ Chí Minh của Viễn Phương cũng vậy. Đến lúc phải từ biệt, nhà thơ vô cùng xúc động. Cảm xúc ấy cùng với nỗi xót xa, nỗi đau bị kìm nén từ đầu đã biến thành tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Ngày mai, con phải xa Cha, rời xa Cha kính yêu để trở về phương Nam xa xôi, biết bao giờ con mới có dịp về thăm Cha lần nữa. Chính vì vậy mà nhà thơ đã cất cao tiếng nói của mình. Bao nhiêu buồn đau, xót xa, thương mến cứ thế tuôn trào theo dòng nước mắt. Chính lúc này trong đầu nhà thơ đã xuất hiện một ước nguyện:“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Điệp từ “muốn” được lặp lại ba lần như khẳng định lại ước nguyện của nhà thơ. Đó là một niềm khao khát, một nỗi niềm mong mỏi, khát khao của nhà thơ. Mong ước ấy là được ở bên ông – người đứng đầu đại hội toàn quốc, chỉ để được làm “con chim hót”, “bông hoa”, “cây tre trung thành”. Tất cả đều là những điều vô cùng nhỏ bé, tầm thường nhưng lại là tâm nguyện của tác giả.
Vì tiếng chim hót sẽ ru anh vào giấc ngủ ngon, hoa sẽ tỏa hương thơm và một cây trúc nhỏ sẽ luôn trung thành với nơi này. Nhịp điệu ở đây chậm hơn một nhịp so với các khổ thơ trước. Sự chậm rãi ấy như kéo dài thêm giây phút chia ly tiếp theo. Kết thúc bài thơ, hình ảnh cây tre tái hiện như một vòng tuần hoàn.
Cây tre là biểu tượng của người Việt Nam, là biểu tượng của ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác giả muốn ở lại bên lăng Bác để trở thành cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Bác đã ra đi. Qua đó, nhà thơ muốn khẳng định thêm một điều, đó là lòng tin yêu, thủy chung của mỗi người dân Việt Nam vào Bác Hồ, vào lý tưởng, chân lý mà Bác đang hướng tới cho chúng ta.
Cả bài thơ thể hiện được khát vọng cháy bỏng của tác giả, đó cũng là ước nguyện của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn được ở bên Người, được ở bên vị lãnh tụ muôn đời kính yêu của dân tộc, qua đó thể hiện sự tin tưởng to lớn vào Bác và lý tưởng mà Bác đã dày công vun đắp.
Đoạn thơ kết thúc nhưng mang đến cho người đọc rất nhiều cảm xúc. Chỉ là một chuyến thăm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm, biết bao tình cảm sâu nặng của một người con miền Nam đối với Bác Hồ kính yêu. Bài thơ được kết cấu theo thể tám chữ. Con đường thơ này được kết cấu như một câu chuyện kể với dòng chảy chậm rãi khiến người đọc cảm nhận được hết những cung bậc cảm xúc mà nhà thơ muốn gửi gắm.
Cùng với hệ thống biện pháp tu từ mà phần lớn là phép tu từ, tác phẩm “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã làm sống lại trong lòng người đọc tình cảm yêu mến, kính trọng đối với Bác Hồ và cũng từ đó hòa vào nỗi xót xa. cũng như điều mà tác giả muốn đạt được.
“Hồ Chí Minh – Người ở khắp mọi nơi”. Đây là lời khẳng định của Tố Hữu trước sự chứng kiến của Bác Hồ. Dù Bác đã đi xa nhưng sự hiện diện của Bác còn mãi trong lòng mỗi người con đất Việt. Ông là vị cha già đáng kính, là “linh hồn của mọi linh hồn”. Sự ra đi của anh đau thương, tiếc thương nhưng lý tưởng, ý chí, phẩm chất của anh để lại mãi mãi là Tấm gương soi đường cho dân tộc Việt Nam ra đi mang vinh quang trở về. Về . Đó cũng là từ mà Viễn Phương muốn khai phá qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.
Viễn Phương là một trong những cây bút sớm nhất của lực lượng Văn nghệ Giải phóng miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ Viếng lăng Bác. Tác phẩm được học trong chương trình Ngữ văn lớp 9.

Hôm nay Download.vn sẽ cung cấp tài liệu giới thiệu về nhà thơ Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng Bác. Hi vọng có thể giúp ích cho các bạn khi nghiên cứu tác phẩm trên. Mời các bạn tham khảo nội dung chi tiết được chúng tôi đăng tải ngay dưới đây.
Bài thơ Viếng lăng Bác
Viếng Lăng Bác
Em vào Nam viếng lăng Bác
Thấy trong sương hàng tre
Ồ! Hàng tre xanh Việt Nam
Mưa bão rơi thẳng hàng hàng.
Ngày qua ngày nắng qua lăng
Nhìn thấy một mặt trời đỏ trong tay lái nên
Ngày qua ngày dòng người bước đi trong tình yêu
Hết bảy mươi chín đóa hoa xuân…
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu dàng
Vẫn biết bầu trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói trong tim!
Vào Nam nước mắt rưng rưng
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác?
Bạn muốn trở thành bông hoa thơm ở đâu?
Muốn làm nơi này vị tre.
I. Vài nét về tác giả Viễn Phương
– Viễn Phương (1928 – 2005), tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở An Giang.
– Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ông hoạt động ở Nam Bộ.
– Viễn Phương là một trong những cây bút sớm nhất của Lực lượng Văn nghệ Giải phóng miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
– Một số tác phẩm chính: Hòa bình thắng lợi (Thơ dài, 1952), Người anh hùng mỏ và tên lừa đảo (Truyện, 1968), Mắt sáng học trò (Thơ, 1970), Như mây xuân (1978), Đạo quê hương (truyện và ki, 1981) ), Sự hy sinh của Trư La (1988)…
II. Giới thiệu bài thơ Viếng lăng Bác
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Năm 1976, sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội cũng được khánh thành.
– Nhân dịp này Viễn Phương ra Bắc thăm lăng Bác. Ông đã sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác đăng trong tập Như mây xuân (thơ, 1978).
2. Bố cục
Gồm 4 phần:
- Phần 1. Khổ thơ đầu: Cảnh ngoài lăng Bác.
- Phần 2. Khổ thơ thứ hai: Hình ảnh đoàn người vào lăng viếng Bác và cảm nghĩ của nhà thơ.
- Phần 3. Khổ thơ thứ ba: Hình ảnh Bác Hồ và cảm nghĩ của nhà thơ.
- Phần 4. Khổ thơ cuối. Cảm xúc và ước nguyện của nhà thơ khi ra đi.
3. Ý nghĩa nhan đề
– “Viếng lăng Bác” là nhan đề ngắn gọn nhưng để lại ý nghĩa sâu sắc.
– “Viếng” – là hành động thăm hỏi, chia buồn khi có người qua đời.
– “Lăng Bác” là một địa danh ở Hà Nội.
=> Như vậy, trước hết nhan đề cho người đọc biết nhà thơ nhân ngày đất nước thống nhất đã ra thăm miền Bắc và viếng lăng Bác. Qua bài thơ, Viễn Phương cũng bày tỏ tình cảm kính trọng, kính yêu nhưng cũng đầy tiếc thương đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam.
Xem thêm Ý nghĩa nhan đề bài thơ Viếng lăng Bác
4. Thể thơ
Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác theo thể thơ tự do.
5. Mạch cảm xúc
Mạch cảm xúc chuyển động theo trình tự không gian và thời gian về thăm lăng Bác. Đầu tiên, trước khi vào lăng Bác, tác giả tập trung gợi hình ảnh quê hương. Tiếp đến, cảm nhận về dòng người nối đuôi nhau vào lăng viếng Bác, cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ về vị lãnh tụ kính yêu được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng: mặt trời, mặt trăng, bầu trời xanh. . Cuối cùng, khi sắp trở về miền Nam, tác giả bày tỏ nguyện vọng được ở mãi bên lăng Bác.
6. Nội dung
Bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện lòng thành kính và tình cảm sâu sắc của nhà thơ đối với Bác khi đến viếng lăng Bác.
7. Nghệ thuật
Bài thơ có giọng điệu trang trọng, tha thiết, nhiều ẩn dụ đẹp, gợi cảm, ngôn ngữ giản dị mà cô đúc.
Xem bài thơ Viếng Lăng Bác
III. Phân tích dàn ý về lăng Bác
(1) Mở bài
Giới thiệu nhà thơ Viễn Phương, bài thơ Viếng lăng Bác.
(2) Cơ thể
Một. Quang cảnh bên ngoài lăng Bác
Giới thiệu tác giả:
- “Con với Bác”: Cách xưng hô ngọt ngào, thân thương của người miền Nam.
- “viếng thăm”: xoa dịu nỗi đau nhưng vẫn không giấu được niềm xúc động trước cảnh tiễn biệt.
– Hình ảnh:
- “Hàng tre trong sương”: hình ảnh quen thuộc với người Việt Nam.
- “mưa bão”: thành ngữ ẩn dụ để chỉ sự gian khổ.
- “Dáng hàng”: hình ảnh ẩn dụ khẳng định tinh thần bất khuất, sức sống bền bỉ của dân tộc.
b. Hình ảnh đoàn người vào lăng viếng Bác và cảm nghĩ của nhà thơ
– Hai câu thơ đầu: “Ngày ngày nắng qua lăng/ Thấy trong lăng một vầng mặt trời đỏ lắm”.
- Sự vĩnh hằng của Bác, giống như sự tồn tại vĩnh cửu của mặt trời tự nhiên.
- Sự vĩ đại của Bác Hồ đã đem lại cuộc sống tự do cho dân tộc Việt Nam thoát khỏi đêm dài nô lệ.
– Hai câu thơ tiếp theo: “Ngày ngày dòng người đi trong tang tóc/ Khép hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
- Dòng người cứ thế nối tiếp nhau hàng ngày không dứt vào lăng Bác với tất cả lòng thành kính, tưởng nhớ.
- “Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ chỉ dòng người từ khắp mọi miền đất nước về viếng Bác.
c. Hình ảnh Bác Hồ và cảm xúc của nhà thơ
– “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”: Hình ảnh Bác nằm đó như đang say giấc.
– “Giữa vầng trăng sáng hiền hòa”: vẻ đẹp thanh thoát, phong thái ung dung, cao quý của Bác.
– Hình ảnh “trời xanh”: sự bất tử của Bác Hồ. Bầu trời xanh mãi ở trên đầu, cũng như Bác Hồ vẫn sống mãi với sông núi đất nước.
– “Sao nghe trong lòng nhói đau”: Dù Người vẫn sống mãi trong suy nghĩ của mỗi người dân nhưng không thể nào xóa nhòa nỗi đau vô hạn của cả dân tộc.
đ. Cảm xúc và ước nguyện của nhà thơ khi ra đi
– Tình cảm của nhà thơ khi trở vào Nam đối với Bác rất chân thành và xúc động. Mai xúc động nhìn Nam mà rơm rớm nước mắt.
– Câu thơ dường như diễn tả rất chân thành niềm tiếc thương vô hạn bị kìm nén cho đến phút chia tay và bật khóc.
– Trong tâm trạng nghẹn ngào, luyến tiếc ấy, nhà thơ dường như muốn được hoá thân để được ở bên người mãi mãi. Điệp ngữ “muốn làm” được nhắc đến ba lần cùng với những hình ảnh chim muông, hoa lá, tre trúc liên tiếp như thể hiện niềm mong mỏi tha thiết của nhà thơ mong Bác được bình yên và muốn báo đáp công ơn trời biển. của người.
=> Lời chúc của nhà thơ vừa chân thành vừa sâu sắc, đó cũng là tình cảm của hàng triệu người dân miền Nam trước khi rời lăng Bác sau khi vào viếng Người.
(3. Kết luận
Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Viếng lăng Bác.
IV. Video bài hát Viếng Lăng Bác
Sáng tác: Hoàng Hiệp, biểu diễn: Bảo Yến
Viếng Lăng Bác – Trọng Tấn [Audio]
Viếng lăng Bác là một trong những bài thơ đặc cắc của Viễn Phương. Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu đến bạn đọc những bài phân tích Viếng lăng Bác hay nhất, chúng ta cùng tham khảo nhé.
1. Dàn ý phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
Khổ thơ đầu tiên
– Tác giả mở đầu bằng đoạn thơ tự sự: “Con ở miền Nam ra thăm Bác”:
“Con với Bác” là cách xưng hô rất ngọt ngào, thân thương của người miền Nam. Nó thể hiện sự gần gũi và kính trọng Bác.
Con ở phương Nam, ngàn dặm xa xôi, vào đây mong gặp em. Không ngờ đất nước đã thống nhất, hai miền Nam Bắc đã sum họp trong một gia đình mà Bác không còn nữa.
Nhà thơ cố tình thay từ thăm bằng từ thăm để vơi đi nỗi đau nhưng vẫn không giấu được niềm xúc động trước cảnh chia tay.
Đây cũng là cảm xúc của người con từ chiến trường miền Nam sau bao năm mong mỏi được về thăm Bác.
– Hình ảnh đầu tiên mà tác giả nhìn thấy và ấn tượng đậm nét là hàng tre quanh lăng Bác: Nhìn trong sương thấy ngút ngàn hàng tre.
Hình ảnh “hàng tre trong sương” đã làm cho câu thơ vừa thực vừa ảo. Đến lăng Bác, nhà thơ bắt gặp một hình ảnh rất quen thuộc của làng quê Việt Nam: Cây tre đã trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam.
“Mưa bão” là một cách diễn đạt ẩn dụ để chỉ sự gian khổ. Nhưng dù gian khổ, những cây tre vẫn đứng thẳng hàng. Đây là hình ảnh ẩn dụ khẳng định tinh thần anh dũng, bất khuất của dân tộc.
Khổ thơ thứ hai
– Hai câu thơ đầu: “Ngày ngày nắng qua lăng/ Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
Hai câu thơ được tạo nên những hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi. Câu trên là hình ảnh thực, câu dưới là hình ảnh ẩn dụ.
Ví Bác như mặt trời là nói lên sự tồn tại vĩnh hằng của Bác, giống như sự tồn tại vĩnh hằng của mặt trời tự nhiên.
So sánh Bác như vầng thái dương nhằm thể hiện sự vĩ đại của Bác, người đã đem lại cuộc sống tự do cho dân tộc Việt Nam từ trong đêm dài nô lệ.
So sánh Bác Hồ là mặt trời đỏ trong lăng, đây là sáng tạo riêng của Viễn Phương, nó thể hiện lòng kính trọng của tác giả và nhân dân đối với Bác.
Ở hai câu thơ tiếp theo: Đó là hình ảnh những con người nối đuôi nhau không ngừng hàng ngày vào lăng Bác với tất cả lòng thành kính, hình ảnh đó như một vòng hoa. Hai từ này ngày ngày được lặp đi lặp lại trong câu thơ như tạo nên một cảm giác bất diệt.
Hình ảnh mọi người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như một vòng hoa. Cách so sánh này vừa phù hợp, vừa mới thể hiện lòng hiếu thảo, kính trọng của nhân dân đối với Bác Hồ.
“Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ chỉ thiếu nhi cả nước về đây viếng Bác như những bông hoa trong vườn Bác được Bác trồng, chăm sóc và đơm hoa, kết trái về đây để tỏ lòng thành kính với Bác.
Khổ thơ thứ ba
Khung cảnh và không khí tĩnh mịch như ngưng đọng cả thời gian và không gian trong lăng: “Bác nằm trong giấc ngủ êm đềm/Giữa vầng trăng sáng dịu hiền”
– Suốt đời Bác ăn không ngon, ngủ không yên khi đồng bào miền Nam còn bị quân xâm lược giày xéo. Nay miền Nam đã giải phóng, đất nước thống nhất, Bác đã đi xa. Nhà thơ muốn quên đi hiện thực đau thương ấy và mong đó chỉ là một giấc ngủ êm đềm.
Từ tình cảm kính trọng, ngưỡng mộ, ở khổ thơ thứ ba là những cảm xúc trầm ngâm và ước nguyện của nhà thơ. Hình ảnh Bác Hồ như vầng trăng sáng dịu hiền trong giấc ngủ yên bình là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp thanh tao, ung dung và phong thái cao cả của Bác. Bác vẫn đang sống cùng nhân dân Việt Nam, một đất nước thanh bình và tươi đẹp. Mạch cảm xúc của nhà thơ như lắng lại nhường chỗ cho nỗi buồn qua hai câu thơ: vẫn biết… trong lòng…
– Hình ảnh “trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ cho sự bất tử của Bác Hồ. Trên đầu luôn có bầu trời xanh, cũng như Bác Hồ vẫn sống mãi với sông núi của đất nước.
– Tuy nhiên, nhìn di hài Bác trong lăng, có cảm tưởng Bác đang trong giấc ngủ êm đềm thanh thản mà lòng vẫn đau đáu, mà sao con nghe nhói đau trong lòng! Dù đã hóa thân vào thiên nhiên, đất nước nhưng sự ra đi của Bác vẫn không thể xóa nhòa niềm tiếc thương vô hạn của cả dân tộc.
Khổ thơ cuối
Tình cảm của nhà thơ khi trở về miền Nam đối với Bác thật chân thành và cảm động. Mai về Nam mà nước mắt trong lòng.
– Câu thơ dường như diễn tả rất chân thành nỗi buồn vô hạn bị kìm nén cho đến lúc chia tay và bật khóc.
– Trong tâm trạng nghẹn ngào, nhớ nhung ấy, nhà thơ như muốn hoá thân để được ở bên bạn mãi mãi:
Muốn làm cây tre cho nơi.
– Lời Bác muốn làm được nhắc đến ba lần cùng với hình ảnh chim muông, hoa lá, lũy tre liên tiếp như thể hiện niềm mong mỏi tha thiết của nhà thơ mong Bác được yên nghỉ, muốn đền đáp công ơn trời biển. Lời chúc của nhà thơ vừa chân thành vừa sâu sắc, đó cũng là tình cảm của hàng triệu người dân miền Nam trước khi rời lăng Bác sau khi vào viếng Người.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
Xem thêm: Phân tích khổ 1, 2 bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
2. Phân tích Viếng lăng Bác hay nhất:
Sự mong chờ, mong mỏi của đồng bào miền Nam được Bác vào thăm đã không còn! Bác đã mãi mãi ra đi để lại bao tiếc thương trong lòng mỗi người con Nam Bộ. Viễn Phương – nhà thơ trẻ miền Nam – vinh dự được vào lăng viếng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân Nam Bộ bày tỏ cảm xúc của mình khi đứng trước vị cha già của dân tộc. Từ đáy lòng xúc động, Viễn Phương đã viết bài “Viếng lăng Bác”. Đây là một bài thơ gợi lên những cảm xúc sâu sắc nhất của tôi.
Cảm xúc đầu tiên em cảm nhận được từ bài thơ có lẽ là bởi bài thơ thể hiện tình cảm chân thành, giản dị của người dân Nam Bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói hộ Bác những mong mỏi, kỳ vọng.
Vô cùng xúc động, mở đầu bài thơ, tác giả viết:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre! Xanh xanh Việt Nam”
Tình cảm của nhà thơ chân thành và cũng rất gần gũi. Đối với người lính miền Nam, được vào thăm lăng Bác là một vinh dự lớn. Nhưng điều đó không làm giảm đi tình cảm kính yêu của tác giả đối với Bác Hồ. Lời thơ ấm áp tình người với cách gọi thân mật “cha con”. Bởi ai cũng là những người con trung thành của Bác, coi Bác như “cha, chú, anh”. Tình người bao la, giản dị, tình Tổ quốc dịu dàng, đằm thắm. Đoạn thơ tạo không khí ấm áp, gần gũi.
Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, một hình ảnh quen thuộc của đất nước để mở rộng bài thơ hơn. Xa hơn nhưng cũng gần hơn bao giờ hết. Nhắc đến hình ảnh cây tre ta nghĩ đến đất nước, đến con người Việt Nam với bao đức tính cao quý. Tre anh dũng trong chiến trận, tre mến yêu giúp nước, tre hy sinh cho muôn đời mai sau và tre cũng rất bất khuất:
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”
Cây tre đã bao công lao, chịu bao nắng mưa mà vẫn hiên ngang sừng sững giữa trời xanh, như dân tộc ta không bao giờ khuất phục trước quân xâm lược.
Theo chân đoàn người tác giả vào viếng lăng Bác, nhà thơ thấy:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”
“Mặt trời” đi ngang qua trên lăng là mặt trời của trái đất, nguồn sáng lớn nhất, sáng nhất và vĩnh cửu nhất thế gian. Nhưng mặt trời ấy còn nhìn thấy và nhận ra một mặt trời khác, một “‘mặt trời trong lăng’ rất đỏ. Mặt trời trên cao được nhân hóa, nhìn mặt trời trong lăng bằng con mắt của ông mặt trời. Một hình ảnh chan chứa niềm tôn kính đối với Bác vĩ đại Hồ Chí Minh.Bằng hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ đã so sánh Bác với mặt trời, Bác là mặt trời cách mạng đỏ rực sẽ mãi soi đường ta đi bằng sự nghiệp cách mạng cao cả của Bác.Đây là một nghệ thuật sáng tạo của tác giả.
Độc đáo hơn, nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác nữa để ca ngợi Bác:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
Hình ảnh những dòng người đi trong vòng hoa tưởng niệm không chỉ là hình ảnh hiện thực so sánh dòng người xếp hàng vào lăng Bác như những vòng hoa dài bất tận. Nó còn mang ý nghĩa tượng trưng: Đời các Bác đã đơm hoa kết trái dưới ánh sáng Bác Hồ. Những bông hoa tươi thắm ấy đang đến để dâng lên Ngài những gì tốt đẹp nhất. “Bảy mươi chín lễ vật mùa xuân” – đây là hình ảnh ẩn dụ. Con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời tươi đẹp như những mùa xuân, làm nên những mùa xuân cho đất nước, cho nhân dân.
Nhà thơ bước vào lăng thấy Bác đang nằm trong giấc ngủ êm đềm dưới ánh đèn dịu dàng. Ánh sáng nơi Bác nằm được nhà thơ miêu tả như ánh sáng của vầng trăng hiền:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Ánh sáng trong lăng gợi cho nhà thơ sự liên tưởng thú vị với “ánh trăng”. Tác giả đã thể hiện sự hiểu biết của mình về Bác qua mối liên hệ kì lạ ấy. Vì trăng và Bác từng là bạn tâm giao. Ánh trăng ngoài trời bao la đã từng đi vào thơ Bác trong tù, trên chiến trường, nay trăng cũng về ru Bác vào giấc ngủ. Với hình ảnh “vầng trăng sáng hiền” nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để so sánh với Bác Hồ. Đôi khi người ta như mặt trời ấm áp, đôi khi dịu dàng như vầng trăng rằm.
Đó cũng là biểu hiện của sự vĩ đại, chói lọi, cao cả của con người và sự nghiệp của Bác Hồ. Biết rằng Bác Hồ vẫn sống trong sự nghiệp cách mạng và lòng dân như bầu trời xanh muôn thuở trên cao. Nhưng nhà thơ vẫn không khỏi nhói đau trong lòng khi đứng trước xác người: “Sao tôi nghe nhói đau trong tim”. Nỗi đau ấy như ngàn mũi kim đâm vào trái tim đang thổn thức của tác giả. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
Vẫn đứng trong lăng Bác, nhưng khi nghĩ đến việc Bác phải xa rời, Viễn Phương lại thấy nao nao, không muốn dừng lại. Cảm xúc của nhà thơ trong thời gian trên luôn sâu nặng, đau đáu nhưng lúc này Viễn Phương không khỏi để cảm xúc tuôn trào theo dòng nước mắt, dâng cao và tha thiết nhất.
Chỉ nghĩ đến việc vào Nam tác giả cũng “rơi nước mắt”, lưu luyến khi chia tay, không muốn xa nơi Bác yên nghỉ, ở đoạn thơ này tác giả không sử dụng nghệ thuật gì, chỉ là điệp từ giản dị, một tình yêu sâu nặng từ trái tim nhưng khiến ta xúc động thì bài thơ càng giàu cảm xúc. Một cách nói không hoa mỹ, chân chất như người dân Nam Bộ nhưng trong đó chất chứa một tình yêu đau đáu không thể nói nên lời.
Tác giả thay mặt nhân dân Nam Bộ bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Câu văn giản dị ấy khiến người đọc hiểu và đồng cảm với nỗi lòng của Viễn Phương, bởi những lời ấy xuất phát từ hàng triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau như tác giả. Được ở gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng chúng em không bao giờ muốn xa Bác vì Bác ấm áp quá, bao la quá. Tâm nguyện chân thành của Viễn Phương cũng là tâm nguyện chung của những người đã hoặc chưa một lần được gặp Bác Hồ:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Từ “muốn làm” được lặp lại nhiều lần trong bài thơ thể hiện mong ước, nguyện vọng của tác giả. Hình ảnh cây tre hiện lên khép lại bài thơ một cách tài tình. Một mong ước chân thành của nhà thơ. Tác giả muốn là con chim hằng ngày hót cho Bác ngủ, là bông hoa tỏa hương thơm ngào ngạt, cùng những bông hoa khác tô điểm thêm cho nơi Bác yên nghỉ. Và hạnh phúc nhất khi được là cây tre trung thành túc trực bên Bác trong mỗi giấc ngủ. Cánh hoa ấy, tiếng chim hót, rặng tre chung thủy ấy đã cho Bác mãi mãi ngủ yên. Viễn Phương bày tỏ mong muốn cũng như mong ước của tất cả chúng ta là được ở gần Bác để lớn lên một chút:
“Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút.”
Đó là Bác của chúng tôi. Bác là người giàu tình yêu thương, giàu đức hi sinh, cuộc sống của anh rất bình dị. Đất nước ta mất Bác như mất đi người cha vĩ đại, người cha luôn dành cho nhân loại tình yêu thương vô bờ bến.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” giàu hình ảnh và cảm xúc, ít ai đọc bài thơ mà không cảm thấy xúc động trong lòng. Bằng việc sử dụng khéo léo các biện pháp tu từ một cách sáng tạo, tác giả đã thể hiện được tình cảm ngọt ngào, giản dị mà chân thành của mình đối với Bác Hồ. Nhà thơ đã gửi gắm tình cảm của mình đến người đọc chủ yếu bằng tình cảm của người dân Nam Bộ nói riêng và cả dân tộc nói chung. Chúng em, những cháu ngoan của Bác cũng nguyện như Viễn Phương làm cây tre trung thành, kết bông đẹp, tiếng chim hay, làm nghìn việc tốt dâng Người.
Xem thêm: Phân tích khổ 3, 4 bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
3. Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác đạt điểm cao:
Viễn Phương là nhà văn viết văn nghệ giải phóng miền Nam sớm nhất trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Chủ đề thơ ông là về lãnh tụ vĩ đại. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976 khi đất nước thống nhất, lăng Bác được khánh thành và tác giả được vào lăng viếng Bác. Đoạn thơ là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác, khi bước vào lăng Bác và cảm xúc trào dâng khi ra về.
Thơ Viễn Phương có giọng nhẹ nhàng giàu cảm xúc. Giọng điệu đó được thể hiện rất rõ trong bài xưng hô:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp Mưa sa đứng thẳng hàng
Mở đầu là cách xưng hô “con – Bác” rất thân mật như người trong nhà, giữa cha và con. Lời xưng hô ấy là lời chào giới thiệu một người con miền Nam ra thăm lăng Bác. Câu nói tránh “viếng lăng Bác” dường như sống mãi trong lòng Viễn Phương để giờ đây người con ở xa về thăm cha. Đến với lăng Bác, nhà thơ bắt gặp hình ảnh “hàng tre trong sương xanh” bốn mùa. Hàng tre ấy trồng quanh lăng Bác gợi cảm giác thân quen như trở về nhà. Tre là loài cây nhỏ bé, kiên cường không khuất phục trước bão giông. Nhìn hàng tre nhà thơ không khỏi xúc động “Ôi tre xanh Việt Nam”. Cảm xúc được thể hiện qua từ “ơi” và nghệ thuật ẩn dụ tre xanh xanh tượng trưng cho cả dân tộc Việt Nam quây quần bên lăng Bác.
Không chỉ nhìn thấy ngọn tre, Viễn Phương còn nhìn thấy hình ảnh mặt trời:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Từ “ngày” chỉ thời gian đều đặn như vòng quay hàng ngày khi mặt trời của thiên nhiên đem ánh sáng đến trái đất. Nắng cũng qua lăng sưởi ấm nơi Bác yên nghỉ. Nhìn mặt trời của thiên nhiên, nhà thơ liên tưởng đến “mặt trời trong lăng”, một hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ là nhà thơ muốn ca ngợi công lao to lớn của Bác đối với đất nước, với dân tộc. Có thể nói, cả cuộc đời Bác Hồ đã cống hiến cho dân tộc được đánh dấu bằng bảy mươi chín mùa xuân. Bởi vậy, dù đã đi xa nhưng hàng ngày người dân vẫn nhớ đến Bác cũng như hàng ngày thiếu nhi cả nước với những bộ trang phục đẹp đẽ chầm chậm tiến về Lăng Bác như một “ tràng hoa” nghệ thuật. Hình ảnh ẩn dụ dòng người với không khí trang nghiêm, thành kính đều hướng về lăng Bác với tấm lòng biết ơn, kính trọng.
Có thể nói, việc một người con ở miền Nam xa xôi được gặp người cha kính yêu của mình là niềm khao khát “Miền Nam mong Bác với cha” và nay niềm mong mỏi đó đã trở thành hiện thực. Bước vào lăng, cảm xúc của nhà thơ trào dâng khi nhìn thấy hình ảnh:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Không khí trong lăng thật yên tĩnh với hình ảnh Bác nằm trong tư thế ngủ yên bình. Cách nói ngầm ấy trong tâm trí nhà thơ vẫn còn sức sống. Nhìn Bác, nhà thơ không khỏi xúc động khi nghĩ về những năm tháng đất nước còn chiến tranh. Bác đã nhiều đêm mất ngủ “Bác không ngủ vì lo cho đất nước”. Nay đất nước thống nhất, Bác yên nghỉ. Người nằm đó được bao quanh bởi ánh trăng trong veo. Vầng trăng trên cao cũng vào lăng soi sáng nơi Người yên nghỉ. Dường như giữa con người và thiên nhiên luôn có sự hòa hợp, điều đó đã trở thành chủ đề trong thơ Bác, trở thành người bạn tâm giao. Hay vầng trăng kia là Bác là người có tâm hồn trong sáng, cao thượng. Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” so sánh Bác với trời cao đất rộng, nhà thơ muốn ca ngợi sự vĩ đại muôn đời của Bác như hóa thân vào sông núi, đất nước so với trời đất, sống mãi trong lòng Bác. Người. Cặp từ “còn biết – sao” tâm niệm luôn khẳng định Bác còn sống, nhưng trở về với thực tại khi Bác đã ra đi là một tổn thất to lớn cho dân tộc. Người đi mãi, khiến lòng người quặn thắt những nỗi đau khôn nguôi không thể nói nên lời.
Chính vì thế khi chân còn đặt trên mặt đất, khi nghĩ đến ngày mai trở về, nhà thơ bùi ngùi, xúc động, không nỡ ra đi. Dòng cảm xúc ấy rất tự nhiên, chân thành trào ra thành giọt nước mắt, nhà thơ bày tỏ ước nguyện:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Bài thơ đã thể hiện tình cảm của Viễn Phương nói riêng và của cả dân tộc nói chung đối với Bác Hồ. Qua đó, em yêu quý và tự hào về Bác Hồ. Em xin hứa sẽ học tập và làm tốt 5 điều Bác Hồ dạy để trở thành người công dân tốt.
Xem thêm: Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương
4. Phân tích bài Viếng lăng Bác ý nghĩa nhất:
Trong thơ văn ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều tác phẩm thơ hay và độc đáo. Tuy nhiên, không phải bài thơ nào viết về Bác cũng thể hiện được những xúc động nghẹn ngào như trong bài thơ Viếng Bác của nhà thơ Viễn Phương.
Không thể phủ nhận rằng bài thơ “Viếng Bác” là một trong những bài thơ thành công trong việc thể hiện tình cảm kính yêu, tiếc thương và lòng biết ơn vô hạn của Viễn Phương đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Hồ Chí Minh bằng ngôn ngữ lịch sự, trìu mến, giàu cảm xúc.
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Ngay từ những câu thơ đầu tiên, khi từ chiến trường miền Nam vào, nhà thơ Viễn Phương cũng đã mang theo bao tình cảm thiết tha của đồng bào, chiến sĩ vào Lăng viếng Bác Hồ kính yêu. Có thể nói đây cũng là cuộc hành hương của những người lính. Từ xa, nhà thơ đã nhìn thấy hàng tre ẩn hiện trong sương mờ trên quảng trường Ba Đình lịch sử. Khi sương trong câu thơ gợi không khí linh thiêng gợi nhớ về một chốn thần tiên xa xưa. Ấn tượng đầu tiên của người con miền Nam khi bước vào lăng Bác còn là lũy tre. Cây tre có dáng đứng cũng rất quen thuộc với chúng ta và đặc biệt cây tre còn có đặc điểm là thân đứng thẳng, sống ở những nơi đất bạc màu. Hình ảnh cây tre là biểu tượng cho đức tính cần cù, chịu khó của người nông dân Việt Nam.
Viễn Phương cũng thật tài tình khi cũng tả cảnh (ngoài) lăng Bác, nhà thơ lúc này thật tinh tế khi tạo ra những suy ngẫm sâu sắc về những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta. Với khổ thơ tiếp theo nói về Bác. Bác Hồ cũng là người con ưu tú của dân tộc và nói như Phạm Văn Đồng, Bác Hồ là tinh hoa, khí phách của dân tộc Việt Nam.
Tiếp theo là hai câu thơ song đối, tương ứng với hai hình ảnh mặt trời. Một mặt trời tự nhiên, rạng rỡ, vĩnh cửu. Như thường lệ, ngày nào mặt trời cũng đi ngang qua lăng và trong lăng cũng có một mặt trời rất đỏ – Bác Hồ. Câu thơ ẩn dụ đẹp và gợi nhiều ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Để có thể hòa vào “dòng người” vào viếng lăng Bác lúc này trong lòng nhà thơ bao xúc cảm, thành kính và trang nghiêm. Dòng người lúc này như nối tiếp nhau vào Lăng Bác như những bông hoa muôn màu muôn vẻ để thể hiện lòng biết ơn, kính trọng của nhân dân đối với Bác Hồ vĩ đại:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Viễn Phương thật tài tình khi đã dùng từ “đồng” cũng như chứa đựng nhiều cảm xúc, tình cảm. Nhà thơ Viễn Phương không nói “bảy mươi chín tuổi” mà nói “bảy mươi chín mùa xuân” có thể xem là một cách nói rất thi vị.
Tiếp đến khổ thơ thứ ba nói về sự bất tử của Bác Hồ. Bác vừa ngủ một giấc thật êm đềm trong khung cảnh thơ mộng. Tôi đã từng rất yêu trăng. Nhà thơ Viễn Phương với cảm nhận “Bác ngủ” bình yên giữa vầng trăng hiền. Khi nhìn Bác nằm ngủ, nhà thơ đau xót, xúc động. Người đọc khi đọc bài thơ “sao nghe nhói đau trong tim” diễn tả nỗi đau ấy, như thắt lại và xót xa đến cùng cực. Tác giả Viễn Phương dường như cũng có một lối viết súc tích, giàu chất thơ và ngôn từ để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc.
Ấn tượng nhất không thể không kể đến khổ thơ cuối thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi ra đi. Đồng thời cũng chất chứa nhiều hoài niệm, xót xa. Nhà thơ Viễn Phương cũng bày tỏ ước muốn được hóa thân thành “con chim biết hót”, ước được trở thành bông hoa thơm. Hơn hết, đó là mong muốn làm một cây tre trung thành mới để đền đáp công ơn của Người. Qua đây ta có được những câu thơ sâu lắng, những hình ảnh thơ đẹp, độc đáo hay đó là những cách thể hiện tình cảm vô cùng Nam Bộ. Thực ra, có thể đánh giá đây là những câu thơ chiếm ưu thế nhất trong bài thơ Viếng lăng Bác.
Bài thơ Viếng lăng Bác, một bài thơ ngắn mà ý thơ, hình ảnh thơ, cảm xúc thơ sâu lắng, đồng thời cũng có ý tứ súc tích, đẹp đẽ. Nhà thơ Viễn Phương đã chọn thể thơ tám chữ, mỗi khổ bốn câu, mỗi khổ bốn chữ – một sự cân đối, hài hòa để thể hiện một giọng thơ trang trọng, thành kính trước Bác. Đây thực sự là một bài thơ hay, một khúc ca vang dội về Bác Hồ và thể hiện tình cảm của chính nhà thơ đối với Bác Hồ.
TOP 21 bài Cảm nhận Viếng lăng Bác SIÊU HAY, kèm theo 3 dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy, sẽ giúp các em học sinh lớp 9 cảm nhận rõ tình cảm tha thiết, sự xót thương vô hạn mà nhà thơ Viễn Phương dành cho Bác Hồ kính yêu.
Bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương cũng là tình cảm thiết tha, chân thành của toàn thể những người con miền Nam khi lần đầu ra viếng lăng Bác. Để hiểu hơn về bài thơ, các bạn hãy cùng tham khảo bài viết dưới đây của Download.vn nhé:
Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương
Sơ đồ tư duy cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác
Dàn ý cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác
1. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Viễn Phương
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
2. Thân bài
a) Cảm xúc của tác giả trước cảnh quan bên ngoài lăng (khổ 1)
* Câu thơ thứ nhất như một lời thông báo giản dị mà chứa đựng nhiều tình cảm lớn lao.
- Cách xưng hô “Con – Bác”: Thể hiện sự gần gũi, thân thiết, không có khoảng cách.
- Tác giả dùng từ thay thế “thăm” không phải “viếng” làm vơi bớt đi nỗi đau đớn ẩn sâu trong đáy lòng mỗi người dân Việt Nam: Bác Hồ vẫn còn sống.
- Cụm từ “Con ở miền Nam” vừa thể hiện nỗi đau mất mát, vừa thể hiện niềm tự hào lớn lao: Miền Nam gian khổ mà anh dũng.
- Hình ảnh ấn tượng: “hàng tre” vừa có nghĩa thực (là loài cây quen thuộc của mỗi làng quê Việt Nam), vừa có nghĩa biểu tượng (hình ảnh con người Việt Nam với bao phẩm chất tốt đẹp…)
- Dùng từ cảm thán: “Ôi!” biểu thị niềm xúc động xen lẫn tự hào trước hình ảnh hàng tre.
b) Cảm xúc của nhà thơ trước hình ảnh dòng người chầm chậm vào lăng viếng Bác ( khổ 2).
– 2 câu thơ đầu: Cách dùng từ đặc sắc, giàu sức sáng tạo: cặp từ tả thực và ẩn dụ sóng đôi.
- “Mặt trời” thứ nhất: Là mặt trời từ thiên nhiên của tạo hóa.
- “Mặt trời” thứ 2: Là hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác.
- Chi tiết “rất đỏ” đã gợi lên một trái tim đầy yêu thương, nhiệt huyết vì nhân dân của Bác.
– 2 câu thơ sau:
- Điệp từ “ngày ngày”
- Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh tả thực gợi tả hằng ngày dòng người vào lăng viếng Bác trong niềm xúc động, tiếc thương.
- Hình ảnh “tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ: Tác giả ví dòng người dài như kết thành tràng hoa để dâng lên Người.
c) Cảm xúc của tác giả khi đứng trước di hài của Bác trong lăng (4 câu tiếp theo).
Tình cảm bị dồn nén bấy lâu nay đã trào dâng, thổn thức:
- Từ ngữ “giấc ngủ bình yên”: Chỉ là giấc ngủ bình thường, không phải giấc ngủ vĩnh viễn. Bình yên trong niềm yêu thương của con người và vạn vật.
- Hình ảnh “vầng trăng” được nhà thơ dùng để ví với Bác.
- Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” gợi lên những suy ngẫm về con người vĩ đại, cao cả, bất diệt.
- Câu thơ cuối là một sự thật: Bác đã ra đi mãi mãi. Đó là một nỗi đau vô hạn, xót thương. Dù lí trí đã không muốn tin đó là sự thật.
d) Cảm xúc của tác giả trước lúc sắp phải về miền Nam (khổ cuối).
- Lòng thương nhớ bấy lâu nay đã vỡ òa trong tiếng khóc nghẹn ngào. Đó là những giọt nước mắt của nhớ thương, lưu luyến không nỡ rời xa.
- Điệp từ “muốn làm” cùng các hình ảnh đứng sau đó đã tạo nên nhịp thơ dồn dập diễn tả tình cảm tha thiết, khát vọng trào dâng mãnh liệt và ước nguyện chân thành của nhà thơ và của tất cả mọi người.
- Hình ảnh cây tre được lặp lại ở câu thơ cuối mang thêm một ý nghĩa mới.
3. Kết Bài
- Bài thơ là nỗi lòng không chỉ của nhà thơ mà của hàng triệu trái tim nhân loại muốn thể hiện sự thành kính, biết ơn sâu sắc tới vị lãnh tụ kính yêu của cả nước.
Cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác ngắn gọn
Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được nhà thơ sáng tác năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra thắng lợi, đất nước thống nhất và lăng chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành. Bài thơ thể hiện lòng kính yêu và cả sự xót đau vô hạn của Viễn Phương và cả của nhân dân miền Nam đối với Bác kính yêu.
Khổ một là cảm xúc của nhà thơ khi nhìn thấy hình ảnh hàng tre:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ là một lời thông báo nhưng lại gợi ra nỗi xúc động của người con phương xa. Cách xưng hô “con-Bác” vừa thiêng liêng, thành kính vừa gần gũi, thân mật. Nỗi đau chia cắt nén lại trong chữ “thăm”, con từ miền Nam ra thăm nơi cha ở, thăm chỗ cha nằm. Lời thơ là tiếng nói trái tim chân thành, tha thiết như nén hương thơm, được Viễn Phương thành kính dâng lên người cha kính yêu.
Từ miền Nam, sau bao năm mong mỏi, bây giờ mới được ra viếng Bác, hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và ấn tượng đậm nét là hàng tre bát ngát, xanh xanh đứng thẳng hàng trong sương sớm:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.”
Cây tre là biểu tượng của dân tộc với sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường. Thán từ “Ôi” không chỉ thể hiện niềm xúc động, nghẹn ngào mà còn thể hiện sự ngạc nhiên đến bất ngờ của tác giả khi được gặp lại ở lăng Bác một hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê, của đất nước Việt Nam. Quanh lăng Bác, hàng tre vẫn đứng thẳng hàng canh giấc ngủ cho Người, cả dân tộc vẫn đoàn kết và quần tụ quanh người cha già kính yêu ngay cả khi Người đã nằm xuống.
Sang đến khổ thơ thứ 2, Viễn Phương đã bày tỏ cảm xúc về Bác, về những dòng người vào viếng Bác. Hai câu thơ đầu rực sáng với hai hình ảnh “Mặt trời”:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Vầng “mặt trời trong lăng rất đỏ” chính là Bác. Bác là vầng mặt trời của cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Người mang đến độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp ấy đã thể hiện công lao vĩ đại, không gì có thể sánh được của Bác với đất nước, con người Việt Nam. Sự xúc động và lòng biết ơn vô hạn đã giúp nhà thơ có sự sáng tạo độc đáo khi nhận ra dù đã nằm trong lăng, Bác vẫn là vầng mặt trời rất đỏ, một màu đỏ nồng nàn, rực rỡ tỏa ra từ trái tim, từ nhiệt huyết của Bác khiến mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ phải khâm phục, ngưỡng mộ.
Song hành với hình ảnh mặt đi qua trên lăng là hình ảnh dòng người đi trong thương nhớ. Dòng người vào trong lăng được đặt trong một không gian đặc biệt, không gian thương nhớ. Cấu trúc “Ngày ngày đi…” lặp lại nhấn mạnh sự song hành của mặt trời và dòng người như khẳng định một quy luật: mặt trời đi qua trên lăng còn dòng người đi trong thương nhớ. Nỗi nhớ thương người cha già kính yêu của cả dân tộc Việt Nam là vô tận. Dòng người được miêu tả bằng hình ảnh ẩn dụ rất đẹp, độc đáo “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Từ một hình ảnh thực, dòng người với vòng hoa đủ loại màu sắc, quần áo trông xa như một tràng hoa, tác giả đã đưa ra một hình ảnh tượng trưng đặc sắc. Mỗi con người là một bông hoa, cả dòng người kết thành một tràng hoa dâng lên Bác những gì đẹp nhất của mình. Hình ảnh ẩn dụ “Bảy mươi chín mùa xuân”, Viễn Phương khẳng định cuộc đời Bác như một mùa xuân vĩnh hằng.
Khổ thơ thứ ba là cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Hai câu thơ cân đối, trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng và yên tĩnh trong lăng. Không gian và thời gian ngưng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Bác đang ngủ trong một giấc ngủ bình yên và thanh thản. Gam màu của mạch thơ như chói lọi và rực rỡ của khổ thơ trên đã chuyển thành một gam màu trong sáng, tuyệt đẹp, dịu nhẹ: vầng trăng sáng dịu hiền nâng niu giấc ngủ bình yên ấy. Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ gợi về tâm hồn thi sĩ cao đẹp và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của nhà thơ Hồ Chí Minh.
Niềm xúc động thành kính và nỗi đau xót khôn nguôi của tác giả được thể hiện sâu sắc ở hai câu thơ:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Dù vẫn tin trời xanh là bất diệt nhưng vẫn đau đớn về sự ra đi của Bác. Lí trí vẫn khẳng định: “Bác sống như trời đất của ta” (Tố Hữu) mà vẫn nghe thấy đau nhói ở trong tim. Câu thơ cuối cùng trực tiếp thể hiện nỗi đau xót khôn nguôi của người trước một mất mát không gì có thể bù đắp được.
Khổ thơ cuối cùng là nguyện ước của tác giả, nguyện ước được ở mãi mãi bên Bác. “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”, câu thơ có cách diễn đạt chân thành, mộc mạc của người Nam Bộ. “Mai về” có nghĩa là chưa về vậy mà đã thấy thương, thấy nhớ, thấy lưu luyến chẳng muốn xa rời. Càng không muốn chia xa thì nguyện ước được ở bên Bác càng mãnh liệt:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Tác giả gửi gắm lòng mình nhập vào cảnh vật ở lăng Bác. Ước mong giản dị, nhỏ bé nhưng đó là nguyện ước được sống, được cống hiến mình cho Bác, cho dân tộc. Điệp ngữ “muốn làm” cùng với nhịp điệu dồn dập ở câu thơ cuối đã khẳng định nỗi niềm tha thiết và nguyện ước chân thành, mãnh liệt, cháy bỏng của nhà thơ. Hình ảnh cây tre ở cuối bài tạo nên kết cấu đầu cuối tương xứng. Ước muốn được làm cây tre trung hiếu bên lăng Bác là ước muốn cao đẹp nhất, ý nghĩa nhất trong những ước nguyện được hóa thân của nhà thơ. Cây tre trung hiếu là cây tre trung với Đảng, hiếu với dân. Tình cảm thủy chung, ân nghĩa làm âm hưởng câu thơ thêm tha thiết, lắng đọng mãi mãi trong dư âm của bài thơ.
“Viếng lăng Bác” là bài thơ đẹp và hay của nhà thơ. Bài thơ thể hiện tấm lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ trong một lần được vào thăm lăng Bác. Đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam, của dân tộc Việt Nam dành cho người cha già kính yêu. Với những nét đặc sắc riêng về nghệ thuật và nội dung, bài thơ đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc.
Cảm nhận về bài thơ Viếng lăng Bác hay nhất
Mỗi tác giả đều có những xúc cảm riêng khi viết về Hồ Chí Minh, là xót xa, nuối tiếc, tự hào, ngưỡng mộ cho một đời người vì dân, vì nước. Nhà thơ Viễn Phương lần đầu tiên từ miền Nam ra thăm lăng Bác cũng đã giật mình nhận ra có những thay đổi trong chính cảm xúc của mình khi nhìn thấy Bác đang ngủ yên lành. Bài thơ “Viếng lăng Bác” là lòng thành kính, ngưỡng mộ, biết ơn của nhà thơ dành cho vị lãnh tụ vĩ đại.
Năm 1976, đất nước thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành; tác giả theo đoàn từ Nam ra viếng lăng Bác. Cảm xúc của một người con lần đầu tiên ra thăm lăng Bác thực sự dồn nén trong trái tim của tác giả. Bài thơ như một lời tri ân, lòng thành kính của một đứa con phương xa được trở về thăm người. Có lẽ những câu thơ này như nói hộ tấm lòng của rất nhiều người, rất nhiều con dân Việt Nam được ra thăm lăng Bác.
Xuyên suốt bài thơ chính là mạch cảm xúc rưng rưng, xúc động, không kìm nổi lòng mình khi đứng trước một người anh hùng dân tộc. Bài thơ được mở đầu như một tiếng reo vui:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Một tiếng reo vui nhẹ nhàng, một tiếng “con” chân thành và sâu sắc của một người con từ phương xa. Câu thơ trở nên mềm mại, cuốn hút, chan chứa tình cảm. Một hành trình từ miền Nam ra tận miền Bắc để chỉ được nhìn ngắm Hồ Chí Minh một lần. Mặc dù Bác Hồ đã không còn nữa nhưng nhà thơ không dùng từ “viếng” mà lại dùng từ “thăm” rất nhẹ nhàng, tình cảm. Điều này cho thấy rằng mặc dù Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ nhưng lại rất gần gũi, thân thiết với nhân dân. Người đọc cảm nhận được rằng dường như Bác Hồ vẫn còn sống mãi, chỉ là Bác đang ngủ một giấc ngủ thật lâu, thật dài.
Khung cảnh hiện ra trước mắt khi nhà thơ đến đây là hàng tre “bát ngát”. Tre là hình ảnh thân thuộc, gần gũi với đất nước Việt Nam, biểu tượng cho sự dẻo dai, kiên cường, tinh thần không khuất phục của cả dân tộc ta. Mặc dù bão táp mưa sa nhưng hàng tre vẫn kiên cường, hiên ngang và bất khuất như chính tinh thần quật cường của dân tộc ta.
Viễn Phương mang một trái tim yêu thương và ngưỡng mộ với chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông đã mượn hình ảnh “mặt trời” biểu tượng cho Bác Hồ vĩ đại, luôn sống mãi với đất nước:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Rõ ràng hình ảnh “mặt trời” ở hai câu thơ hoàn toàn có ý nghĩa khác nhau. Một mặt trời thực của thiên nhiên, một mặt trời mang giá trị ẩn dụ, tượng trưng cho người cha già dân tộc. Phép ẩn dụ này đã làm tăng lên tính biểu cảm, phần nào làm sắc nét hơn tình cảm thương yêu, trân trọng mà Viễn Phương dành cho Người. Mặt trời luôn tồn tại để soi sáng nhân gian cũng như Hồ Chí Minh còn sống mãi trong lòng dân.
Hòa vào dòng người viếng thăm Bác, Viễn Phương xúc động nghẹn ngào:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Đời người hữu hạn, thời gian vô hạn. Sự ra đi của Người để lại muôn vàn tiếc thương cho dân tộc. Niềm thương nhớ ấy kết thành những “tràng hoa” dâng Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” chính là bảy mươi chín năm Người sống và cống hiến cho dân tộc. Hồ Chí Minh chính là mùa xuân lớn của đất nước ta, cho những kiếp người lầm than trong xã hội.
Tác giả được nhìn ngắm Bác Hồ, có một niềm xúc động sâu sắc:
Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng trong dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác vẫn nằm đây, giữa thủ đô đầy nắng, giữa hàng triệu trái tim của dân tộc đang hướng về Người. Nét “dịu hiền” trên khuôn mặt người chính là tượng trưng cho những gì cao đẹp, thanh khiết nhất của một cuộc đời. Dù nỗi đau còn đó, mất mát còn đó nhưng đất nước luôn nhớ đến người.
Có lẽ khổ thơ cuối cùng người đọc sẽ bần thần trước lời nguyện ước của Viễn Phương:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Những vẫn thơ chân chất, bình dị này khiến cho người đọc “trào nước mắt”. Giây phút tác giả sắp rời xa Người trở về với miền Nam là giây phút ngưng lại nhiều cảm xúc nhất. Điệp từ “muốn” dường như nhấn mạnh hơn nữa khát khao, ước vọng của tác giả được ở cạnh Bác Hồ. Những ước muốn bình dị, mộc mạc nhưng chan chứa tình cảm.
Thật vậy, bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương khiến người đọc không cầm được nước mắt vì tình cảm của một người con dành cho Bác. Qua đó thấy được vị trí của Bác Hồ trong lòng dân quan trọng như thế nào.
……
Bình luận bài thơ Viếng lăng Bác
Trong những ngày đất nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam sắp đến thắng lợi hoàn toàn, nhà thơ Viễn Phương được ra Bắc viếng lăng Bác. Trước khi chia tay, nhà thơ đã để lại một bài thơ bày tỏ niềm cảm xúc sâu xa, tình yêu thương vô hạn và lòng cảm phục, tôn kính của mình đối với Bác Hồ vĩ đại – người từng lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Đoạn thơ mở đầu gợi ra cảnh tượng thiêng liêng, thành kính. Tác giả xưng”con”- đứa con bao năm xa cách nay mới được trở về đứng trước lăng mộ của vị cha già dân tộc. Cách xưng hô đó còn gợi lên một tình cảm ấm áp gần gũi- tình cảm trong gia đình. Tình cảm gần gũi ấm áp đó còn được thể hiện qua hình ảnh” hàng tre bát ngát” trong sương. Hàng tre quen thuộc biết bao. Từ bao đời nay tre vẫn được xem là bản lĩnh, cốt cách con người Việt Nam. Một hình ảnh thật có ý nghĩa.
Tác giả tiếp tục mạch suy tưởng khi đứng trước lăng Người:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ,
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của vũ trụ, của thiên nhiên. Mặt trời soi sáng tất cả thế gian. Mặt trời thượng tượng trưng cho chân lý. Dưới ánh mặt trời, mọi vật, mọi việc đều sáng rỏ. Chỉ mặt trời đỏ mới nhìn và “thấy mặt trời trong lăng rất đỏ”. “Mặt trời trong lăng” chính là hình ảnh Bác Hồ vĩ đại với trái tim rực đỏ. Trái tim ấy, mặt trời ấy mãi mãi soi sáng cho dân tộc Việt nam, mặt trời thiên nhiên, mặt trời vũ trụ được nhân hoá thể hiện niềm cảm phục của nhà thơ đối với sự nghiệp, con người, cuộc đời của Bác. Nhà thơ còn sáng tạo hình ảnh dòng người kết thành “tràng hoa” dâng bảy mươi chín mùa xuân để thể hiện tấm lòng nhân dân cả nước hướng về Bác.
Khi vào trong lăng tác giả lại tiếp tục suy tưởng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Với dân tộc Việt Nam, Bác Hồ không bao giờ mất, Bác vẫn sống. Nằm trong lăng chỉ là giây phút nghỉ ngơi của Bác. Bác ngủ bình yên thanh thản bới Bác đã cống hiến tất cả cuộc đời mình cho đất nước, cho dân tộc. Bác đang nằm “giữa một vầng trăng sáng dịu hiền. Đây cũng là hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng sáng dịu hiền” chính là tấm lòng của nhân dân đối với Bác. Tác giả bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn đối với Bác: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. Vẫn biết Bác không bao giờ mất nhưng sự thật là sự thật! Bác đã vĩnh viễn ra đi. Cái “đau nhói trong tim” không chỉ là nỗi đau của riêng nhà thơ mà là nỗi đau của tất cả mọi người.
Tác giả chia tay Bác trong niềm cảm xúc dâng trào:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng…
Viễn Phương bộc lộ một cách thành thực ý nghĩ, tình cảm của mình đối với Bác. Đó là phong cách của đồng bào Nam Bộ: rõ ràng, dứt khoát. Đó cũng là tình cảm của nhân dân miền Nam đối với Bác. Ước nguyện của tác giả hết sức giản dị mà sâu lắng: muốn làm con chim, muốn làm đoá hoa, muốn làm cây tre. Ước nguyện ấy thật chân thành và cảm động. Đó là sự vấn vương lưu luyến của tất cả những ai đã có dịp viếng lăng Người.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh hàng tre, kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre hiền lành, quen thuộc. Nhưng đây cũng là một lời hứa của tác giả trước an linh của Bác: luôn giữ mãi cốt cách, phẩm chất của người Việt Nam!
Viếng lăng Bác của Viễn Phương vừa giàu hình ảnh, vừa giàu trữ tình đằm thắm. Bài thơ đã thể hiện một cách chân thành sâu sắc tình cảm của tác giả, của đồng bào miền Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu. Viếng lăng Bác đã được phổ nhạc trở thành một trong những bài hát được nhân dân cả nước yêu thích.
Cảm nhận của em về bài thơ Viếng lăng Bác
Chiến tranh qua đi đã gần được một thế kỉ, ấy vậy mà mỗi khi nhắc lại, chúng ta vẫn không khỏi đau xót trước những nỗi mất mát, trước những hi sinh của thế hệ đi trước để bảo vệ độc lập, tự do. Trong số những nỗi mất mát của chiến tranh, có sự ra đi của các anh hùng, có sự rời bỏ cuộc sống của những người nông dân áo vải…. nhưng không phải những nỗi đau của chiến tranh mới là đau đớn nhất. Khi chiến tranh kết thúc, chúng ta còn phải chịu một nỗi đau vô cùng lớn, đó là sự ra đi của Bác Hồ – vị lãnh tụ kính yêu của mỗi người dân Việt Nam. Dành cả cuộc đời để giành lấy độc lập, tự do cho đất nước, Người cũng đến lúc phải từ biệt trần thế. Bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương đã thay lời mỗi con dân của Bác, nói lên nỗi đau xót, thương nhớ khôn nguôi dành cho Người.
Ta cảm nhận ở nhà thơ trước hết là tấm lòng thành kính, biết ơn của một người con chưa từng một lần được nhìn thấy Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Chiến tranh kết thúc, hòa bình được lập lại ở miền Nam, năm 1976, nhà thơ Viễn Phương cùng với đồng bào miền Nam đã có dịp được ra Hà Nội viếng Bác. Tác giả như một người con xa nhà về thăm người cha của mình. Nhà thơ bộc lộ nỗi xúc động nghẹn ngào khi chưa kịp cảm ơn, chưa kịp thể hiện tấm lòng thành kính trước công ơn của Bác mà Bác đã ra đi mất rồi. Nhà thơ sử dụng hình ảnh “hàng tre” đã nói lên hình ảnh của mỗi người dân Việt Nam kiên cường, bất khuất và ngay thẳng. Ta cảm nhận được thái độ vô cùng tự hào vì là một người dân Việt Nam của tác giả. Nhà thơ cũng như bao người khác, đều biết ơn Hồ Chủ Tịch kính yêu!
Từ tấm lòng thành kính, sự biết ơn dành cho Người, tác giả còn thể hiện nỗi đau xót, xót thương trước sự ra đi của Bác:
“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Hình ảnh Bác đang nằm ngủ say giữa “một vầng trăng sáng dịu hiền” cho thấy tâm hồn cao đẹp, cho thấy sự hiền dịu của Người. Nhà thơ đau xót, cảm thấy mất mát vô cùng: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Động từ “nhói” cho thấy sự bật ra của cảm xúc, nhà thơ không thể kìm nén được nữa, từng cơn đau cứ quặn lên trong tim. Dù tác giả biết rằng, Bác ra đi những vẫn ở mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam nhưng nhà thơ vẫn không giấu nổi sự xúc động của mình. Phải là một người vô cùng yêu thương, kính trọng Người thì mới có thể có những cảm xúc, những nỗi đau lớn như vậy. Ta thấy ở tác giả tấm lòng đối với Bác, cũng như tấm lòng của cả miền Nam.
Nhưng xúc động nhất có lẽ là ở khổ thơ cuối, khi nhà thơ thể hiện ước muốn cháy bỏng cùng với tâm nguyện được cống hiến cho dân tộc, cho đất nước:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Những giọt nước mắt của tác giả là những giọt nước mắt của sự đau xót, của sự lưu luyến khi vừa mới tới thăm Người được một chút thôi, giờ đã phải rời xa rồi. Trở lại miền Nam là thực tại, không nỡ rời xa là ý muốn trong tâm tưởng của nhà thơ. Để quên đi thực tại đau xót này, nhà thơ đã tự nhủ với lòng mình, đã bộc lộ mong ước được hóa thân vào những cảnh vật quanh lăng Bác để được mãi mãi ở bên Người. Điệp từ “Muốn làm” cho thấy ước muốn mãnh liệt, cháy bỏng của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim để hót quanh lăng Bác mỗi sớm mai, muốn làm đóa hoa tô điểm thêm cho cảnh vật quanh lăng, tỏa hương thơm ngát…. và muốn làm cây tre để trung hiếu với Người:
“Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Hình ảnh cây tre được tác giả sử dụng rất khéo léo, xuất hiện ở đầu bài thơ và quay lại ở cuối bài thơ. Kết cấu này tạo ra tính biểu tượng cho hình ảnh cây tre, vừa là biểu tượng cho con người Việt Nam, vừa nói lên tấm lòng của tác giả đối với Người. Xúc động biết bao trước tình cảm của nhà thơ đối với Bác!
Là một người dân Việt Nam sống trong thời buổi hiện đại, khi chiến tranh đã kết thúc, dù ta không thể hiểu được hoàn cảnh và những khó khăn trước kia nhưng vẫn cảm thấy được công lao to lớn của Bác dành cho đất nước qua những lời thơ của nhà thơ Viễn Phương. Ông thực sự đã viết rất hay, mạch cảm xúc tự nhiên, lắng đọng theo trình tự vào thăm lăng Bác, qua đó gieo vào lòng người đọc sự xúc động, tình cảm mến yêu dành cho cả Hồ Chủ tịch và cả những người con dân miền Nam như tác giả.
Đọc bài thơ Viếng lăng Bác, ta hiểu được lí do tại sao mà bài thơ được phổ thành nhạc sau này. Đó chính là bởi vì những cảm xúc được cất lên từ tấm lòng chân thành của người viết, từ sự vĩ đại, cao cả của Bác Hồ kính yêu…
Suy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác
Mùa xuân năm 1975 là mùa xuân đáng nhớ nhất của đất nước ta. Sau hơn 80 năm kháng chiến chống Pháp và 20 năm kháng chiến chống Mỹ, quân và dân ta đã giành được độc lập, tự do, thống nhất hai miền Nam Bắc. Trong giây phút vẻ vang đó, đồng bào ta nhớ đến người Cha già của dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân loại – Hồ Chí Minh. Bất cứ ai cũng muốn được một lần đến viếng thăm Bác, kể cho người nghe những thắng lợi mà chúng ta đạt được.
Viễn Phương, một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mỹ cứu nước, đã có dịp từ miền Nam ra Hà Nội viếng thăm lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1976. Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời, ghi lại những cảm xúc chân thành nhất của nhà thơ lúc bấy giờ, đồng thời là những dòng cảm xúc của nhân dân miền Nam.
Khổ thơ đầu tiên là lời bộc bạch của nhà thơ khi đặt chân lên thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, đặt chân đến nơi Bác Hồ đang yên nghỉ:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Lời thơ bình dị là lời nhà thơ nói với Bác, “ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Câu thơ toát lên sự tự hào, xúc động đang trào dâng trong lòng của người thi sĩ. Rằng đồng bào miền Nam đã đứng dậy đập tan mọi xiềng xích của bọn cướp nước và lũ bán nước. Giờ đây, những người con miền Nam đã về thăm Bác.
Cặp đại từ “con – Bác” vừa thể hiện sự kính trọng vừa gần gũi, thân thiết. Vì Hồ Chí Minh chính là người Cha của người dân Việt Nam. Biện pháp nói giảm nói tránh “thăm” giúp giảm đi sự buồn thương, mất mát, tựa hồ như đây là một cuộc đoàn tụ, sum họp chan chứa yêu thương. Trong khung cảnh sương mờ của một sáng mùa thu, nhà thơ phải thốt lên khi thấy hàng tre bát ngát “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”.
Bức tranh một miền quê Việt yên bình, dân giã được vẽ nên, tuyệt đẹp. Cây tre là biểu trưng cho con người, tinh thần, cốt cách con người Việt Nam. Bất cứ khi nào, bất kể ở đâu những con người ấy luôn kiên cường, bất khuất, ngay thẳng, trung trực, vượt qua mọi chông gai. Hình ảnh nhân hóa “đứng thẳng hàng” như càng khẳng định thêm điều đó. Chuyến đi “thăm” lăng Bác của nhà thơ giống như một chuyến đi tìm về cội nguồn dân tộc, có truyền thống tốt đẹp, biểu tượng dân tộc luôn hiện hữu.
Trước lăng Bác không phải những gì tráng lệ, rực rỡ, chỉ là hình ảnh cây tre bình dị, thân thuộc. Hàng tre giống một đoàn vệ binh đang canh gác cho giấc ngủ của Bác, cũng là cúi chào đoàn người từ từ tiến vào lăng bằng tất cả lòng thành kính:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Viễn Phương đưa ra hai hình tượng sóng đôi giữa thực tế “mặt trời đi qua trên lăng” và hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng”. Mặt trời là nguồn sáng duy nhất của Trái Đất, cung cấp nhiệt và là nguồn sống của nhân loại, đặc biệt mặt trời chỉ có một mà thôi. Vậy mà ở đây có hẳn hai mặt trời? Mặt trời còn lại chính là vị Chủ tịch kính yêu Hồ Chí Minh.
Người chính là mặt trời chân lý, mang lại ánh sáng cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Người đã lãnh đạo cuộc cách mạng của nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuối cùng là giải phóng đất nước, thống nhất hai miền.
Câu thơ mang dáng vẻ sôi nổi, bật lên sắc “đỏ” tràn đầy sức sống, chứa chan lòng thành kính gửi đến Bác. Hai câu thơ tiếp chùng xuống, trầm mặc bộc lộ không khí của đoàn người đang tiến vào lăng. Họ đến đây mang trong mình lòng kính yêu vô bờ và nỗi tiếc thương khi Bác mất đi.
Điệp từ “ngày ngày” như khẳng định chân lý rằng tình cảm mà nhân dân gửi đến bác là vô hạn, luôn luôn tồn tại, cũng như mặt trời kia vẫn mọc – lặn đều đặn hàng ngày. Tràng hoa đó không là tràng hoa kết từ những loài hoa bình thường. Đó là tràng hoa của đời được kết thành từ dòng người vô tận dâng lên Bác. Dưới ánh sáng của Bác, những bông hoa đẹp nhất đã nở. Bác chính là nguồn sống, là mùa xuân của đất nước, con người “bảy mươi chín mùa xuân.”
Dòng người từ từ tiến vào nơi Bác năm, nơi chan hòa ánh trăng hiền dịu:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.
Dẫu biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác đang nằm ở đó, giống như đang chìm trong giấc ngủ yên bình, thanh thản “giấc ngủ bình yên”. Lại một lần nữa nhà thơ sử dụng bút pháp nói giảm nói tránh để kìm nén lại nỗi tiếc thương trong lòng. Hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền tạo nên khung cảnh thơ vừa lãng mạn vừa hiện thực. Người Cha già dân tộc tỏa ra sự ấm áp, bình dị và giản đơn trong con người, cốt cách. Vầng trán Bác rộng lớn, êm đềm, mãn nguyện với những thành tựu mà nhân dân đạt được, “có cơm ăn áo mặc”, “được tự do”, “được học hành”.
Thế nhưng, đứng trước Bác, nhà thơ không thể kìm nén được sự xúc động: “nghe nhói ở trong tim”. Ngày Bác ra đi là ngày mà đồng bào ta chịu sự mất mát lớn nhất về tinh thần, tiếc thương vô cùng. Mặc dù, đó là quy luật của tạo hóa, và Bác dẫu đã mất nhưng vẫn còn sống mãi trong tâm trí, trong lòng người dân Việt “mãi mãi”.
Cuộc sum họp nào rồi cũng đến phút chia ly, đứng trước lăng Bác nghĩ đến phút xa rời, nhà thơ Viễn Phương không khỏi xúc động:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Cảm xúc dâng trào trong giây phút trở về miền Nam thật tự nhiên, xuất phát từ tình yêu gửi đến Bác: “thương trào nước mắt”. Tình thương cứ thế nghẹn ngào, hóa thành nước mắt trào dâng, không thể nào ngăn lại được. Thương nên nhà thơ càng khao khát được ở gần Bác, được hóa thân thành cảnh vật xung quanh lăng. Điệp từ “muốn” tạo âm hưởng quyết liệt, nhấn mạnh hơn nữa mong muốn trong lòng Viễn Phương.
Ông ước được làm “con chim hót quanh lăng”, “đóa hoa tỏa hương”, “cây tre trung hiếu”. Nhưng có lẽ, ước mong lớn nhất chính là được tiếp tục đi theo con đường cách mạng chân lý của Bác, được làm “cây tre trung hiếu”. Cây tre đó là hóa thân của nhân cách, tâm hồn Việt, ngay thẳng, chính trực, kiên cường, trung với Đảng, hiếu với dân. Bài thơ mang âm hưởng buồn thương nhưng lại vút lên ở câu kết. Một lời hứa, lời cam kết sẽ tiếp tục cống hiến, hy sinh vì đất nước, nhân dân của nhà thơ.
Cùng với phong cách thơ chân thành, giàu cảm xúc, nền nã, thì thầm, bâng khuâng nhưng không bi lụy, Viễn Phương đã mang đến cho người đọc một chuyến viếng thăm trên dòng cảm xúc chân thật nhất. Thơ bảy chữ mang âm hưởng lãng mạn pha lẫn hiện thực, hình ảnh thơ linh hoạt cùng các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa làm tăng thêm giá trị nội dung của bài thơ.
Đúng như Viễn Phương đã chia sẻ cùng bạn đọc, bài thơ thật giản dị: “Bởi tôi nghĩ, Bác của chúng ta vốn rất giản dị”. Giản dị ở câu thơ, lời thơ, giản dị trong cả những suy nghĩ, ước mong. Giản dị, tự nhiên nhưng vẫn vô cùng sâu sắc. Bởi lẽ “Viếng lăng Bác” là kết tinh của dòng cảm xúc chân thành, mãnh liệt của nhà thơ trong chuyến đi thăm lăng Bác. Đó còn là tiếng lòng của người dân miền Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. “Viếng lăng Bác” thực sự là lời tưởng niệm chân thành đến với vị cha già dân tộc.
Khép lại những trang thơ, ta như thấy từng đoàn người kính cẩn, nghiêng mình vào viếng Bác mang theo hành trang là lòng kính yêu vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Cảm xúc của Viễn Phương cũng là cảm xúc của tất thảy người dân miền Nam và người dân Việt nói chung. Hy vọng rằng, sau khi học bài thơ này, các em có thể nêu suy nghĩ của em về bài thơ Viếng lăng Bác bằng tất cả cảm nhận chân thành nhất.
Cảm nhận bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương
Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, giàu chất mộng mơ ngay trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến trường. Viếng lăng Bác là tác phẩm tiêu biểu của viễn Phương giai đoạn sau 1975.
Bài thơ Viếng lăng Bác được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam, đất nước vừa được thống nhất. Đó cũng là khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của nhân dân cả nước là được đến viếng lăng Bác. Tác giả là một người con của miền Nam, suốt ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cũng như đồng bào và chiến sĩ miền Nam,nhà thơ mong mỏi được ra thăm Bác và chỉ đến lúc này, khi đất nước đã thống nhất, ông mới có thể thực hiện được ước nguyện ấy. Tình cảm đối với Bác trở thành nguồn cảm hứng để ông sáng tác bài thơ này.
Bài thơ được chia làm 4 phần tương ứng với 4 khổ thơ thể hiện mạch vận động của cảm xúc trong bài theo trình tự của một cuộc viếng thăm, thời gian kết hợp với không gian. Cảm xúc bao trùm trọn vẹn bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác.
Cảm xúc của một người con đã đi từ một nơi rất xa cả về không gian và thời gian, giờ đây giờ phút được trở về bên Bác đã được diễn tả sâu sắc trong khổ thơ này:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Câu thơ mở đầu như một lời thông báo ngắn gọn, lời lẽ giản dị nhưng chứa đựng trong nó biết bao điều sâu xa,. Nhà thơ nói mình ở miền Nam, ở tuyến đầu của Tổ quốc, ở nơi máu đổ suốt mấy chục năm trời. Như vậy, không đơn giản là chuyên đi thăm công trình kiến trúc, không chỉ chiêm ngưỡng trước di hài một vĩ nhân mà đó là cây tìm về cội, lá tìm về cành, máu chảy về tim, sông trở về nguồn. Đó là cuộc trở về để báo công với Bác, để được Bác ôm vào lòng và ngợi khen.
Nhà thơ xưng “con” và chữ “con” ở đầu dòng thơ, đầu bài thơ. Trong ngôn từ của nhân loại không có một chữ nào lại xúc động và sâu nặng bằng tiếng “con”. Cách xưng hô này thật gần gũi, thật thân thiết, ấm áp tình thân thương mà vẫn rất mực thành kính, thiêng liêng. Đồng thời, cũng diễn tả tâm trạng xúc động của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm xa cách.
Tác giả sử dụng từ “thăm” thay cho từ “viếng”. “Viếng”: là đến chia buồn với thân nhân người chết. “Thăm”: là gặp gỡ, trò chuyện với người đang sống.
Cách nói giảm, nói tránh có vai trò làm giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát. Qua đó, nhà thơ muốn khẳng định Bác vẫn còn mãi trong trái tim nhân dân miền Nam, trong lòng dân tộc. Đồng thời gợi sự thân mật, gần gũi: Con về thăm cha – thăm người thân ruột thịt, thăm chỗ Bác nằm, thăm nơi Bác ở để thỏa lòng khát khao mong nhớ bấy lâu.
Câu thơ không có một dụng công nghệ thuật nào nhưng lại vô cùng gợi cảm, dồn nén biết bao cảm xúc. Cách xưng hô và cách dùng từ của Viễn Phương giúp cho người đọc cảm nhận được tình cảm xúc động, nhớ thương của một người con đối với cha. Đó không chỉ là tình cảm riêng của nhà thơ mà còn là tình cảm chung của dân tộc Việt Nam. Thế hệ này tiếp nối thế hệ khác song tất cả đều có chung một tình cảm như thế với Bác Hồ kính yêu.
Sự xuất hiện của hàng tre trong thơ Viễn Phương không chỉ có ý tả thực, nhà thơ đã viết hình ảnh hàng tre với bút pháp tượng trưng, biểu tượng (gợi ra một điều gì đó từ một hình ảnh ẩn dụ lớn).
Trước hết, hàng tre là hình ảnh hết sức thân thuộc và gần gũi của làng quê, đất nước Việt Nam. Tre đại diện cho sức sống mãnh liệt, kiên cường, bất khuất trước hoàn cảnh. Nơi đâu có đất đai, nơi ấy tre đủ sức mạnh để sinh tồn.
Hình ảnh hàng tre còn là một biểu tượng con người, dân tộc Việt Nam. Trải qua mấy nghìn năm, dân tộc Việt Nam vẫn luôn đứng vững trước âm mưu xâm lược của kẻ thù. Dù có lúc tưởng chừng như bị khuất phục, bị đồng hóa nhưng bản lĩnh kiên cường, bất khuất đã đưa dân tộc đi qua gian khổ, chiến thắng kẻ thù.
Dù “bão táp mưa sa” nhưng tre vẫn “đứng thẳng hàng”. Đó là sức mạnh tinh thần đoàn kết đấu tranh, chiến đấu anh hùng, không bao giờ khuất phục, tất cả vì độc lập tự do của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ.
Từ hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương quanh lăng Bác, nhà thơ đã suy nghĩ, liên tưởng và mở rộng khái quát thành một hình ảnh hàng tre mang ý nghĩa ẩn dụ, biểu tượng cho sức sống bền bỉ, kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Hàng tre ấy như những đội quân danh dự cùng với những loài cây khác đại diện cho những con người ở mọi miền quê trên đất nước Việt Nam tụ họp về đây xum vầy với Bác, trò chuyện và bảo vệ giấc ngủ cho Người. Nơi Bác nghỉ vẫn luôn xanh mát bóng tre xanh.
Chỉ một khổ thơ ngắn thôi nhưng cũng đủ để thể hiện những cảm xúc chân thành, thiêng liêng của nhà thơ và cũng là của nhân dân đối với Bác kính yêu.
Nhà thơ đã sử dụng một ẩn dụ nghệ thuật tuyệt đẹp để nói lên cảm nhận của mình khi đứng trước lăng Bác:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đó là mặt trời thiên tạo. Nó gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử, vĩnh hằng, hơi ấm và ánh sáng. Mặt trời là nguồn cội của sự sống, là động lực của mọi sự sống.
Hình ảnh “mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ đầy sáng tạo,độc đáo. Đó là hình ảnh của Bác Hồ, một nguồn ánh sáng, nguồn sức mạnh vĩ đại và vĩnh hằng của dân tộc. Bác Hồ soi đường dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước. Bác đã cùng nhân dân vượt qua trăm ngàn gian khổ, hi sinh để đi tới chiến thắng quang vinh, trọn vẹn. Tình yêu thương bao la của Bác tỏa hơi ấm trong lòng mỗi con người Việt Nam. Nhà thơ Tố Hữu đã so sánh Bác như: “Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”. Cái nghĩa, cái nhân lớn lao của Bác đã tác động mạnh mẽ, sâu xa tới mỗi số phận con người.
Từ láy “ngày ngày” đứng ở đầu câu vừa diễn tả sự liên tục bất biến của tự nhiên vừa góp phần vĩnh viễn hóa, bất tử hóa hình ảnh Bác Hồ trong lòng mọi người và giữa thiên nhiên vũ trụ. Hình ảnh dòng người vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêu tả một cách độc đáo và để lại nhiều ấn tượng Từ láy “ngày ngày” có nghĩa tương tự như câu thơ cầu đầu trong khổ thơ diễn tả cảnh tượng có thực đang diễn ra hàng ngày, đều đặn trong cuộc sống của con người Việt Nam: Những dòng người nặng trĩu nhớ thương từ khắp mọi miền đất nước đã về đây xếp hàng, lặng lẽ theo nhau vào lăng viếng Bác.
Bằng sự quan sát trong thực tế, tác giả đã tạo ra một hình ảnh ẩn dụ đẹp và sáng tạo: “tràng hoa”. “Tràng hoa” ở đây theo nghĩa thực là những bông hoa tươi thắm kết thành vòng hoa được những người con khắp nơi trên đất nước và thế giới về thăm dâng lên Bác để bày tỏ tình cảm, tấm lòng nhớ thương, yêu quý, tự hào của mình. “Tràng hoa” ở đây còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ từng người một đang xếp hàng viếng lăng Bác mỗi ngày là một bông hoa ngát thơm.
Những dòng người bất tận đang ngày ngày vào lăng viếng Bác nối kết nhau thành những tràng hoa bất tận. Những bông hoa – tràng hoa rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của Bác đã trở thành những bông hoa – tràng hoa đẹp nhất dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”– 79 năm cuộc đời của Người. Hình ảnh thơ trên biểu lộ tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc của nhà thơ, của nhân dân đối với Bác Hồ.
Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Đứng trước Bác, nhà thơ cảm nhận Người đang ngủ giấc ngủ bình yên, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền.
Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, cách sống cao đẹp, thanh cao, sáng trong của Bác và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người. Trăng với Bác đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để giữ giấc ngủ ngàn thu cho Người. Chỉ có thể bằng trí tưởng tượng, sự thấu hiểu và yêu quí những vẻ đẹp trong nhân cách của Hồ Chí Minh thì nhà thơ mới sáng tạo nên được những ảnh thơ đẹp như vậy!
Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”. “Trời xanh” trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực đó là hình thiên nhiên mà chúng ta hằng ngày vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng. Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn còn mãi với non sông đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng. Bác đã hóa thân thành thiên nhiên, đất nước và dân tộc. Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau xót và nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi của Bác.
“Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận trong đáy sâu tâm hồn mình: nỗi đau uất nghẹn tột cùng không nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau riêng tác giả mà của cả triệu trái tim con người Việt Nam. Lúc sinh thời, Người từng nói khi nào đất nước thống nhất, Người sẽ vào miền nam thăm đồng bào. Giờ đất nước thống nhất rồi nhưng Bác đã mãi mãi đi xa, không thực hiện được niềm mong ước ấy. nghĩ đến điều đó, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi.
Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả mâu thuẫn. Cảm giác nghe nhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Như vậy, giữa tình cảm và lý trí có sự mâu thuẫn. Con người đã không kìm nén được khoảnh khắc yếu lòng. Chính đau xót này đã làm cho tình cảm giữa lãnh tụ và nhân dân trở nên ruột già, xót xa.
Nếu ở khổ thơ đầu, nhà thơ giới thiệu mình là người con miền Nam ra thăm Bác thì trong khổ thơ cuối, nhà thơ lại đề cập đến sự chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, xa Bác, xa Hà Nội, tình cảm của nhà thơ không kìm nén, ẩn giấu trong lòng mà được bộc lộ thể hiện ra ngoài:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” như một lời giã biệt. Lời nói giản dị diễn tả tình cảm sâu lắng. Từ “trào” diễn tả cảm xúc thật mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ. Đó là không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn là của muôn triệu trái tim khác. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá.
Mặc dù lưu luyến muốn được ở mãi bên Bác nhưng tác giả cũng biết rằng đến lúc phải trở về miền Nam. Và chỉ có thể gửi tấm lòng mình bằng cách muốn hóa thân, hòa nhập vào những cảnh vật quanh lăng để được luôn ở bên Người trong thế giới của Người.
Điệp ngữ “muốn làm” cùng các hình ảnh đẹp của thiên nhiên“con chim”,”đóa hoa”,”cây tre” đã thể hiện ước muốn tha thiết, mãnh liệt của tác giả. Nhà thơ ao ước được hóa thân thành con chim nhỏ cất tiếng hót làm vui lăng Bác, thành đóa hoa đem sắc hương, điểm tô cho vườn hoa quanh lăng.
Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này” để nhập vào hàng tre bát ngát, canh giữ giấc ngủ thiên thu của Người. Hình ảnh cây tre có tính chất tượng trưng một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng.
Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn. “Cây tre trung hiếu” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu, sự trung thành vô hạn với Bác, nguyện mãi mãi đi theo con đường cách mạng mà Người đã đưa đường chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của riêng nhà thơ và cũng là ý nguyện của đồng miền Nam, của mỗi chúng ta nói chung với Bác.
Viếng lăng Bác thể hiện niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác. Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mong ước. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ – biểu tượng như “mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh” vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.
Cảm nhận Viếng lăng Bác hay nhất
Viễn Phương là cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông thường nhỏ nhẹ, giàu tình cảm, thể hiện cuộc sống ước mơ khát vọng của đồng bào Nam Bộ. “Viếng lăng Bác” là tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” được Viễn Phương viết vào tháng 4 năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa được khánh thành, Viễn Phương cùng đoàn đại biểu miền Nam đầu tiên ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác, xúc động ông đã viết lên bài thơ. Bài thơ thể hiện lòng thành kính, niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác.
Trước hết khổ thơ đầu của bài thơ đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác lúc sáng sớm. Sau hơn hai mươi năm xa cách, người con miền Nam mới được về thăm Bác, bao nỗi xúc động nghẹn ngào:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Câu thơ giản dị tự nhiên như một lời thông báo mà chứa chan tình cảm thân thương. Nhà thơ xưng “con” gọi “Bác”- cách xưng hô quen thuộc của nhân dân ta với vị lãnh tụ vừa gần gũi vừa thành kính. Đặc biệt đối với Viễn Phương còn mang theo bao tình cảm nỗi nhớ thương của miền Nam trong trái tim Bác. Tác giả không nói “ra viếng” mà là “ra thăm”- như đứa con đi xa giờ mới được về thăm cha, thăm nơi Bác nghỉ. Nỗi đau như cố giấu mà giọng thơ có gì ngậm ngùi.
Hình ảnh đầu tiên và cũng là ấn tượng đậm nét của nhà thơ về cảnh quan bên lăng là hình ảnh “hàng tre bát ngát”:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”
Hình ảnh hàng tre được miêu tả từ xa đến gần gợi trong lòng nhà thơ bao liên tưởng: cây tre từ lâu đã trở thành biểu tượng của con người Việt Nam kiên cường bất khuất “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. Hình ảnh “hàng tre bát ngát quanh lăng” trong cái nhìn xúc động của nhà thơ như hình ảnh nhân dân Việt Nam, cháu con đang quây quần tụ hội bên Bác, canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người. Ra thăm lăng Bác – một nơi trang nghiêm thành kính, người con miền Nam lại bắt gặp hình ảnh rất quen thuộc của làng quê, của đất nước. Thán từ “ôi” đã thể hiện niềm xúc động nghẹn ngào và cả sự ngạc nhiên bất ngờ của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác.
Khổ thơ thứ hai của bài thơ đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác lúc mặt trời lên. Mặt trời lên cao dần, hình ảnh mặt trời gợi trong lòng nhà thơ bao liên tưởng:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”
Hai câu thơ rực sáng hình ảnh mặt trời: mặt trời của thiên nhiên theo quy luật vận động vũ trụ “ngày ngày đi qua trên lăng”- thấy một mặt trời khác “mặt trời trong lăng rất đỏ”. “Mặt trời trong lăng rất đỏ là hình ảnh ẩn dụ chỉ về Bác Hồ: nếu như mặt trời của thiên nhiên đem lại ánh sáng, sự sống cho vạn vật thì mặt trời Bác đem lại sự tự do, hạnh phúc cho nhân dân ta. Mặt trời ấy rất đỏ như nhiệt huyết cách mạng, như trái tim yêu thương của Người. Đặt mặt trời Bác sóng đôi trường tồn với mặt trời thiên nhiên không chỉ thể hiện lòng biết ơn mà còn thể hiện lòng ngưỡng mộ ngợi ca sự bất tử của Người.
Chứng kiến dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác trong lòng nhà thơ trào dâng bao xúc động:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Cấu trúc “ngày ngày… đi” được lặp lại khẳng định quy luật tất yếu: còn mặt trời đi qua trên lăng thì còn dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác. Xếp hàng vào lăng viếng Bác đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong đời sống nhân dân ta. Dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác được liên tưởng như “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”. Đây là hình ảnh ẩn dụ đẹp giàu ý nghĩa bởi mỗi người vào lăng viếng Bác đều mang theo bao tình cảm, nỗi biết ơn người Cha già. Mỗi người là bông hoa kết thành tràng hoa dâng lên Bác với bao thương nhớ biết ơn. Hình ảnh ẩn dụ ” bảy mươi chín mùa xuân” khẳng định cuộc đời Bác mãi là những mùa xuân vĩnh hằng của dân tộc.
Sang đến khổ thơ thứ ba là cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng viếng Bác. Biết bao xúc động trào dâng khi người con miền Nam lần đầu được đối diện với Bác. Trong cái nhìn xúc động của nhà thơ hình ảnh Bác nằm trong lăng hiện ra thật đẹp:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Cả không gian thời gian như ngưng đọng trước hình ảnh có tính chất vĩnh hằng: Bác đang nằm ngủ một giấc ngủ bình yên thanh thản dưới ánh sáng dịu nhẹ của vầng trăng. Gam màu của đoạn thơ không còn chói lọi rực rỡ mà chuyển sang dịu nhẹ phù hợp với không khí tĩnh lặng trong lăng, vầng trăng như đang nâng niu giấc ngủ của Người. Hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng” vừa gợi tâm hồn sáng trong thanh cao của Bác vừa gợi những vần thơ đầy trăng của Người.
Niềm xúc động nỗi xót đau của người con miền Nam được thể hiện thật cảm động trong hai câu thơ sau:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” cũng giống như “mặt trời” ,”vầng trăng”- gợi cái vĩ đại, bất tử của Bác. Trong tâm tưởng của mỗi người con miền Nam, của nhân dân Việt Nam Bác vẫn còn sống mãi với non sông đất nước như trời xanh kia còn mãi. Người đã hóa vào thiên nhiên đất nước núi rừng sự nghiệp của Người mãi là bất tử. Dù vẫn vững tin như thế nhưng trở lại thực tế khi người con miền Nam xa xôi về đến bên Bác thì Bác không còn nữa, nỗi xót đau không gì bù đắp nổi “nghe nhói ở trong tim”. Kết cấu “vẫn biết…mà sao” tưởng như đối lập nhau mà lại hài hòa, thống nhất với nhau trong cảm xúc của người con miền Nam khi lần đầu đối diện với Bác.
Khổ thơ cuối kết thúc bài thơ đã thể hiện ước nguyện của nhà thơ khi nghĩ đến mai về miền Nam. Niềm xúc động trào dâng khi nhà thơ nghĩ đến mai về miền Nam:
“Mai về miền nam thương trào nước mắt”
Câu thơ có cách diễn đạt mộc mạc mà đằm thắm của người Nam Bộ: mai về có nghĩa là chưa về vậy mà đã thấy nhớ thấy thương thấy lưu luyến “thương trào nước mắt”.
Tình cảm ấy đã chắp cánh cho những ước nguyện được hóa thân vào những cảnh vật ở quanh lăng Bác để mãi được ở bên Bác không rời xa:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đấy
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Nhà thơ muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, muốn làm đóa hoa tỏa hương thơm ngát bên lăng, muốn làm cây tre trung hiếu hòa nhập vào hàng tre bát ngát quanh lăng. Những ước nguyện ấy thật nhỏ bé mà thật đẹp bởi đều là những ước nguyện dâng hiến cho Bác, cho dân tộc. Điệp ngữ “muốn làm” tạo nhịp thơ dồn dập nhấn mạnh những ước nguyện thiết tha chân thành của nhà thơ. Đặc biệt kết thúc bài thơ ta bắt gặp hình ảnh “cây tre trung hiếu”. Hình ảnh cây tre được lặp lại ở khổ thơ đầu tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng làm trọn vẹn cho mạch cảm xúc của nhà thơ. Nhà thơ muốn hòa nhập vào hàng tre bát ngát quanh lăng. Hình ảnh ẩn dụ “cây tre trung hiếu” hay tấm lòng của người con miền Nam, của nhân dân Việt Nam một lòng trung hiếu với bác nguyện đi theo con đường mà Bác đã chọn.
Bài thơ đã rất thành công khi sử dụng những nghệ thuật đặc sắc. Đó là thể thơ tám chữ đan xen những dòng bảy chữ, chín chữ phù hợp với nội dung cảm xúc. Giọng điệu bài thơ vừa trang nghiêm sâu lắng vừa thiết tha đau xót tự hào, phù hợp với tâm trạng cảm xúc khi vào lăng viếng Bác. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng. Đặc biệt trong bài thơ có nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp gợi sự suy ngẫm sâu xa: “mặt trời”, “trời xanh”, ” tràng hoa”. Với những nét đặc sắc nghệ thuật ấy, bài thơ đã thể hiện lòng thành kính niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác. “Viếng lăng Bác” là nén tâm hương mà người con miền Nam thành kính dâng lên bác kính yêu. Cùng với “Trường ca theo chân Bác” của Tố Hữu, “Hoa trước lăng Người” của Chế Lan Viên,… “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương đã góp phần làm phong phú đề tài Bác Hồ trong thơ ca hiện đại. Ngay từ khi ra đời bài thơ đã được khẳng định và trở thành tiếng lòng chung của mỗi người con Việt Nam đối với Bác. “Viếng lăng Bác” là một trong những thành công sớm nhất viết về Người sau ngày Bác đã đi xa.
Như vậy với thể thơ tám chữ giọng điệu vừa trang nghiêm sâu lắng vừa thiết tha đau xót tự hào, bài thơ đã thể hiện lòng thành kính niềm xúc động của nhà thơ cũng như của mọi người đối với Bác khi vào lăng viếng Bác. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng chung của riêng nhà thơ mà còn là tiếng lòng chung của tất cả mọi người đối với Bác. Chính vì vậy bài thơ có sức sống mãi trong lòng người đọc.
….
>> Tải file để tham khảo các mẫu còn lại!
Bài viết được sgkphattriennangluc.vn tham khảo từ nguồn:
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%85n_Ph%C6%B0%C6%A1ng
https://haylamdo.com/soan-van-lop-9/tac-gia-tac-pham-vieng-lang-bac.jsp
https://tailieumoi.vn/tai-lieu/19281/vieng-lang-bac-tac-gia-tac-pham-ngu-van-lop-9-bxw6x
https://vietjack.com/ngu-van-9/vieng-lang-bac.jsp
https://luatduonggia.vn/hoan-canh-sang-tac-bai-tho-vieng-lang-bac-cua-vien-phuong/
https://download.vn/bai-tho-vieng-lang-bac-40138
https://loigiaihay.com/vieng-lang-bac-vien-phuong-a84158.html
https://download.vn/bai-tho-vieng-lang-bac-40138#:~:text=1.-,Ho%C3%A0n%20c%E1%BA%A3nh%20s%C3%A1ng%20t%C3%A1c,xu%C3%A2n%20(th%C6%A1%2C%201978).
https://luatduonggia.vn/phan-tich-bai-tho-vieng-lang-bac-cua-vien-phuong-sieu-hay/#:~:text=Ch%E1%BB%A7%20%C4%91%E1%BB%81%20th%C6%A1%20%C3%B4ng%20l%C3%A0,tr%C3%A0o%20d%C3%A2ng%20khi%20ra%20v%E1%BB%81.